38. Lễ Phật hiện quang (禮
佛 現
光)
Phẩm này nói rơ từ ân vô cực của bậc đạo
sư hai cơi, gia bị hết thảy chúng hội khiến
cho khắp tất cả được tận mắt thấy
y báo và chánh báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc.
Gia Tường Sớ viết: “Hiện cơi nước khiến cho người ta
ưa thích, hâm mộ. Tuy trước đó đă nghe giảng
về cơi nước mầu nhiệm, nhưng chưa
được chính mắt thấy. Bởi thế, ở
đây Phật hiện cơi nước để tất cả
đều hâm mộ mà tu hành”.
Ngài Nghĩa Tịch cũng bảo: “Từ đầu tới đây đă giảng về
nhân quả, thân và cơi nước của A Di Đà Phật, chúng
hội đều được
nghe, trí huệ thù thắng đă phát sanh, nhưng chưa tin
hiểu hết: Kẻ hạ căn trí huệ kém cỏi vẫn
chưa quyết định. Hơn nữa, tai nghe chẳng
bằng mắt thấy. V́ thế, tiếp đó A Di Đà Phật
lại ban thêm sức oai thần
để đại chúng đây đều được
tận mắt thấy những chuyện trong cơi ấy xong
ắt sẽ tin tưởng những điều đă nghe
quyết định chẳng phải là hư vọng. Lại
muốn cho họ biết
cơi ấy là Tịnh Độ trang nghiêm, ai nấy đều
siêng tu hạnh nghiệp văng sanh”. Thêm nữa, chúng hội
đương thời được thấy tận mắt
th́ chẳng phải riêng người được thấy
khi ấy được lợi lạc mà c̣n để chứng
tín cho kẻ được nghe pháp trong đời sau biết
chắc thế giới Cực Lạc đích xác thật
có, chứ phải đâu là cơi Ô Thác Bang (Utopia[1])
hay là chuyện ngụ ngôn của Trang Sinh. Do tin nên khởi
hạnh, dùng nguyện để hướng dẫn hạnh,
chí tâm tin ưa cầu sanh Cực Lạc, ắt đều
được độ thoát. Đấy mới là bổn hoài
của bậc đạo sư hai cơi.
Chánh kinh:
佛 告 阿 難:若 曹 欲 見 無 量 清 淨 平 等 覺,及 諸 菩 薩、阿 羅 漢 等 所 居 國 土,應 起 西 向,當 日 沒 處,恭 敬 頂 禮,稱 念 南 無 阿 彌 陀 佛。
Phật cáo A Nan: - Nhược
tào dục kiến Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác, cập chư Bồ Tát, A La Hán đẳng sở
cư quốc độ, ưng khởi Tây hướng,
đương nhật một xứ, cung kính đảnh lễ,
xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.
Phật bảo A Nan: - Các ông muốn thấy Vô Lượng Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác Phật và các Bồ Tát, A La Hán v.v... đang
ngự trong cơi ấy th́ hăy nên đứng dậy hướng
về phương Tây là phía mặt trời lặn, cung kính
đảnh lễ, xưng niệm “
Giải:
Bản Hán dịch ghi danh hiệu Vô Lượng Thọ
Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, hoặc
gọi tắt là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.
Hướng về Tây v́ đức Phật “thù nguyện độ sanh, hiện
tại Tây Phương” (nhằm
đáp ứng cái nguyện độ sanh nên hiện đang
ở phương Tây). Pháp môn Tịnh Độ chỉ
phương lập hướng khiến cho chúng sanh chuyên
nhất. Đức Phật ấy hiện đang ở Tây
phương nên đại chúng hướng về Tây.
“Xưng niệm Nam Mô A Di Đà
Phật” là muốn thấy Phật th́ phải niệm
Phật. Đức Phật ta thấy ấy chính là nhất niệm
tâm tánh của người niệm: Tâm này là Phật, tâm này
làm Phật. Lại do các đức Như Lai của hai cơi
gia bị nên cảm ứng đạo giao, ngay trong khi niệm
ấy liền được thấy.
Chánh kinh:
阿 難 即 從 座 起,面 西 合 掌,頂 禮 白 言:我 今 願 見 極 樂 世 界 阿 彌 陀 佛,供 養 奉 事,種 諸 善 根。頂 禮 之 間,忽 見 阿 彌 陀 佛,容 顏 廣 大,色 相 端 嚴。如 黃 金 山,高 出 一 切 諸 世 界 上。又 聞 十 方 世 界,諸 佛 如 來,稱 揚 讚 歎 阿 彌 陀 佛 種 種 功 德,無 礙 無 斷。
A
A
Giải:
A
Chữ “hốt kiến” (忽 見: chợt thấy) biểu thị
sự cảm ứng thần tốc. Đảnh lễ
chưa xong mắt đă thấy đấng giáo chủ cơi
Cực Lạc và nghe các đức Như Lai khắp cả
mười phương khen ngợi Phật Di Đà.
Sách Hội Sớ viết: “Đó
là v́ cơi nước không có tướng nhất định,
tịnh hay uế là do tâm. Ví như chư thiên cùng dùng bát bằng
chất báu để ăn như nhau, nhưng tùy theo
phước đức mỗi vị mà sắc cơm sai
khác. Bởi vậy, nếu nghiệp cấu che lấp cái
tâm th́ kim dung cũng như
tro bẩn. Ngón chân nhấn xuống đất th́ ngói, sạn
biến thành bảo ngọc; thân và cơi cũng giống
như vậy mà thôi! Bởi đó, biết là Tây
phương chẳng xa, nhưng do tâm mê nên liền thành xa
cách. Nếu có thể nhất niệm quy chân th́ văng sanh thấy
được cơi nước, c̣n cách trở là niệm hay
thời nữa ư?”
Lời sớ thật đă giảng tường tận
ư chỉ “tâm tịnh, quốc
độ tịnh”. Kinh Tịnh Danh nói: Phật dùng ngón
chân nhấn xuống đất, cơi này biến ngay thành cơi tịnh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng chép: “Ngă chỉ án địa, hải ấn phát quang” (Ngón tay của ta nhấn xuống
đất th́ hải ấn phát quang). Quang minh phát ra ấy
nào phải v́ chân hay tay! A
“Nhan” (顏) là diện mạo,
“quảng đại” là
như Quán kinh nói Vô Lượng Thọ Phật: “Phật
thân cao lục thập vạn ức hằng hà sa do-tuần.
Mi gian bạch hào, hữu triền uyển chuyển, như
ngũ Tu Di sơn, Phật nhăn như tứ đại hải
thủy” (Thân cao sáu mươi vạn ức hằng hà
sa do-tuần. Tướng lông trắng giữa chặn mày
uyển chuyển xoay về bên phải như năm ḥn núi
Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển lớn).
“Sắc tướng đoan
nghiêm” là tướng hảo trang nghiêm. Quán kinh nói: “Vô Lượng Thọ Phật hữu
bát vạn thiên tướng, nhất nhất tướng
trung các hữu bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo, nhất
nhất hảo trung, hựu hữu bát vạn tứ thiên
quang minh” (Vô Lượng
Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng; trong mỗi
một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo;
trong mỗi tùy h́nh hảo lại có tám vạn bốn ngàn
quang minh).
“Hoàng kim sơn” (Ṭa núi vàng ṛng)
là như Quán kinh nói: “Vô Lượng
Thọ Phật thân như bách thiên vạn ức Dạ Ma
Thiên Diêm Phù Đàn kim dă” (Sắc
thân Vô Lượng Thọ Phật như trăm ngàn vạn
ức vàng Diêm Phù Đàn của cơi trời Dạ Ma). Lại có nghĩa là thân
Phật ṿi vọi như núi nên bảo là “như hoàng kim sơn”.
Tuy A Nan và những người có cùng quả vị
như Ngài hay thấp hơn chẳng thể thấy trọn
hết báo thân trang nghiêm như thế, nhưng do v́ đấng
Như Lai của hai cơi dùng phương tiện thù thắng
oai thần gia bị, nên ai nấy tùy theo căn khí của
ḿnh đều được thấy cả. Bởi
đó, ngài A Nan liền thấy được Phật “như hoàng kim
sơn, cao xuất nhất thiết chư thế giới
thượng” (như ṭa núi
vàng ṛng, cao vượt khỏi hết thảy thế giới).
“Vô ngại, vô đoạn”: Mười
phương Như Lai dùng Tứ Biện Tài nhiệm mầu
để diễn nói nên bảo là “vô ngại”. Ca ngợi như thế đến tột
cùng đời vị lai chẳng hề gián đoạn nên
bảo là “vô đoạn”.
Chánh
kinh:
阿 難 白 言:彼 佛 淨 剎 得 未 曾 有,我 亦 願 樂 生 於 彼 土。世 尊 告 言:其 中 生 者,已 曾 親 近 無 量 諸 佛,植 眾 德 本。汝 欲 生 彼,應 當 一 心 歸 依 瞻 仰。
A
A
Giải:
A
Thế Tôn đáp: Những người được
văng sanh đều đă từng ở nơi vô lượng
chư Phật thân cận cúng dường, phụng sự,
học tập, rộng gieo cội đức đúng
như kinh A Di Đà nói: “Bất khả
dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân
duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể dùng chút thiện căn phước
đức nhân duyên để được sanh về cơi ấy).
Ở đây, kinh chép: “Nhữ dục sanh bỉ, ưng
đương nhất tâm quy y chiêm ngưỡng” (Ông muốn sanh về cơi ấy th́ hăy nên nhất
tâm, quy y, chiêm ngưỡng). “Chiêm”
(瞻) là ngẩng mặt lên nh́n, “ngưỡng” (仰) là ngưỡng mộ.
Câu “quy y, chiêm ngưỡng”
bao gồm các ư nghĩa lễ Phật, quán Phật, niệm
Phật, tưởng nhớ đức Phật, mà cũng
chính là Ngũ Niệm Môn như Bồ Tát Thiên Thân đă
đề xướng. Ngũ Niệm Môn là: Một là lễ
bái, hai là tán thán (xưng danh), ba là phát nguyện, bốn là
quán sát, năm là hồi hướng. Nói tóm lại, nhất tâm xưng niệm sáu chữ
hồng danh th́ đă gồm trọn cả Ngũ Niệm
Môn.
Nhất tâm là tâm thanh tịnh. Lại như bản kinh
A Di Đà khắc trên đá ở thành Tương Dương
vào thời Lục Triều có câu: “Dĩ xưng danh cố, chư tội tiêu diệt, tức
thị đa thiện căn, phước đức, nhân
duyên” (Do xưng danh nên các
tội tiêu diệt; đấy chính là nhiều thiện
căn, phước đức, nhân duyên). V́ thế,
ngài A Nan nhất tâm quy y, chiêm ngưỡng th́ chính là nhiều
thiện căn, phước đức, nhân duyên, cũng giống
như người được văng sanh là do đă từng
thân cận vô lượng chư Phật, trồng các cội
đức nên mới được thỏa nguyện văng
sanh.
Chánh kinh:
作 是 語 時,阿 彌 陀 佛 即 於 掌 中 放 無 量 光,普 照 一 切 諸 佛 世 界。時 諸 佛 國,皆 悉 明 現,如 處 一 尋。以 阿 彌 陀 佛 殊 勝 光 明,極 清 淨 故,於 此 世 界 所 有 黑 山、雪 山、金 剛、鐵 圍 大 小 諸 山,江 河 叢 林,天 人 宮 殿,一 切 境 界,無 不 照 見。譬 如 日 出,明 照 世 間。乃 至 泥 犁、谿 谷,幽 冥 之 處,悉 大 開 闢,皆 同 一 色。猶 如 劫 水 彌 滿 世 界,其 中 萬 物,沉 沒 不 現,滉 瀁 浩 汗,唯 見 大 水。彼 佛 光 明,亦 復 如 是。聲 聞、菩 薩 一 切 光 明,悉 皆 隱 蔽,唯 見 佛 光,明 耀 顯 赫。
Tác thị
ngữ thời, A Di Đà Phật tức
ư chưởng trung phóng vô lượng quang, phổ chiếu
nhất thiết chư Phật thế giới. Thời chư Phật
quốc, giai tất minh hiện, như xử nhất tầm.
Dĩ A Di Đà Phật thù thắng quang minh, cực thanh tịnh
cố, ư thử thế giới sở hữu Hắc
Sơn, Tuyết Sơn, Kim Cang, Thiết Vy đại tiểu
chư sơn, giang hà, tùng lâm, thiên nhân cung điện, nhất
thiết cảnh giới, vô bất chiếu kiến. Thí
như nhật xuất, minh chiếu thế gian. năi chí Nê Lê, khê cốc, u minh chi xứ, tất
đại khai tịch, giai đồng nhất sắc. Do
như kiếp thủy di măn thế giới, kỳ trung vạn
vật, trầm một bất hiện, hoảng dưỡng
hạo hăn, duy kiến đại thủy. Bỉ Phật
quang minh, diệc phục như thị. Thanh Văn, Bồ
Tát nhất thiết quang minh, tất giai ẩn tế. Duy kiến Phật quang, minh diệu hiển hách.
Lúc nói lời ấy,
A Di Đà Phật liền từ bàn tay phóng ra vô lượng
quang chiếu khắp hết thảy các thế giới Phật.
Khi ấy, các cơi Phật đều hiện rơ như chỉ
ở trong ṿng một tầm. Do quang minh thù thắng của
A Di Đà Phật tột bậc thanh tịnh nên tất cả
Hắc sơn, Tuyết Sơn, Kim Cang, Thiết Vy, các ḥn núi
lớn nhỏ, sông ng̣i, rừng rậm, cung điện của
trời người, hết thảy cảnh giới trong
các thế giới ấy không đâu chẳng soi thấy. Ví
như mặt trời mọc lên chiếu sáng ngời thế
gian. Cho đến Nê Lê, khe, hang, chốn tối tăm thảy
đều sáng bừng, đều cùng một màu như là
kiếp thủy ngập tràn khắp thế giới, vạn
vật trong ấy đều bị ch́m lấp chẳng hiện;
mênh mông, bát ngát chỉ thấy toàn là nước lớn.
Quang minh của đức Phật ấy cũng giống
như thế. Hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ
Tát thảy đều bị ẩn lấp, chỉ có quang
minh của Phật là sáng ngời, rực rỡ.
Giải:
Đấng Đạo Sư của cơi thế gian này vừa dứt
lời th́ đức Như Lai cơi kia liền từ ḷng bàn
tay phóng ra quang minh; điều này chứng tỏ: Thích Tôn
khuyên văng sanh, Phật Di Đà tiếp dẫn. Hai đức Phật
trong hai cơi đồng tâm, đồng đức.
Phật quang phổ chiếu hết thảy cơi Phật
biểu thị Phật Di Đà tiếp độ cho hết thảy
phàm thánh trong mười phương đều được
văng sanh. Do Phật quang gia tŕ, đại chúng trong hội
đều được thấy mười phương
cơi Phật như trong khoảng một tầm (một Tầm
là tám thước).
Quang minh của Phật Di Đà tôn quư nhất trong các quang
minh nên bảo là “thù thắng”.
Sở dĩ quang minh thù thắng bởi lẽ“cực thanh tịnh cố” (tột bậc thanh tịnh).
Do vậy, hết thảy núi sông, cảnh vật trong những
thế giới ấy: Chẳng hạn như Hắc
Sơn (c̣n gọi là Hắc lănh. Đây là tên của một ngọn
núi được ghi trong Tây Vực Kư và Từ Ân Truyện),
Tuyết Sơn (tiếng Phạn là Himalaya, tức là Hỷ
Mă Lạp Nhă sơn, đảnh núi quanh năm tuyết
đọng nên gọi là Tuyết Sơn); Kim Cang, Thiết
Vy (đều là tên núi, xin xem lời giải thích trong phẩm
mười một); hết thảy những thứ như
thế “vô bất chiếu kiến”
(không đâu chẳng soi thấy).
Tiếp đó, kinh nêu lên thí dụ: Mặt trời mọc
th́ tối tăm tiêu mất, chẳng luận là hang hốc
hay “u minh chi xứ” (chỉ
chốn hang sâu cực tối tăm) và “năi chí Nê Lê (cho đến Nê Lê - Nê Lê là địa
ngục) đều được sáng bừng, hiện rơ
nên bảo là “tất đại
khai tịch” (thảy đều sáng bừng). Hết thảy
mọi vật “giai đồng
nhất sắc” (đều cùng một sắc).
Theo Quán kinh, “nhất sắc”
chính là màu vàng ṛng, như trong phép quán thứ bảy của
Quán kinh có nói: “Vô Lượng Thọ Phật, lập không
trung, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thị nhị
đại sĩ, thị lập tả hữu. Quang minh xí
thịnh, bất khả cụ kiến. Bách thiên Diêm Phù
Đàn kim sắc, bất đắc vi tỷ” (Vô Lượng
Thọ Phật đứng trên không trung. Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí là hai vị đại sĩ đứng hầu
hai bên. Quang minh rực rỡ chẳng thể thấy trọn.
Sắc của trăm ngàn khối vàng Diêm Phù Đàn chẳng thể
sánh bằng).
Trong pháp quán thứ tám cũng có nói: “ Phật Bồ Tát tượng giai phóng quang minh, kỳ
quang kim sắc” (Tượng
Phật và Bồ Tát đều phóng quang minh. Quang minh ấy
sắc vàng). Pháp quán thứ mười lăm lại
nói: “Kiến A Di Đà Phật
dữ chư quyến thuộc, phóng kim sắc quang” (Thấy A Di Đà Phật và các quyến
thuộc phóng quang minh sắc vàng).
Lại như kinh Thất Phật Thần Chú đă dạy:
“Kỳ trung sở hữu nhất
thiết vạn vật, giai tác kim sắc” (Trong ấy, hết thảy vạn
vật đều thành sắc vàng). Lại như kinh
Pháp Hoa thuật: Lúc Phật phóng quang hiện điềm
lành “chiếu ư Đông
phương bát vạn thiên độ, giai như kim sắc”
(chiếu một vạn
tám ngàn cơi nơi phương Đông [khiến các cơi ấy]
đều như sắc vàng).
Hiểu ở một mức cao hơn, “nhất sắc”
ngụ ư vạn pháp nhất như (giống hệt như
nhau); trong diệu trí quang của Phật đều hiển
hiện bản thể thanh tịnh, tướng sai biệt
biến mất, chỉ c̣n tướng chân thật hiển
lộ. Bởi thế “giai
đồng nhất sắc”.
Tiếp đó, kinh lại dùng kiếp thủy làm thí dụ.
“Kiếp thủy” là một
trong tam tai; tức là đại thủy tai lúc kiếp hoại.
Nước từ dưới thủy luân[2]
ở dưới mặt đất phun vọt lên, mưa
tuôn xuống mỗi giọt to như bánh xe. Từ trời
Đệ Nhị Thiền trở xuống đều bị
nước ngập phá hủy hết. Chữ “hoảng dưỡng” (滉 瀁
) diễn tả nước lớn
không c̣n biết đâu là bến bờ. Chữ “hạo hăn” (浩 汗) h́nh dung nước lớn bao la (Đối với
câu kinh văn này, có thể tham khảo bài Tây Chinh Phú của
Phan Nhạc trong bộ Văn Tuyển: “Năi hữu Côn Minh, tŕ hồ kỳ trung, kỳ tŕ tắc
thang thang hăn hăn, hoảng dưỡng di măn, hạo như hà hán” (Có ao Côn Minh,
trong ao nước tràn trề, bát ngát, mênh mông lai láng, bao la
như Ngân Hà). Bản Đường dịch ghi là: “Thí như đại địa,
hồng thủy doanh măn, thọ lâm sơn hà, giai một bất
hiện, duy hữu đại thủy” (Ví như đại
địa, trận hồng thủy ngập tràn, cây cối,
núi sông đều bị vùi lấp chẳng hiện, chỉ
toàn là nước lớn). Nước lớn ví cho Phật
quang, cây cối ví với “Thanh
Văn, Bồ Tát nhất thiết quang minh” (quang minh của
hết thảy Thanh Văn, Bồ Tát). Cũng như ánh sáng
của các ngôi sao khi mặt trời mọc lên, các ánh sao chẳng
hiện nên bảo là “tất
giai ẩn tế, duy kiến Phật quang, minh diệu hiển
hách” (thảy đều ẩn lấp; chỉ thấy
Phật quang sáng ngời, rực rỡ). “Minh” (明) là sáng sủa, “diệu” (耀) là chiếu ngời, “hiển” (顯) là rơ rệt, “hách” (赫) là sáng rực
(giống như tướng lửa mạnh, cũng nhằm
diễn tả ánh sáng sắc đỏ chói ngời).
Chánh kinh:
此 會 四 眾、天 龍 八 部、人 非 人 等, 皆 見 極 樂 世 界,種 種 莊 嚴。阿 彌 陀 佛,於 彼 高 座,威 德 巍 巍,相 好 光 明,聲 聞、菩 薩,圍 繞 恭 敬。譬 如 須 彌 山 王,出 於 海 面。明 現 照 耀,清 淨 平 正。無 有 雜 穢,及 異 形 類。唯 是 眾 寶 莊 嚴,聖 賢 共 住。阿 難 及 諸 菩 薩 眾 等,皆 大 歡 喜,踊 躍 作 禮,以 頭 著 地,稱 念 南 無 阿 彌 陀 三 藐 三 佛 陀。
Thử hội
tứ chúng, thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng, giai kiến
Cực Lạc thế giới, chủng chủng trang nghiêm.
A Di Đà Phật ư bỉ
cao tọa, oai đức nguy nguy, tướng hảo quang
minh, Thanh Văn, Bồ Tát, vi nhiễu
cung kính. Thí như Tu Di sơn vương, xuất ư hải
diện, minh hiện chiếu diệu, thanh tịnh b́nh
chánh, vô hữu tạp uế, cập dị h́nh loại. Duy thị chúng bảo trang nghiêm, thánh hiền cộng
trụ. A Nan cập chư Bồ Tát chúng đẳng,
giai đại hoan hỷ, dũng dược tác lễ,
dĩ đầu trước địa, xưng niệm
Nam Mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà.
Bốn chúng
trong hội này, tám bộ trời, rồng, nhân, phi nhân v.v…
đều thấy Cực Lạc thế giới các thứ
trang nghiêm, A Di Đà Phật ngự trên ṭa cao trong cơi ấy, oai
đức ṿi vọi, tướng hảo, quang minh. Thanh
Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh. Ví như núi chúa Tu Di nhô lên
khỏi mặt biển, rạng ngời chói lọi, thanh tịnh,
b́nh chánh, chẳng có tạp uế cùng các loài dị h́nh, chỉ
trang nghiêm bằng các báu, là nơi các vị thánh hiền cùng
ở. A
Giải:
“Thử hội tứ chúng” (Bốn chúng
trong hội này) là chúng đại tỳ-kheo một vạn
hai ngàn vị, năm trăm vị tỳ-kheo-ni, bảy ngàn
thanh tín sĩ, năm trăm thanh tín nữ. Lại có Phổ
Hiền, Văn Thù, Di Lặc, mười sáu vị Chánh
Sĩ và vô lượng vô biên hết thảy Bồ Tát trong
Hiền kiếp.Từ các vị Phạm thiên cho đến
“thiên long bát bộ, nhân, phi nhân
đẳng” (tám bộ trời rồng, nhân, phi nhân v.v…)
đều là hội chúng (đại chúng tham dự pháp hội).
Câu “giai kiến Cực Lạc
thế giới” (đều thấy Cực Lạc thế
giới) ư nói: Mọi người dự hội đều
được thấy. Tứ chúng đệ tử trong
pháp hội cơi này gồm hai vạn người đều
là thân huyết nhục mà ai ai cũng đều thấy thế
giới Cực Lạc, họ đều là người chứng
thực cho hết thảy chúng sanh trong lúc ấy và đời
tương lai sau. Tướng lành thù thắng này được
cả năm bản dịch cùng ghi chép.
Bản Hán dịch ghi: “A
Nan, chư Bồ Tát, A La Hán đẳng, cập chư thiên,
đế vương, nhân dân, tất giai kiến Vô Lượng
Thanh Tịnh Phật cập chư Bồ Tát, A La Hán, quốc
độ thất bảo dĩ” (A Nan, chư Bồ Tát,
A La Hán v.v… và chư thiên, đế vương, nhân dân đều
thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát,
A La Hán, cơi nước bảy báu). Bản Ngô dịch chép giống
như thế, nhưng ghi là A Di Đà thay v́ Vô Lượng Thanh
Tịnh Phật.
Bản Ngụy dịch chép: “Vô
Lượng Thọ Phật oai đức nguy nguy, như Tu
Di sơn vương, cao xuất nhất thiết chư thế
giới thượng. Tướng hảo, quang minh, mỵ
bất chiếu kiến. Thử hội tứ chúng, nhất
thời tất kiến” (Vô Lượng Thọ Phật
oai đức ṿi vọi như núi chúa Tu Di, cao vượt
khỏi hết thảy các thế giới; tướng hảo,
quang minh không ǵ là chẳng soi tỏ. Tứ chúng trong hội
ấy cùng lúc đều được thấy) và: “Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tất kiến Vô Lượng Thọ
Như Lai” (Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di đều thấy Vô Lượng Thọ Như
Lai).
Bản Đường dịch chép: “Bỉ chư quốc trung, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà tắc, ưu-bà-di, tất kiến Vô Lượng
Thọ Như Lai, như Tu Di sơn vương chiếu
chư Phật sát. Thời chư Phật quốc giai tất
minh hiện, như xử nhất tầm” (Trong các cơi ấy,
tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều
thấy Vô Lượng Thọ Như Lai như ngọn núi
chúa Tu Di chiếu các cơi Phật. Khi ấy, các cơi Phật thảy
đều hiện rơ như ở trong ṿng một tầm).
Bản Tống dịch chép: “Nhĩ
thời hội trung bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, Thiên, Long, Dược-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân đẳng,
giai kiến Cực Lạc thế giới chủng chủng
trang nghiêm, cập kiến Vô Lượng Thọ Như Lai,
Thanh Văn, Bồ Tát vi nhiễu cung kính. Thí như Tu Di
sơn vương, xuất ư đại hải” (Lúc ấy,
bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, Trời,
Rồng, Dược-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân v.v… trong hội đều thấy
các thứ trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc và thấy
Vô Lượng Thọ Như Lai. Thanh Văn, Bồ Tát cung
kính vây quanh. Ví như ngọn núi chúa Tu Di, vượt lên trên
biển cả). Năm bản dịch cùng đề cập
th́ đủ chứng tỏ việc Phật Di Đà xuất
hiện chứng tín là điều được nói trong bản
kinh gốc chứ chẳng phải là do dịch thuật
sai lầm.
Hội chúng khi ấy liền được thấy
các thứ y báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc, lại
thấy chánh báo là A Di Đà Phật công đức ṿi vọi,
tướng hảo, quang minh, thánh chúng vây quanh “thí như Tu Di sơn
vương, xuất ư hải diện” (ví như ngọn
núi chúa Tu Di nhô lên khỏi mặt biển). Núi Tu Di nói đủ
là Tu Di Lô (Sumeru) sơn vương, là một trong mười
ḥn núi chúa. Ḥn núi này chẳng phải là núi đất hay núi
đá như của thế gian mà thuần bằng bốn
chất báu hợp thành nên bảo là “vô hữu tạp uế, cập dị h́nh loại,
duy thị chúng bảo trang nghiêm” (chẳng có tạp uế
và các loài dị h́nh, chỉ trang nghiêm bằng các báu). Chánh
báo quang minh vô lượng nên bảo là “minh hiện chiếu
diệu” (rạng ngời chói
lọi, thanh tịnh), y báo “khoan quảng b́nh chánh” (rộng
răi, bằng phẳng, ngay ngắn), “thanh tịnh an ổn”
cho nên nói “thanh tịnh b́nh chánh”.
Do “Thanh Văn, Bồ Tát vi
nhiễu cung kính” (Thanh
Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh) nên bảo là “thánh hiền cộng trụ” (thánh
hiền cùng ở).
“A Nan cập chư Bồ
Tát chúng đẳng” (A Nan và các hàng Bồ Tát v.v…): A Nan là
đương cơ nên được nêu tên đầu
tiên; “Bồ Tát chúng đẳng”
nghĩa là các vị Thanh Văn, trời, người v.v…
được nhờ ân mà trông thấy điềm lành nên
đều hoan hỷ, mừng rỡ. Do vậy, ai nấy
đều năm vóc gieo xuống đất, chí thành
xưng niệm “
Chánh kinh:
諸 天 人 民,以 至 蜎 飛 蠕 動,覩 斯 光 者,所 有 疾 苦,莫 不 休 止,一 切 憂 惱,莫 不 解 脫。悉 皆 慈 心 作 善,歡 喜 快 樂。鐘 磬、琴 瑟、箜 篌 樂 器,不 鼓 自 然 皆 作 五 音。諸 佛 國 中,諸 天 人 民,各 持 花 香,來 於 虛 空,散 作 供 養。
Chư thiên nhân dân, dĩ chí
quyên phi nhuyễn động, đổ tư quang giả,
sở hữu tật khổ, mạc bất hưu chỉ,
nhất thiết ưu năo, mạc bất giải thoát, tất
giai từ tâm tác thiện, hoan hỷ, khoái lạc. Chung,
khánh, cầm, sắt, không hầu, nhạc khí, bất cổ
tự nhiên giai tác ngũ âm. Chư Phật
quốc trung, chư thiên nhân dân, các tŕ hoa
hương, lai ư hư không, tán tác cúng dường.
Chư thiên, nhân dân cho đến những loài trùng ngọ
nguậy, bay lượn, ḅ trườn thấy quang minh ấy
th́ tất cả tật khổ không chi chẳng ngưng dứt,
hết thảy ưu năo không thứ ǵ chẳng giải
thoát, đều từ tâm làm lành, hoan hỷ, khoái lạc. Chuông, khánh, cầm, sắt, không hầu, nhạc
khí chẳng đánh tự nhiên phát ra ngũ âm. Chư thiên,
nhân dân trong các cơi Phật đều cầm hương hoa
đến trên hư không rải xuống cúng dường.
Giải:
Đoạn kinh này lại tŕnh bày những việc thành tựu
do điều nguyện thứ mười bốn của A
Di Đà Phật: “Chạm phải
quang minh được an lạc”. Trong lời nguyện
ấy có câu: “Kiến ngă quang
minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ
tâm tác thiện” (Thấy quang minh của tôi chiếu vào
thân không ai chẳng được an lạc, từ tâm làm
lành) tức là những
điều được nói trong đoạn chánh kinh trên
từ câu “đổ tư quang
minh” (thấy quang minh ấy) cho đến “tất giai từ tâm tác thiện,
hoan hỷ khoái lạc” (thảy đều từ tâm làm
lành, hoan hỷ, khoái lạc).
Phẩm Quang Minh Biến Chiếu cũng chép: “Nhược tại tam đồ
cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc
hưu tức” (Nếu kẻ ở trong chốn tam đồ
khổ cực mà trông thấy quang minh này th́ đều
được ngơi nghỉ).
Bởi thế, ở đây kinh mới chép: “Quyên phi nhuyễn động,
đổ tư quang giả, sở hữu tật khổ,
mạc bất hưu chỉ, nhất thiết ưu năo, mạc
bất giải thoát” (Các loài côn trùng
bay lượn, ngọ nguậy, ḅ trườn thấy
quang minh ấy th́ tất cả tật khổ không chi chẳng
ngưng dứt, hết thảy ưu năo không thứ ǵ chẳng
giải thoát).
Các thứ nhạc khí như chuông, khánh, đàn cầm,
đàn sắt, đàn không hầu[3]
v.v… không cần phải khảy, đánh; tự nhiên phát ra
âm thanh nên bảo là “bất cổ
tự nhiên giai tác ngũ âm” (chẳng đánh, tự nhiên
đều phát ra ngũ âm).
Do kinh đă chép tỉ mỉ các việc tốt lành: Thấy
Phật, thấy quang minh, thấy cơi nước v.v… nên ắt
sẽ có kẻ cho đó là cái lỗi chấp tướng.
Tiếc thay kẻ ấy chưa biết được
điều mầu nhiệm của Tịnh tông: Chính ngay
nơi tướng là đạo, ngay nơi sự chính là
chân, nên chẳng cần phải bỏ tướng để
cầu đạo, ĺa sự để thấy chân! Kinh này
thuần là cảnh giới sự sự vô ngại của
Hoa Nghiêm. Một hoa, một hương không thứ ǵ chẳng
phải là hạt châu nơi mành lưới của Thiên Đế.
Mỗi thứ đều viên minh, thứ nào cũng thù thắng
nhiệm mầu, thứ nào cũng đều là toàn thể
của Nhất Chân pháp giới, viên minh cụ đức chẳng
thể nghĩ bàn.
Chánh kinh:
爾 時 極 樂 世 界,過 於 西 方 百 千 俱 胝 那 由 他 國,以 佛 威 力,如 對 目 前,如 淨 天 眼,觀 一 尋 地。彼 見 此 土,亦 復 如 是。悉 覩 娑 婆 世 界,釋 迦 如 來,及 比 丘 眾,圍 繞 說 法。
Nhĩ thời
Cực Lạc thế giới, quá ư Tây phương bách
thiên câu chi na-do-tha quốc, dĩ Phật oai lực, như
đối mục tiền, như tịnh thiên nhăn, quán nhất
tầm địa. Bỉ kiến
thử độ, diệc phục như thị, tất
đổ Sa Bà thế giới Thích Ca
Như Lai cập tỳ-kheo chúng, vi nhiễu thuyết pháp.
Lúc bấy giờ,
thế giới Cực Lạc ở phương Tây cách
đây trăm ngàn câu-chi na-do-tha cơi, nhưng do oai lực của
Phật nên giống như đối ngay trước mắt,
như thiên nhăn trong sạch thấy trong ṿng một tầm.
Cơi đó thấy cơi này cũng giống như vậy: Đều
thấy thế giới Sa Bà, Thích Ca Như Lai và tỳ-kheo
chúng vây quanh thuyết pháp.
Giải:
Câu “quá ư tây phương bách thiên câu-chi na-do-tha quốc”
(ở
hương Tây cách đây trăm ngàn câu-chi na-do-tha cơi) xin xem
lại lời giải thích ở phần trước.
Cực Lạc chẳng ĺa khỏi tự tâm là xét về
Lư. “Quá ư tây phương bách thiên câu-chi
na-do-tha quốc” là Sự. Lư, Sự vô ngại nên
cách xa mười vạn ức chính là ở ngay trước
mắt. Bởi vậy, Quán kinh nói: “A Di Đà Phật khứ thử bất viễn” (A Di Đà Phật cách đây chẳng
xa).
Hội chúng chí thành nên cảm ứng Phật
lực gia hộ, hai cơi tịnh uế thấy rơ nhau như
đối trước mắt “như tịnh thiên nhăn, quán nhất tầm địa”
(như thiên nhăn
trong sạch thấy trong ṿng một tầm). Thánh chúng cơi ấy
đều thấy đấng Thích Tôn cơi này ở trong
đại hội giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác.
Kinh A Di Đà nói pháp môn này là “nhất
thiết thế giới nan tín chi pháp” (pháp hết thảy thế gian khó thể tin
được nổi) Chúng sanh đời Mạt pháp
t́nh chấp sâu nặng, đối với diệu pháp tối
cực viên đốn, Nhất Thừa liễu nghĩa,
phương tiện rốt ráo này chẳng thể tin hiểu
nổi, đâm ra phỉ báng. Bởi thế, trong phẩm Lễ
Phật Hiện Quang đây, hai vạn người trong thế
giới này đích thân thấy Cực Lạc thế giới
thanh tịnh trang nghiêm, đích thân nghe đức A Di Đà Phật
hiện đang thuyết pháp, họ sẽ là người
chứng thực khiến cho chúng sanh phát sanh chánh tín, ưa
thích cầu văng sanh, phát tâm Bồ Đề, một bề
chuyên niệm, đều đạt được bốn
lợi ích Tất Đàn.
Nay tôi kính thuận thánh tâm, xin dẫn kèm thêm một số
kinh để chứng tỏ Cực Lạc diệu hữu,
ngơ hầu [người đọc] khỏi thiên chấp
nơi Không.
1. Quán Kinh chép: “Vy Đề
Hy dữ ngũ bách thị nữ, văn Phật sở thuyết,
ứng thời tức kiến Cực Lạc thế giới
quảng trường chi tướng, đắc kiến
Phật thân cập nhị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, thán
vị tằng hữu, hoát nhiên đại ngộ, đắc
Vô Sanh Nhẫn. Ngũ bách thị nữ, phát A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, nguyện sanh bỉ quốc.
Thế Tôn tất kư, giai đương văng sanh. Sanh bỉ
quốc dĩ, hoạch đắc Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội” (Vy Đề
Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy,
ngay lập tức thấy tướng rộng lớn của
thế giới Cực Lạc, được thấy thân
của Phật và hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, than
là chưa từng có, đột nhiên đại ngộ,
đắc Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát
tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về
cơi ấy. Thế Tôn thọ kư họ sẽ đều văng
sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc
Chư Phật Hiện Tiền tam-muội).
2. Kinh Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô
Lượng Ấn Pháp Môn chép: “Thời,
thử Sa Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai hội
trung, sở hữu chư Bồ Tát Ma Ha Tát (nhất vạn
nhị thiên nhân), bật-sô (nhị vạn nhân), bật-sô-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, Phạm Vương, Đế
Thích, Hộ Thế Tứ Vương tịnh dư Thiên,
Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già,
nhân phi nhân đẳng, tất năng kiến bỉ Cực
Lạc thế giới cập kiến Vô Lượng Thọ
Quang Như Lai, Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng vi nhiễu,
quang minh xí thịnh, như Diệu Cao sơn” (Khi ấy, trong hội chúng của
đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nơi thế giới Sa
Bà, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát (một vạn hai ngàn
người), bật-sô (hai vạn người), bật-sô-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, Phạm Vương, Đế
Thích, Hộ Thế Tứ Vương và các chúng khác như
Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân v.v… đều thấy thế giới
Cực Lạc và thấy Vô Lượng Quang Như Lai, Bồ
Tát, Thanh Văn đại chúng vây quanh. Quang minh rực rỡ
như núi Diệu Cao).
3. Kinh Thập Văng Sanh chép: “Phật
cáo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: - Nhữ kim ưng
đương khởi lập hiệp chưởng, chánh
thân hướng Tây, chánh niệm quán A Di Đà Phật quốc,
nguyện kiến A Di Đà Phật. Nhĩ thời nhất
thiết đại chúng, diệc giai khởi lập hiệp
chưởng, cộng quán A Di Đà Phật. Nhĩ thời,
A Di Đà Phật hiện đại thần thông, phóng
đại quang minh, chiếu Sơn Hải Huệ Bồ
Tát thân. Nhĩ thời, Sơn Hải Huệ Bồ Tát đẳng
(bao quát nhất thiết đại chúng), tức kiến A
Di Đà Phật quốc, sở hữu trang nghiêm diệu hảo
chi sự, giai tất thất bảo, thất bảo
sơn, thất bảo quốc độ, thủy điểu,
thọ lâm, thường thổ pháp âm, bỉ quốc nhật
nhật thường chuyển pháp luân” (Phật bảo Sơn Hải Huệ
Bồ Tát: ‘Ông nay nên đứng dậy, chắp tay, hướng
thẳng về phương Tây, chánh niệm quán cơi Phật
A Di Đà, nguyện thấy A Di Đà Phật’. Bấy giờ, hết
thảy đại chúng cũng đều đứng dậy,
chắp tay, cùng quán A Di Đà Phật. Lúc đó, A Di Đà Phật
hiện đại thần thông phóng đại quang minh, chiếu
thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Khi ấy, Sơn Hải
Huệ Bồ Tát v.v… (bao quát hết thảy đại
chúng) liền thấy tất cả sự trang nghiêm diệu
hảo của cơi A Di Đà Phật đều là bảy báu: núi
bảy báu, cơi nước bảy báu; nước, chim, cây cối
thường diễn pháp âm. Cơi ấy hằng ngày thường
chuyển pháp luân).
Những đoạn kinh trên chứng tỏ rằng
trong xă hội Ấn Độ thời ấy đă có vài
trăm người hoặc là vạn người tận mắt
thấy y báo, chánh báo trang nghiêm trong cơi Cực Lạc. Tây
phương có thế giới, có A Di Đà Phật. Đối với
hai chữ “có” ấy cần
phải hết sức lưu ư.
Nói chung, phẩm này bao gồm bốn thứ Tất
Đàn:
1. Y báo, chánh báo cơi Cực Lạc hiện tiền chính là
“thế giới Tất- đàn”: Hiển thị đích xác
diệu cảnh khiến cho chúng sanh hoan hỷ, sanh tâm ham cầu.
2. A
3. Phá nghi sanh tín là “đối trị Tất-đàn”.
Nghi căn chưa đoạn th́ chính là tội căn. Lúc
tín lực viên măn th́ hoàn toàn trở thành Phật lực.
4. Tâm và Phật chẳng hai, diệu cảm khó suy lường,
sự lư bất nhị, diệu cảnh hiện tiền
chính là “Đệ Nhất Nghĩa Tất-đàn” v́ hiển
bày trọn vẹn tánh khiến cho chứng nhập Thật
Tướng.
Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết: “Đoạn này ư nói vô lượng
quang minh chiếu trọn hết thảy. Cực Lạc và
Sa Bà cùng một pháp giới, vốn chẳng phải đây
hay kia th́ nào có Đông hay Tây!
Sơn hà, đại địa đều là do con mắt
nhặm[4]
của chúng sanh mà thành.
Nếu trong một niệm
mà nhập được cảnh giới của Phật
th́ vô lượng quang minh chiếu khắp trần sát, tam
đồ, lục đạo đồng
thời giải thoát. Chẳng phải riêng ḿnh A Nan
được oai thần của Phật gia bị nên trông
thấy thân Phật và các thứ y báo, chánh báo; mà chính là chúng
sanh ngay trong đời mạt pháp đây cứ hễ nhập
được pháp môn này th́ chẳng ĺa khỏi cái niệm
hiện tiền mà chóng
được thấy Phật.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘
[1] Utopia: Utopia (xuất phát từ tiếng
Hy Lạp Outopos, có nghĩa là “nơi chốn không tồn tại”)
là từ ngữ chỉ một đoàn thể hay một xă
hội lư tưởng. Đây là một xứ giả tưởng
do Thomas More (1478-1535) tưởng tượng ra trong cuốn
tiểu thuyết cùng tên. Theo tiểu thuyết đó, ngoài
khơi Đại Tây Dương có một ḥn đảo nhỏ
mang tên Utopia, nơi đó người dân tuân theo
một chế độ xă hội chính trị hoàn thiện,
tận thiện tận mỹ. Từ ngữ này về sau
cũng thường được dùng để chỉ
những xă hội lư tưởng không có thật (thường
gọi tắt là “xă hội không tưởng”) hoặc những
lư tưởng, chủ nghĩa, giáo điều mang tính cách
ngụ ngôn, ước vọng, không bao giờ thực hiện
được.
[2] Thủy luân là tầng thứ
hai gồm toàn nước duy tŕ một thế giới.
Theo luận Câu Xá, quyển mười một: “An lập
khí thế gian, phong luân nằm thấp nhất, rộng
đến vô số, dày mười lạc-xoa. Kế đến
là thủy luân, sâu mười ức vạn. Tám lạc-xoa
nước ở đáy tầng thủy luân ngưng kết
thành chất vàng.... Trên nền vàng đó có tám ngọn núi lớn,
Diệu Cao Sơn Vương trụ ở trên đó”.
[3] Cầm, sắt,
không hầu: Cầm là loại đàn dài ba thước Hán,
rộng sáu tấc, gồm bảy dây. Sắt là một loại
đàn từa tựa như đàn tranh, thời cổ chỉ
có mười ba dây, sau đổi thành hai mươi lăm
dây. Cầm và sắt thường ḥa tấu chung với
nhau nên xưa hay dùng chữ “sắt cầm hảo hợp”
để ví cho t́nh nghĩa vợ chồng. Không hầu là một
loại đàn dây, xuất xứ từ Tây Vực, thường
có thân cong, mặt dài, số dây từ hai mươi hai
đến hai mươi lăm. Khi sử dụng, ôm vào
ḷng, hai tay cùng khảy.
[4] Câu này dựa theo ư
kinh Viên Giác: Như người bị bệnh mắt, thấy
trên hư không có những đốm sáng lởn vởn, bay
lung tung, gọi đó là “không hoa” (hoa đốm trên hư
không). Trong không trung, thật sự không có những đốm
sáng ấy, chỉ v́ mắt bị bệnh nên mới thấy
có “không hoa”.