CHÚ GIẢI
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH B̀NH ĐẲNG GIÁC KINH
佛 說 大 乘 無 量 壽 莊 嚴 清 淨 平 等
覺 經 解 卷 三
QUYỂN THỨ BA
Quyển thứ ba sẽ giải thích ư
nghĩa các phẩm từ phẩm mười một đến
phẩm hai mươi chín.
Quyển hai nói về sự phát khởi đại nguyện
của đức Di Đà khi Ngài đang tu nhân, quyển này sẽ
tường thuật về sự thành tựu đại
nguyện đạt Quả Giác cứu cánh viên măn của A
Di Đà Phật. Kinh thuật tỉ mỉ về y báo, chánh báo
cơi Cực Lạc, chủ lẫn bạn đều thanh tịnh
trang nghiêm, vi diệu, đẹp đẽ lạ lùng, viên
minh cụ đức, vượt trỗi mười
phương cơi nước, siêu t́nh ly kiến chẳng thể
nghĩ bàn. Riêng phẩm thứ hai mươi bốn nêu rơ
cương lănh của bản kinh này: “Phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di
Đà Phật” cũng như hạnh thù thắng để
được văng sanh của cả ba bậc. Phẩm hai
mươi lăm lại nói rơ chánh nhân văng sanh. V́ vậy,
tôi kính xin độc giả hết sức lưu tâm những
đoạn ấy hầu phát khởi ḷng tin trong sạch.
Quyển hai nói đến việc phát nguyện, quyển
này tường thuật nguyện thành tựu. Nên lưu ư
là những điểm siêu thắng, độc diệu của
bản kinh này toàn là do bổn nguyện tối thắng cực
diệu của Phật cảm thành cả. V́ vậy, chánh
kinh đôi ba lượt nhắc đến chữ “nguyện” như cuối phẩm
mười lăm có câu: “Thử
giai Vô Lượng Thọ Phật oai thần lực cố,
bổn nguyện lực cố, măn túc nguyện cố, minh
liễu, kiên cố, cứu cánh nguyện cố” (Đấy
đều là do sức oai thần, do sức bổn nguyện,
do lời nguyện trọn vẹn, do lời nguyện rơ
ràng, kiên cố, rốt ráo của Vô Lượng Thọ Phật
vậy); phẩm hai mươi bảy cũng nói: “Thử giai Vô Lượng Thọ
Phật bổn nguyện gia oai, cập tằng cúng dường
Như Lai, thiện căn tương tục, vô khuyết
giảm cố, thiện căn tập cố, thiện
căn thủ cố, thiện thành tựu cố” (Đấy đều là do
bổn nguyện của Vô Lượng Thọ Phật oai
thần gia hộ, cũng như do Ngài từng cúng dường
Như Lai, gieo thiện căn liên tục không hề khuyết
giảm, do Ngài khéo tu tập thiện căn, do Ngài khéo nhiếp
thủ, do Ngài khéo thành tựu vậy). Trong phẩm hai
mươi chín “Nguyện Lực Hoằng Thâm” cũng chép: “A Di Đà Phật quốc,
trường cửu quảng đại, minh hảo, khoái lạc,
tối vi độc thắng. Bổn kỳ vi Bồ Tát thời,
cầu đạo sở nguyện lũy đức sở
trí” (Cơi Phật A Di Đà trường cửu, rộng lớn,
sáng ngời, tốt đẹp, khoái lạc, thật là thù
thắng độc nhất. Đó là do lời nguyện khi Ngài
c̣n tu Bồ Tát đạo, đă tích lũy công đức
chiêu cảm thành). Như vậy,
quyển hai nói về Nhân, quyển này bàn về Quả. Cơi
Phật vượt trỗi mười phương chỉ
là do Phật nguyện sâu thẳm, bao la, ân đức vô cực
vậy.
Cuối phẩm hai mươi chín c̣n ghi: “Vô Lượng Thọ Phật ân
đức bố thí bát phương thượng hạ, vô
cùng vô cực, thâm đại vô lượng, bất khả
thắng ngôn” (Vô Lượng Thọ Phật bố thí ân
đức cả tám phương trên dưới vô cùng, vô cực,
lớn sâu vô lượng chẳng thể nói nổi). Quả
thật, bọn chúng ta ngày nay đă nhờ A Di Đà Phật
ban ân thí đức, hăy nên phát nguyện văng sanh, cùng vào trong
Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Đà. Phẩm
hai mươi ba “Thập Phương Phật Tán” (mười
phương Phật khen ngợi) đă chép: “Chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc,
tùy nguyện giai sanh, đắc Bất Thoái Chuyển” (Chí
tâm hồi hướng nguyện sanh sang cơi kia, hễ nguyện
th́ đều được văng sanh, đắc Bất
Thoái Chuyển). Phẩm Văng Sanh Chánh Nhân cũng ghi: “Trú dạ thường niệm,
nguyện dục văng sanh A Di Đà Phật thanh tịnh Phật
quốc. Thập nhật, thập dạ, năi chí nhất nhật,
nhất dạ, bất đoạn tuyệt giả, thọ
chung giai đắc văng sanh kỳ quốc” (Ngày đêm
thường niệm, nguyện mong văng sanh cơi nước
thanh tịnh của A Di Đà Phật, trong mười ngày
mười đêm hay dẫu chỉ một ngày một
đêm chẳng đoạn tuyệt th́ lúc mạng chung
đều được sanh về cơi kia).
Như vậy, tin sâu, nguyện thiết, tŕ danh hiệu
Phật chính là chiếc bè báu duy nhất giúp chúng ta vượt
ngay khỏi sanh tử: Lấy Quả Giác của Phật
làm cái tâm tu nhân của chúng ta; nhân và quả giống hệt
như nhau nên tiến thẳng đến cứu cánh tự
giác, giác tha. “Thí cho khắp tất
cả cái lợi chân thật” chỉ là điều này mà
thôi!
Trong kinh này, từ phẩm thứ mười một Quốc
Giới Nghiêm Tịnh cho đến phẩm ba mươi
hai Thọ Lạc Vô Cực thuật tỉ mỉ các tướng
trạng y báo, chánh báo, chủ bạn trang nghiêm thanh tịnh,
sự sự vô ngại. Vô lượng vô biên các sự
tướng vi diệu, đẹp đẽ, lạ lùng chẳng
thể nghĩ bàn đều là do đại nguyện thù thắng
của Phật A Di Đà chiêu cảm thành, cũng như từ
tâm tịnh minh của đấng Cực Lạc đạo
sư hiện ra. Do sự lư vô ngại nên những tướng
mầu nhiệm được nêu trong kinh đều là Thật
Tế lư thể. Lại v́ sự sự vô ngại nên một
sợi lông, một mảy bụi trong cơi kia không vật ǵ
là chẳng viên minh cụ đức. Sự sự vô ngại
vốn là điểm độc đáo của kinh Hoa Nghiêm,
thế mà kinh này cũng hiển thị lẽ sự sự
vô ngại th́ kinh này khác ǵ kinh Hoa Nghiêm?
Cực Lạc chẳng rời Hoa Tạng như Hoằng
Pháp Đại Sư (tổ Không Hải, sáng tổ Chân Ngôn tông
Nhật) đă dạy trong Bí Tạng Kư: “Hoa Tạng Thế Giới có nghĩa như sau: Hoa là
Lư. Lư trọn khắp pháp giới chứa đựng (tạng)
trong các pháp, nên bảo là Hoa Tạng. Hoa Tạng thế giới bao gồm những sự
vui sướng mầu nhiệm tối thượng nên gọi
là Cực Lạc. V́ vậy, phải biết là Hoa Tạng
và Cực Lạc tuy tên khác, nhưng nơi chốn chẳng
khác”.
Sách Bí Tạng Kư Sao, quyển sáu cũng nói: “Trong sách Tịnh Độ Luận
(c̣n gọi là Văng Sanh Luận, tức là Vô Lượng Thọ
Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ) của ngài Thiên Thân, Cực Lạc thế giới
có tên là Hoa Tạng thế giới. Đấy là một chứng
cớ vậy. Cơi ấy lấy hoa sen làm thành quốc độ nên gọi là Hoa Tạng,
hưởng sự vui mầu nhiệm tối thượng
nên gọi là Cực Lạc. Đấy chỉ là một chỗ
mà gọi tên khác nhau thôi”.
Sách Văng Sanh Luận cũng bảo ba thứ trang nghiêm
trong cơi Cực Lạc đều gói gọn trong một pháp
cú: “Một pháp cú là thanh tịnh
cú. Thanh tịnh cú là chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”.
Đàm Loan đại sư giải thích câu ấy như sau: “Ba câu ấy lần lượt
giải thích lẫn nhau. Do dựa vào nghĩa nào gọi là
pháp? Do v́ thanh tịnh. Do dựa vào nghĩa nào gọi là
thanh tịnh? Do chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Chân thật
trí huệ chính là Thật Tướng trí huệ. Do Thật
Tướng là vô tướng nên chân trí vô tri. Vô vi Pháp Thân là
pháp tánh thân. Do pháp tánh tịch
diệt nên Pháp Thân vô tướng. Do vô tướng nên không
ǵ chẳng là tướng, v́ thế tướng hảo
trang nghiêm chính là Pháp Thân. Do vô tri nên không ǵ là chẳng biết.
V́ thế, Nhất Thiết Chủng Trí chính là trí huệ
chân thật vậy”. Câu nói “tướng
hảo trang nghiêm chính là Pháp Thân” của Đàm Loan đại
sư quả là nét bút điểm nhăn khi vẽ rồng.
Sách Tông Kính Lục phê: “Một
lời chí lư chuyển phàm thành thánh”. Đạt đến
điểm này, đại địa không c̣n tấc đất!
Thế nhân phần nhiều chê Tịnh tông là thiên chấp sự
tướng cũng v́ chẳng biết Cực Lạc thế
giới thật chẳng thể nghĩ bàn! Những sự
tướng được kinh diễn tả lại chính
là Pháp Thân như Thiện Đạo đại sư đă dạy:
“Chỉ phương lập
tướng, tức là ngay nơi Sự chính là Chân”. Câu “ngay nơi tướng là đạo,
ngay nơi sự là chân” hay nói trong Mật tông cũng mang
cùng một ư chỉ này.
Lại như khi ngài Văn Thù bảo Thiện Tài đồng
tử hái thuốc, đồng tử cầm một nhánh cỏ
thuốc bảo: “Biến quán
đại địa, vô bất thị dược giả”
(Con thấy khắp cả đại địa không thứ
nào chẳng phải là thứ thuốc này). Nếu hiểu
được như thế th́ Thiền, Mật, Tịnh
Độ tuy ba mà một; vi trần, mảy lông, cơi nước
đều hiển hiện cảnh giới sự lư vô ngại,
sự sự vô ngại.
11. Quốc giới nghiêm tịnh
(國 界 嚴 凈)
Chánh
kinh:
佛 語 阿 難:彼 極 樂 界,無 量 功 德,具 足 莊 嚴。永 無 眾 苦、諸 難、惡 趣、魔 惱 之 名。亦 無 四 時、寒 暑、雨 冥 之 異。復 無 大 小 江 海、丘 陵 坑 坎、荊 棘 沙 礫,鐵 圍、須 彌、土 石 等 山。唯 以 自 然 七 寶,黃 金 為 地。寬 廣 平 正,不 可 限 極。微 妙 奇 麗,清 淨 莊 嚴,超 踰 十 方 一 切 世 界。
Phật ngữ
A
- Bỉ Cực
Lạc giới vô lượng công đức, cụ túc
trang nghiêm. Vĩnh vô
chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma năo
chi danh. Diệc vô tứ thời hàn, thử, vũ, minh chi dị.
Phục vô đại tiểu giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch,
Thiết Vy, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy dĩ
tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi
địa, khoan quảng b́nh chánh, bất khả hạn cực,
vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập
phương nhất thiết thế giới.
Phật bảo
A
- Cơi Cực Lạc
thế giới công đức vô lượng, trang nghiêm
đầy đủ, vĩnh viễn không có các tên gọi
các khổ, các nạn, đường ác, ma làm năo loạn;
cũng không có bốn mùa, nóng, lạnh, mưa, tối
tăm sai khác. Lại cũng chẳng có sông, biển lớn
nhỏ, g̣, đống, hầm, hố, gai góc, cát, sỏi,
Thiết Vy, Tu Di, các ḥn núi đá hay núi đất, chỉ tự
nhiên là bảy báu, vàng ṛng làm đất; bằng phẳng, rộng
răi, bao la chẳng thể hạn lượng, vi diệu, lạ
lùng, đẹp đẽ, thanh tịnh trang nghiêm, vượt
trỗi hết thảy các thế giới trong mười
phương.
Giải:
Đoạn này miêu tả y báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc.
Y báo trang nghiêm là do nguyện thứ nhất “cơi nước không có ác đạo” và nguyện thứ
ba mươi chín “trang nghiêm vô tận”
cảm thành.
“Vô lượng công đức,
cụ túc trang nghiêm” (Công đức
vô lượng, trang nghiêm đầy đủ): Sách Văng Sanh
Luận bảo có ba thứ công đức trang nghiêm: Một
là cơi nước Phật, hai là A Di Đà Phật, ba là các vị
Bồ Tát (mỗi thứ này đều có đủ vô
lượng công đức trang nghiêm). Do có đủ cả
ba thứ trang nghiêm như thế nên kinh nói: “Vô lượng công đức, cụ túc
trang nghiêm”.
Luận c̣n chép: “Cơi nước
Phật ấy công đức trang nghiêm nên thành tựu sức
chẳng thể nghĩ bàn, giống như tánh của báu
Ma-ni Như Ư kia [có thể dùng làm] pháp tương tự,
tương đối vậy”. Ư nói: Mỗi thứ trong
Cực Lạc thế giới đều tùy theo cơ nghi của
mỗi người trong nước mà hiển hiện. Chẳng
hạn như nước công đức trong các suối ao
có thể “nhất nhất tùy
chúng sanh ư” (mỗi mỗi đều thuận theo ư của
chúng sanh) khác nào báu Ma-ni (c̣n gọi là báu Như Ư) có thể
tùy thuận ư thích của mỗi người mà hóa hiện
các thứ.
Sách Luận Chú (tức Văng Sanh Luận Chú của ngài Đàm
Loan) giảng câu “như tánh của
báu Ma-ni Như Ư kia” như sau:
“Mượn tánh chất của
báu Ma-ni Như Ư để hiển thị tánh chẳng thể
nghĩ bàn của cơi An Lạc. Lúc chư Phật nhập Niết
Bàn liền dùng sức
phương tiện khiến thân nát thành xá-lợi để
tạo phước cho chúng sanh. Khi chúng sanh hết phước,
các viên xá-lợi ấy biến thành Ma-ni Như Ư bảo
châu. Những châu này phần nhiều ở trong biển cả,
đại long vương dùng để trang hoàng trên đầu. Nếu Chuyển
Luân thánh vương ra đời th́ do từ bi
phương tiện, ông ta sẽ có được viên bảo
châu ấy để gây lợi ích lớn lao cho cơi Diêm Phù Đề.
Nếu cần y phục, thức ăn,
đèn soi, nhạc cụ, các thứ vật dụng tùy ḷng
mong muốn th́ vua trai giới thanh khiết, đặt châu
trên đầu sào cao, phát nguyện rằng: ‘Nếu tôi
đúng là Chuyển Luân thánh vương
th́ nguyện bảo châu này sẽ mưa xuống các vật
như thế suốt cả một dặm, hoặc là
mười dặm, hoặc là trăm dặm đúng như
tâm nguyện của tôi’.
Ngay khi ấy, trong không trung lập tức mưa xuống các
thứ vật ứng theo ḷng mong, thỏa măn nguyện vọng
của hết thảy mọi người trong cả một
thiên hạ. Đấy là tánh lực của bảo châu ấy.
Cơi nước An Lạc kia cũng giống như thế:
Dùng tánh an lạc để thành
tựu các thứ”.
Sách Văng Sanh Luận Chú lại giảng câu “tương tự, tương
đối” như sau: “Báu
đó chỉ có thể thỏa các nguyện cơm, áo v.v… của
chúng sanh, chẳng thể ban cho họ cái nguyện vô thượng
đạo. Hơn nữa, báu ấy chỉ có thể thỏa
nguyện một đời cho chúng sanh, chẳng thể thỏa
nguyện chúng sanh trong vô lượng thân. Có vô lượng điều sai biệt
như thế nên bảo là tương tự”. Ư nói: Cơi
nước Cực Lạc thành tựu sức chẳng thể
nghĩ bàn vượt xa hết thảy, không có cách nào so
sánh nổi; ở đây chỉ tạm mượn báu Ma-ni
để làm thí dụ, chứ thật sự báu Ma-ni c̣n kém
xa muôn vàn, nên mới bảo là “tương
tự”; chỉ là miễn cưỡng so sánh thôi nên mới
bảo là “tương đối”.
“Đối” (對) có nghĩa là đem so sánh vậy.
Trong sách Luận Chú, Đàm Loan đại sư c̣n giảng
câu “công đức vô lượng,
trang nghiêm đầy đủ” như sau: “Từ nghiệp trí huệ thanh tịnh
của Bồ Tát phát khởi trang nghiêm Phật sự,
nương pháp tánh nhập tướng thanh tịnh. Pháp ấy
chẳng điên đảo, chẳng hư ngụy nên gọi
là công đức chân thật”. Đàm Loan đại sư quả
đă phơi bày trọn vẹn tạng bí mật của
Như Lai: Bồ Tát nương vào Thật Tế của
pháp tánh để nhập vào trí huệ chân thật (tức
là “trụ Chân Thật Huệ”
nói trong kinh này) nên xa ĺa điên đảo, hư ngụy. Đấy
là công đức chân thật. Công đức chân thật
chính là “công đức vô lượng”.
Thế giới Cực Lạc trang nghiêm bằng công đức
chân thật như thế nên “trang
nghiêm đầy đủ”. Do vậy, cơi ấy thành tựu
được sức chẳng thể nghĩ bàn.
Văng Sanh Luận Chú c̣n bảo: “Chữ ‘sức chẳng thể nghĩ bàn’ chỉ
chung mười bảy sức công đức trang nghiêm chẳng
thể nghĩ bàn trong cơi Phật ấy… Trong những sức
ấy, sức cơi Phật chẳng thể nghĩ bàn lại
gồm hai điều:
1. Một là nghiệp lực,
nghĩa là do nghiệp lực của đại nguyện
thiện căn xuất thế của Bồ Tát Pháp Tạng
cảm thành.
2. Hai là do sức khéo trụ
tŕ của đấng Chánh Giác A Di Đà
pháp vương nhiếp thọ”.
Trong mười bảy sức vừa nói, sức thứ
nhất là Trang Nghiêm Thanh Tịnh Công Đức Thành Tựu.
Sách Luận Chú viết: “Thanh tịnh
là tổng tướng. Sở dĩ Phật khởi ra công
đức trang nghiêm thanh tịnh này là do Ngài thấy tam giới
là tướng hư ngụy, là tướng luân chuyển,
là tướng vô cùng (ám chỉ sanh tử) như con cuốn chiếu cuộn
tṛn, như tằm kéo kén tự nhốt ḿnh. Thương ôi
chúng sanh điên đảo bất tịnh! Muốn đặt
chúng sanh nơi chẳng hư ngụy, nơi chẳng luân
chuyển, nơi chẳng có [sanh tử] vô cùng, được
hưởng chốn thanh tịnh đại an lạc rốt
ráo nên Phật khởi lên
công đức thanh tịnh trang nghiêm này”.
Ở đây, những điều như kinh dạy: “Vĩnh vô chúng khổ chư nạn,
ác thú, ma năo chi danh” (Vĩnh viễn chẳng có danh từ
các khổ, các nạn, đường ác, ma năo loạn) cũng chính là do sức công
đức thành tựu ấy chiêu cảm vậy.
“Chúng khổ”: Khổ (苦) có nghĩa là bức
bách năo loạn. Sự khổ rất nhiều, trong các kinh
luận thường nói ba khổ, tám khổ v.v… Ba khổ
là:
1. Khổ khổ: Thân này đă là quả của cái
khổ, lại c̣n thêm bị các nỗi khổ bức bách
thân tâm nên khổ càng thêm khổ; v́ vậy gọi là “khổ
khổ”.
2. Hoại khổ: Thế gian này nào có niềm vui
chân thật, nào có sự vui lâu dài, ngay lúc niềm vui tan biến
đă không ngăn nổi ưu năo nên bảo là “hoại khổ”.
3. Hành khổ: Chẳng khổ, chẳng vui
nhưng do niệm niệm lưu chuyển nên bảo là
“hành”. Rốt cục cũng biến diệt nên bảo là
“hành khổ”.
Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ba thứ khổ
trên đây như sách Sớ Sao bảo: “Cơi ấy ly dục thanh tịnh nên không có khổ khổ.
Y báo, chánh báo luôn tồn tại bất biến nên không có hoại
khổ. Vượt thoát tam giới nên không có hành khổ”.
Tám khổ chính là những nỗi khổ của thế
nhân như sanh, lăo, bịnh, tử, yêu thương mà bị
chia ĺa, thù ghét cứ phải gặp mặt, cầu không
được toại ư và năm ấm lừng lẫy:
1. Sanh trong thai ngục (trong thai chật hẹp như
trong ngục nên gọi là “thai ngục”) là “sanh khổ”.
2. Già sợ run rẩy là “lăo khổ”.
3. Bị bịnh đau đớn là “bịnh khổ”.
4. Khi chết đau buồn nỗi khổ phân tán (Tứ
Đại nơi thân ḿnh chia ĺa, chia ly cùng quyến thuộc
hiện đời), đó là “tử khổ”.
5. Yêu thương luôn muốn ḥa hợp, ghét chia ly,
nhưng luôn thường mâu thuẫn, chia cách với người
thân, chẳng được ở chung với nhau. Đấy
là “ái biệt ly khổ”.
6. Oán ghét th́ muốn trốn đi, sợ phải chạm
mặt nhau, nhưng luôn đụng phải kẻ oán cừu,
căm ghét. Muốn mong xa lánh lại cứ phải chung
đụng. Đấy gọi là “oán tắng hội khổ”.
7. Cầu mong th́ chỉ muốn đạt được,
sợ mất mát, nhưng hết thảy sự vật
trong thế gian hễ tâm yêu thích th́ chẳng cầu
được. Đấy là “cầu bất đắc khổ”.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ được sách
Viên Trung Sao giảng như sau: “Ngũ
Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ấm
có nghĩa là ngăn che, tức là chúng ngăn che chẳng
cho chân tánh phát hiện. Thịnh có nghĩa là to lớn, lừng
lẫy. Do các nỗi khổ: sanh,
già, bịnh, chết… vừa nói ở trên tụ tập lại
nên bảo là ngũ ấm xí thịnh khổ”. Tám thứ khổ này cùng nung đốt
thế nhân, nhưng cơi Cực Lạc vĩnh viễn chẳng
có các nỗi khổ đó. Sách Sớ Sao bảo:
“Cơi kia liên hoa hóa sanh nên không
có sanh khổ. Chẳng có nóng lạnh đắp đổi,
thân chẳng bị phần đoạn (phần đoạn
sanh tử) nên không có bịnh khổ.
Thọ mạng vô lượng nên không có tử khổ. Không
có cha mẹ, vợ con nên không có ái biệt ly khổ. Các
thượng thiện nhân cùng ở chung một nơi nên
không có oán tắng hội khổ. Muốn ǵ liền tự
nhiên có ngay nên không có cầu bất đắc khổ. Quán
chiếu không tịch nên không có ngũ ấm xí thịnh
khổ”.
Chữ “chư nạn”
chỉ tám nạn, tức là những điều gây chướng
ngại cho việc gặp Phật, nghe pháp. Tám nạn c̣n gọi
là “bát vô hạ”, nghĩa là tám điều khiến ta không
được nhàn hạ để tu đạo nghiệp.
Sách Viên Trung Sao bảo tám nạn là:
“Một là địa ngục
nạn: Trong địa ngục đêm dài tăm tối, chịu
khổ không ngớt, ngăn lấp việc gặp Phật
nghe pháp, nên gọi là Nạn.
Hai là súc sanh nạn: Trong
đường súc sanh chịu khổ vô cùng, ngăn lấp
việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là Nạn.
Ba là ngạ quỷ nạn:
Trong đường ngạ quỷ chịu khổ vô lượng,
ngăn trở việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là
Nạn.
Bốn là Trường Thọ
Thiên nạn, nghĩa là sống trong cơi trời ấy thọ
đến năm trăm kiếp; đó chính là cơi trời
Vô Tưởng thuộc tầng trời Đệ Tứ Thiền
của Sắc Giới. Cơi ấy mang tên Vô Tưởng v́
tâm thức chẳng khởi lên, giống như cá nằm
trong băng, như sâu nằm trong kén. Ngoại đạo
tu hành đa phần sanh lên cơi trời
này. Do chướng ngăn gặp Phật nghe pháp nên gọi
là Nạn.
Năm là Bắc Uất Đan
Việt nạn: Uất Đan Việt (Uttarakuru) là tiếng Phạn,
Hán dịch là Thắng Xứ, nghĩa là cơi ấy cảm
báo thù thắng hơn cả ba châu Đông,
Sáu là manh lung ám á nạn,
nghĩa là những kẻ ấy sanh tuy sanh chính giữa
đất nước, nhưng do nghiệp chướng
sâu nặng nên mù, điếc, câm, ngọng, các căn chẳng
đủ, dẫu Phật xuất thế vẫn chẳng
thể thấy Phật. Dù [có
người] giảng đại pháp vẫn chẳng nghe nổi,
nên gọi là Nạn.
Bảy là thế trí biện
thông nạn, nghĩa là người trong thế gian tà trí sắc
sảo, miệt mài ham mê tập tành kinh sách ngoại đạo,
chẳng tin chánh pháp xuất thế. V́ vậy, gọi là Nạn.
Tám là sanh Phật tiền Phật
hậu nạn, nghĩa là: Khi Phật xuất hiện trong
đời làm bậc đại đạo sư khiến
cho chúng sanh thoát ly cái khổ sanh tử, hưởng vui Niết
Bàn; ai có duyên th́ được gặp gỡ, c̣n những kẻ
sanh ra trước hay sau thời Phật xuất thế th́
do nghiệp nặng duyên mỏng nên đă chẳng
được thấy Phật, lại c̣n chẳng
được nghe pháp. Do vậy, gọi việc sanh ra
trước Phật hay sau Phật là nạn”.
Sách nói thêm: “Tám điều
nạn ấy tuy là cảm lấy quả báo khổ, vui sai
khác nhưng đều do chẳng được thấy
Phật, chẳng nghe chánh pháp nên gọi chung là Nạn”.
Thế giới Cực Lạc “vĩnh vô chư nạn” (vĩnh viễn không có
các nạn) như sách Viên Trung Sao nói:
“Do không có nhân của ba độc,
chẳng tạo nghiệp ác nghịch nên chẳng có khổ
quả tam đồ, không có chướng nạn tam đạo (địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh).
Nghe pháp nhập định,
chẳng đọa vào Vô Tưởng nên chẳng có Trường
Thọ Thiên nạn.
Tuy thọ sự vui tột
bậc nhưng thường được hưởng sự
giáo hóa nên chẳng có Bắc Câu Lô Châu nạn (tức là Uất
Đan Việt nạn).
Sáu căn thanh tịnh, sắc
bén, thông tuệ nên không có nạn đui, điếc, câm, ngọng.
Chúng sanh sanh về cơi ấy đều
nhập Chánh Định Tụ nên không có nạn thế trí biện
thông.
Nay đức A Di Đà Phật
hiện đang thuyết pháp đến vô lượng kiếp, Quán Âm sẽ
tiếp nối Ngài làm Phật, hiệu là Phổ Quang Công Đức
Sơn Vương Phật nên chẳng có nạn sanh trước
hay sau Phật”.
“Ác thú” (Đường
ác): Chữ “thú” (趣) có nghĩa là
chỗ chúng sanh hướng đến. Có nhân ắt có quả,
từ nhân hướng đến quả nên gọi là “thú”. Luận Câu Xá, quyển
tám chép: “Thú nghĩa là đi
đến”. Sách Pháp Hoa Văn Cú Kư cũng giảng: “Từ một chỗ này đến
một chỗ khác nên gọi là thú”. “Ác thú” chính là “ác đạo”, tức là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh; đó là ba ác đạo.
Kinh A Di Đà
dạy: “Bỉ Phật quốc
độ vô tam ác đạo. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật
quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống
hữu thật!” (Cơi nước Phật ấy không có ba
ác đạo. Này Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy
c̣n không có danh từ ác đạo huống là thật có). Đây chính là do nguyện thứ
nhất “nước không có ác
đạo” thành tựu.
“Ma năo”: Ma (魔) là cách gọi tắt chữ Phạn “Ma La” (Māra), dịch
nghĩa là Năng Đoạt Mạng, Chướng Ngại,
Nhiễu Loạn, Phá Hoại v.v… Sách Nghĩa Lâm
Chương, quyển sáu giảng: “Ma, tiếng Phạn là Ma La, Hán dịch là Nhiễu Loạn,
Chướng Ngại, Phá Hoại. Do chúng nhiễu loạn
thân tâm, chướng ngại thiện pháp, phá hoại sự
tốt đẹp bậc nhất
nên gọi là
Sách Trí Độ Luận lại bảo có bốn loại
ma:
- Một là Phiền Năo Ma: Các phiền năo như tham, sân,
si… năo hại thân tâm nên gọi là Ma.
- Hai là Ấm Ma, tức Ngũ Ấm: Sắc, Thọ…
sanh ra các thứ khổ năo nên gọi là Ma.
- Ba là Tử Ma: cái chết đoạt mất mạng
căn của con người nên gọi là Ma.
- Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma, ma vương này hay
hại sự lành của người khác nên gọi là Ma.
Trong bốn loại này, loại thứ tư mới
chính là ma thật sự, c̣n ba loại ma kia do gây chướng
tương tự như ma nên cũng gọi là Ma.
“Ma năo” (魔 惱) tức là ma khiến
cho thân tâm bị năo hại. Hơn nữa, phiền năo
cũng là ma. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn
chẳng có ma làm năo loạn là do bởi toàn thể cơi Cực
Lạc là một thanh tịnh cú, lại được
trang nghiêm bởi “trụ Chân Thật
Huệ”, khai thị bởi Chân Thật Tế nên có thể
ban cho “cái lợi chân thật”.
Trong cái chân thật một pháp thanh tịnh ấy c̣n chẳng
có cả danh từ “ma năo loạn”
huống hồ là thật sự có như kinh Pháp Hoa đă dạy:
“Phật ngôn: - Nhược hữu
nữ nhân văn thị kinh điển, như thuyết tu
hành, ư thử mạng chung, tức văng An Lạc thế
giới, A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng, vi nhiễu
trụ xứ. Sanh liên hoa trung, bảo ṭa chi thượng, bất
phục vị tham dục sở năo. Diệc phục bất
vị sân khuể ngu si sở năo, diệc phục bất vị
kiêu mạn, tật đố chư cấu sở năo, đắc
Bồ Tát thần thông Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Phật bảo:
- Nếu có kẻ nữ nghe kinh điển này mà tu hành
đúng như lời dạy th́ kẻ ấy mạng chung
liền được văng sanh An Lạc thế giới, A
Di Đà Phật và đại Bồ Tát chúng vây quanh trụ xứ,
sanh trong hoa sen, ngồi trên ṭa báu, chẳng c̣n bị tham dục
năo loạn, cũng chẳng c̣n bị nóng giận, ngu si năo
loạn, cũng chẳng bị kiêu căng, ghen ghét năo loạn,
đắc thần thông Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ
Tát). Đoạn kinh trên đă chỉ rơ thế giới Cực
Lạc không có các điều chướng năo.
Vả lại, trong uế độ, chúng sanh do niệm
Phật c̣n trừ được ma sự, huống hồ
là khi đă sanh về cơi kia. Kinh Thập Văng Sanh chép: “Phật ngôn: - Nhược hữu
chúng sanh, niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sanh giả,
bỉ Phật tức di nhị thập ngũ Bồ Tát, ủng
hộ hành giả. Nhược hành, nhược tọa,
nhược trụ, nhược ngọa, nhược trú,
nhược dạ, nhất thiết thời, nhất thiết
xứ, bất linh ác quỷ, ác thần đắc kỳ tiện
dă” (Phật nói: - Nếu có chúng sanh niệm A Di Đà Phật
nguyện văng sanh th́ đức Phật ấy liền sai
hai mươi lăm vị Bồ Tát ủng hộ hành giả
dù đi hay ngồi, dù đứng hay nằm, dẫu ngày hay
đêm, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ,
chẳng để cho ác quỷ, ác thần có cơ hội
làm hại).
Hơn nữa, tu hành trong cơi này nếu lỡ bị ma
khuấy vẫn có thể dùng niệm Phật để
đối trị được (xem phần hai cuốn
chín sách Ma Ha Chỉ Quán).
Sách Tịnh Độ Tu Chứng Nghi cũng nói: “Pháp lư quán của mười thừa
có thể khiến cho chín cảnh ma sự phát khởi v́
hành giả dùng pháp sanh tử mê ám của Ngũ Ấm để
làm quán cảnh vậy. C̣n pháp sự quán của Tịnh Độ
dùng ngay cái quả thanh tịnh công đức của Phật
Di Đà làm cảnh nên vĩnh viễn không có ma sự. Lúc tâm không tà niệm th́ thánh cảnh
hiện tiền, quang minh chiếu sáng”.
Di Đà quả đức vô lượng thanh tịnh nên
trong cơi Ngài vĩnh viễn chẳng có ma sự!
“Diệc vô tứ thời hàn,
thử, vũ minh chi dị” (Cũng không có bốn
mùa, nóng lạnh, mưa, tối tăm sai khác): Tứ thời
là Xuân, Hạ, Thu, Đông. “Hàn thử”
(寒 曙) chỉ
tiết trời cực nóng, cực lạnh, “vũ minh” (雨冥) chỉ
mưa gió đen nghịt. So với mười bảy thứ
công đức trang nghiêm thành tựu của cơi Cực Lạc,
câu này thể hiện công đức thứ ba, tức Trang
Nghiêm Tánh Công Đức Thành Tựu.
Sách Luận Chú giảng: “Tánh
có nghĩa là gốc. Cơi Tịnh Độ đó tùy thuận
pháp tánh, chẳng trái nghịch gốc pháp. Tánh c̣n có nghĩa
là tất nhiên, chẳng biến đổi như tánh của
biển là một vị, các
ḍng nước chảy vào biển đều trở thành một
vị. Tánh của biển chẳng bị biến đổi
theo các ḍng nước kia vậy”.
Nay cơi Cực Lạc, xét về trời, chẳng có bốn
mùa v.v… xét về đất, cũng chẳng có các tướng
sông, biển, núi, hang, chỉ là một cơi đất mênh
mông, bát ngát, phẳng phiu, thuần sắc vàng ṛng. Người
cơi ấy lại như sách Luận Chú bảo: “Những kẻ văng sanh không ai chẳng
được tịnh sắc, không ai chẳng được
tịnh tâm, rốt ráo đều đắc thanh tịnh
b́nh đẳng vô vi Pháp Thân”. Câu này chứa đựng mật
ư: Tánh b́nh đẳng như đất, biển pháp một
vị. Đó là Tánh Trang Nghiêm Công Đức Thành Tựu vậy.
“Phục vô đại tiểu
giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch,
Thiết Vi, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy
dĩ tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa” (Lại chẳng có sông, biển lớn nhỏ,
g̣ đống, hầm hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết
Vy, Tu Di, các ḥn núi đá, núi đất v.v... Chỉ tự
nhiên là bảy báu, vàng ṛng làm đất): Không có biển,
sông, Tu Di… là hiển thị tánh công đức thành tựu.
“Tu Di” (Sumeru)
dịch là
núi Diệu Cao, là trung tâm của một tiểu thế giới. Núi ấy do bốn
báu hợp thành, nằm giữa đại hải, cao khỏi
mặt nước ba trăm ba mươi sáu vạn dặm.
Mặt ngoài có chín ngọn núi, tám cái biển. Phía
ngoại vi của núi Tu Di gọi là “Thiết Vy sơn” (Cakravāda). Ngay
chính giữa đảnh núi Tu Di là chỗ ở của Đế
Thích Thiên, ba mươi hai vị trời khác ở khắp
bốn mặt núi. Trời Tứ Thiên Vương ở
lưng chừng núi. Bốn đại châu như Nam Thiệm
Bộ châu v.v… ở quanh bốn mặt biển (Mặt trời
xoay quanh núi Tu Di. Trước đây có người cho rằng
núi Tu Di nằm ngay trên địa cầu th́ thật là lầm
lẫn lớn. Xét ra, ít nhất, Tu Di cũng là một thiên
thể to bằng mặt trời. Nam Thiệm Bộ Châu
chính là địa cầu. Kinh dùng chữ “thủy” để chỉ những vật thể
lưu chuyển, “hải” tức là chỗ tích tụ các vật
thể lưu chuyển ấy, chứ nào phải là “biển
cả” như thế gian thường hiểu).
Sách Hội Sớ giảng chữ “tự nhiên thất bảo” như sau: “Cơi uế Sa Bà do tạp nghiệp
cảm thành nên dùng bùn, đất, sỏi, sạn làm chất
đất, c̣n cơi kia chuyên do tịnh tâm vô lậu biến hiện
nên dùng bảy báu làm Thể. Cơi ấy do bố thí, tŕ giới
cảm thành, tánh chẳng tạo tác nên gọi là tự
nhiên”. Ư chỉ của câu “tánh
chẳng tạo tác nên gọi là tự nhiên” của
đoạn văn trên thật tương đồng với
lời nhận định của Luận Chú: “Tánh công đức thành tựu”
và “tánh có nghĩa là tất nhiên”. Tánh đức tự
nhiên do chẳng có cách nào tạo tác được, đấy
là ư nghĩa chữ “tự nhiên”. Có công tu đức nên tánh
đức tự hiển hiện một cách tự nhiên
như vậy; đấy là ư nghĩa chữ “tự nhiên”
trong kinh.
Về chữ “thất bảo”,
các bản dịch và các kinh, luận nói đôi chút khác biệt.
Trong kinh này, chữ “thất
bảo” chỉ “vàng, bạc,
lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mă năo”
(chữ “mỹ ngọc” lấy
từ bản Đường dịch, chữ “thủy tinh” lấy từ hai bản dịch Hán
và Ngô).
Kinh A Di Đà bảo bảy báu là “vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo”.
Trí Độ Luận lại bảo là “vàng, bạc, tỳ-lưu-ly (lapis lazuli), pha lê, xa cừ, mă năo, xích chân
châu” (loại châu này cực quư, khác hẳn san hô). Kinh Bát
Nhă lại gộp cả hổ phách vào trong bảy báu, bản
Ngụy dịch cũng kể tên hổ phách. Nói tổng
quát là các thứ báu trong cơi Cực Lạc đều vi diệu,
đẹp đẽ lạ lùng, vượt xa các báu trong thế
gian, chẳng qua là mượn tạm tên gọi các vật
báu trong cơi trần này để dễ mô tả đó thôi.
Kinh Tiểu Bổn ghi “hoàng kim vi địa” (vàng
ṛng làm đất), kinh này chép: “Tự nhiên thất bảo,
hoàng kim vi địa” (Tự nhiên là bảy báu, vàng ṛng làm đất),
ư nói: Bảy báu như: vàng ṛng… tánh đức tự nhiên hợp
thành mặt đất. Bản Ngụy dịch chép: “Kỳ Phật quốc độ,
tự nhiên thất bảo, kim, ngân, lưu ly, san hô, hổ
phách, xa cừ, mă năo, hợp thành vi địa” (Trong] cơi
đức Phật ấy, tự nhiên bảy báu: vàng, bạc,
lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mă năo hợp thành đất).
Quán kinh cũng chép: “Lưu ly
địa thượng, dĩ hoàng kim thằng, tạp xí
gián thố, dĩ thất bảo giới phân tế phân
minh. Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc
quang, kỳ quang như hoa, hựu tự tinh nguyệt, huyền
xử hư không” (Trên
đất lưu ly dùng dây vàng ṛng kết lẫn với bảy
báu để phân chia thành từng khu vực rành rẽ. Mỗi
một thứ báu có năm trăm sắc quang. Quang minh ấy
như đóa hoa, lại có quang minh tương tự
như tinh tú, mặt trăng, treo lơ lửng trên hư
không).
Mặt đất cơi nước Cực Lạc chẳng
có đất, đá, chỉ thuần trang nghiêm bằng các
thứ báu mầu nhiệm tánh đức như Văng Sanh Luận
nói: “Đầy đủ tánh trân bảo,
đầy đủ trang nghiêm mầu nhiệm”. Chữ
“tánh trân bảo” chỉ những
thứ quư báu sẵn có trong tự tánh. Đấy chính là môn “các thứ sự trang nghiêm công
đức thành tựu” được nói trong Văng Sanh Luận.
“Khoan quảng b́nh chánh bất
khả hạn cực” (Bằng phẳng,
rộng răi bao la chẳng thể hạn lượng): Tâm tịnh
cơi nước tịnh, tâm b́nh cơi nước b́nh. Do tâm
địa b́nh đẳng nên đại địa bằng
phẳng. Câu kệ sau đây trong Văng Sanh Luận: “Cứu cánh như hư không, quảng
đại vô biên tế”
(Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn
mé) đă diễn tả ư “khoan quảng b́nh chánh bất khả
hạn cực” (rộng răi bao la chẳng thể hạn
lượng) nói trong kinh này. Sách Luận Chú giảng: “Như hư không là ư nói người
văng sanh tới cơi ấy tuy đông, nhưng vẫn như
không có, nghĩa là: Thập phương chúng sanh văng sanh, dù
đă sanh, hoặc đang sanh, hay sẽ sanh, tuy vô lượng
vô biên nhưng rốt ráo luôn như hư không. ‘Quảng
đại vô biên tế’ là trọn chẳng có lúc kết cuộc”.
Đấy chính là môn Trang Nghiêm Lượng Công Đức Thành Tựu
được nói trong Văng Sanh Luận [tức là] số
lượng các thứ trang nghiêm chẳng có chừng hạn
vậy.
“Vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm” (Vi diệu đẹp đẽ, lạ
lùng, thanh tịnh trang nghiêm): “Diệu”
(妙) là đẹp đẽ một cách thù thắng
khó nghĩ tưởng nổi. “Vi
diệu” nghĩa là đẹp đẽ nhất trong các
thứ diệu, khó nghĩ tưởng nhất trong các thứ
khó nghĩ tưởng nổi. “Lệ”
(麗) là tuyệt
đẹp, đẹp rực rỡ. “Kỳ” (奇) là lạ thường,
là chẳng tầm thường, đặc biệt, phi
thường. Như vậy, “kỳ
lệ” nghĩa là đẹp đẽ, xinh khéo, rực
rỡ một cách lạ lùng, đặc biệt, vượt
trỗi, độc đáo. Chẳng hạn như, mặt
đất cơi Cực Lạc do bảy báu hợp thành, trong
mỗi thứ báu lại có năm trăm quang sắc. Quang
minh ấy có h́nh như đóa hoa hoặc như vầng
trăng nên bảo là “kỳ lệ”.
“Thanh tịnh trang nghiêm”:
“Thanh tịnh” là vĩnh viễn thoát khỏi ô nhiễm, “trang nghiêm” là đầy đủ
vạn đức. Sách Luận Chú nói: “Từ nghiệp trí huệ thanh tịnh của Bồ
Tát phát khởi để trang nghiêm Phật sự,
nương pháp tánh nhập
tướng thanh tịnh”. Sách c̣n nói: “Tánh nghĩa là gốc. Cái năng sanh (tức là
tánh) đă tịnh th́ cái sở sanh (tức là cơi nước)
lại chẳng tịnh hay
sao?”. Đó là do cơi Cực Lạc được trang nghiêm
thành tựu bằng bản tánh thanh tịnh vậy.
Trong phẩm năm Chí Tâm Tinh Tấn của bản kinh
này, tỳ-kheo Pháp Tạng từng nguyện khi thành Phật
th́ trí huệ, quang minh, cơi nước, danh hiệu của
Ngài đều vang dội mười phương, Ngài c̣n bảo:
“Ngă lập thị nguyện,
đô thắng vô số chư Phật quốc giả” (Tôi
lập nguyện này đều vượt trội vô số
các cơi nước Phật). Do Pháp Tạng Bồ Tát khi tu
nhân đă phát nguyện vượt trội vô số các cơi
Phật nên đến khi Ngài thành Phật, bổn nguyện
ấy liền tự được thành tựu như thế.
Phẩm mười hai Quang Minh Biến Chiếu có chép: “Bổn kỳ tiền thế cầu
đạo, sở nguyện công đức đại tiểu
bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc
chi. Tự tại sở tác, bất vi dự kế” (Vốn
do trong đời trước cầu đạo, đă phát
nguyện công đức có lớn nhỏ sai khác nên đến
khi thành Phật, mỗi người tự đạt
được [quả báo sai khác], tự tại thành tựu
chẳng thể tính trước nổi). V́ vậy,
cơi nước Cực Lạc trang nghiêm đầy đủ
“siêu du thập phương nhất
thiết thế giới” (vượt trội hết thảy cơi
nước trong mười phương).
Chánh kinh:
阿 難 聞 已,白 世 尊 言:若 彼 國 土 無 須 彌 山,其 四 天 王 天,及 忉 利 天,依 何 而 住?
A
A
Giải:
“Đao Lợi
thiên” (Trāyastrimśas)
dịch là
Tam Thập Tam thiên, là tầng trời thứ hai trong sáu tầng
trời Dục giới, ở ngay trên đảnh núi Tu Di. Chính giữa có
một thiên thành là chỗ ngự của Đế Thích (Sakya
Indra). Bốn phía, mỗi phía có tám thiên thành, cộng chung
thành ba mươi ba chỗ nên có tên là Tam Thập Tam Thiên.
Chư thiên trong cơi trời Đao Lợi và trời Tứ Thiên
Vương đều nương theo núi Tu Di để trụ
nên nay A Nan nghe đức Phật nói cơi ấy không có núi Tu
Di liền hỏi ngay các vị trời ấy sẽ
nương vào đâu mà trụ?
Chánh kinh:
佛 告 阿 難:夜 摩、兜 率,乃 至 色 無 色 界,一 切 諸 天,依 何 而 住?阿 難 白 言:不 可 思 議 業 力 所 致。
Phật
cáo A
Phật bảo
A
Giải:
“Dạ Ma” nói đủ
là Tu Dạ Ma (Suyāma), là tầng trời
thứ ba trong Dục Giới thiên. Tứ Thiên
Vương thiên và Đao Lợi thiên phải nương theo
núi Tu Di để trụ nên gọi là Địa Cư thiên. Từ
trời Dạ Ma trở lên đều ngự trên không trung
nên gọi là Không Cư thiên. Dạ Ma dịch là Thời Phận,
Thiện Phận. Phật Địa Luận nói: “Nói về Dạ Ma thiên th́ do cơi
trời này tùy thời hưởng lạc nên gọi là Thời Phần”.
Đâu Suất (Tushita) dịch là Thượng Túc, Diệu Túc, Tri Túc, Hỷ Túc
v.v… là tầng trời thứ tư trong Dục giới. Do
chư thiên đối với những sự vui ngũ dục
sanh tâm vui thích nhưng tri túc, nên gọi là Hỷ Túc. Nội
viện tầng trời ấy là cơi Tịnh Độ của
Di Lặc Đại Sĩ, ngoại viện là chốn dục
lạc của thiên chúng.
“Sắc, Vô Sắc giới”: Sắc là
chư thiên Sắc giới (Rupaloka), chữ “Vô Sắc” chỉ chư thiên
trong Vô Sắc giới (Arupaloka). Đó là những
cơi trời nằm phía trên các tầng trời Dục Giới,
đều trụ trong hư không. V́ thế, Phật mới
hỏi A Nan: Nếu v́ không có núi Tu Di mà bảo là chư thiên
không có chỗ để trụ th́ các vị trời từ
cơi Dạ Ma trở lên nương vào đâu để trụ?
Ngay các vị trời cơi Dạ Ma trong thế giới Sa Bà
này c̣n chẳng cần nương vào núi Tu Di để trụ
trong hư không th́ chư thiên trong cơi Cực Lạc cần
chi núi Tu Di!
A
Sách Câu Xá Quang Kư, quyển mười ba giảng chữ
“nghiệp” như sau: “Tạo tác là nghiệp”; ư nói:
Do thân, khẩu, ư tạo tác nên gọi là nghiệp. Làm ác là
ác nghiệp, làm lành là thiện nghiệp. Thiện nghiệp
có công năng sanh ra quả vui, ác nghiệp có tác dụng sanh
ra quả ác; do vậy gọi là “nghiệp
lực”. Sách Hữu Bộ Tỳ Nại Da (Luật tạng
của phái Nhất Thiết Hữu Bộ), quyển bốn
mươi sáu ghi: “Nghiệp lực
chẳng thể nghĩ bàn! Dẫu xa xôi cách mấy vẫn
lôi kéo được. Khi quả báo đă thành thục dẫu
có trốn tránh vẫn khó thoát
được”.
Chánh kinh:
佛 語 阿 難:不 思 議 業,汝 可 知 耶?汝 身 果 報,不 可 思 議;眾 生 業 報,亦 不 可 思 議;眾 生 善 根,不 可 思 議;諸 佛 聖 力,諸 佛 世 界,亦 不 可 思 議。其 國 眾 生,功 德 善 力,住 行 業 地,及 佛 神 力,故 能 爾 耳。
Phật ngữ A Nan: - Bất tư nghị
nghiệp, nhữ khả tri da? Nhữ thân quả báo, bất khả
tư nghị, chúng sanh nghiệp báo, diệc bất khả
tư nghị. Chúng sanh thiện căn, bất khả
tư nghị, chư Phật thánh lực, chư Phật thế
giới, diệc bất khả tư nghị. Kỳ quốc
chúng sanh, công đức thiện lực, trụ hạnh
nghiệp địa, cập Phật thần lực, cố
năng nhĩ nhĩ.
Phật bảo
A
- Ông có biết chăng? Nghiệp
chẳng thể nghĩ bàn! Thân ông quả báo chẳng thể
nghĩ bàn, nghiệp báo của chúng sanh cũng chẳng thể
nghĩ bàn, thiện căn của chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn; thánh lực của chư Phật, thế giới
của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do
công đức, thiện lực của chúng sanh cơi ấy,
do trụ hạnh nghiệp địa và do thần lực
của Phật nên mới được như thế
đó.
Giải:
Theo sách Tiên Chú, chữ”quả
báo” chỉ những kết quả và báo ứng do những
hành vi thiện ác trong quá khứ cảm thành nên gọi là Quả
Báo. Quả và Báo vốn cùng một Thể. Nếu phân tích tỉ
mỉ th́ cảnh giới mà nay chúng ta gặp phải đều
là kết quả của nghiệp nhân đă tạo trong quá
khứ, đấy gọi là “quả”; c̣n hậu quả
tương ứng với nghiệp duyên đă tạo th́ gọi
là “báo”. Cái ǵ có khả năng sanh ra sự vật th́ gọi
là “nhân”, c̣n những ǵ hỗ trợ cho nhân kết thành quả
th́ gọi là “duyên”. Ví dụ như hạt giống của
lúa gạo hay lúa mạch là nhân; người nông phu cày bừa,
mưa, sương thấm tưới là duyên. Thóc, lúa mạch
thâu hoạch năm nay chính là từ hạt giống từ
năm ngoái; nên nếu so với thóc, lúa mạch năm ngoái
th́ thóc và lúa mạch năm nay chính là quả. Nếu đem
so với sức nông phu, mưa, sương v.v… của
năm ngoái th́ thóc lúa năm nay chính là báo [của những
duyên đó].
“Bất khả tư nghị”
(Chẳng
thể nghĩ bàn) là vượt khỏi sự hiểu biết,
suy nghĩ, chẳng thể dùng tư duy, ngôn ngữ của
chúng sanh để lănh hội, diễn tả nổi. Trong
câu “chúng sanh nghiệp báo” (nghiệp báo của chúng
sanh), chữ nghiệp báo chỉ nghiệp nhân và quả báo.
Do nghiệp nhân thiện hay ác nên gặp phải quả báo
vui hay khổ.
Kinh Bảo Tích quyển chín mươi sáu chép: “Diêm La thường cáo bỉ tội
nhân: - Vô hữu thiểu tội ngă năng gia, nhữ tự
tác tội kim nhật lai, nghiệp báo tự chiêu, vô đại
giả” (Vua Diêm La thường
bảo bọn tội nhân đó: - Chẳng có chút tội nào
do ta có thể tự thêm vào cả, tội của chính các
ngươi làm nay đến ngày báo ứng, nghiệp báo tự
ḿnh chiêu cảm lấy, không ai chịu thay cho được).
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng chép: “Bồ
Tát tự niệm: Ngă ư quá khứ vô thỉ kiếp
trung, do tham - sân - si, phát thân khẩu ư, tác chư ác nghiệp,
vô lượng vô biên. Nhược thử ác nghiệp hữu
thể tướng giả, tận hư không giới bất
năng dung thọ” (Bồ
Tát tự nghĩ: Ta trong vô thỉ kiếp quá khứ do tham,
sân, si, từ thân, miệng ư tạo các nghiệp ác vô lượng
vô biên. Nếu những ác nghiệp đó mà có thể tướng
th́ trọn hết cơi hư không cũng chẳng thể chứa
đựng được). Do tạo nghiệp vô biên
nên báo cũng vô biên. Câu Xá Luận, quyển chín chép: “Đến ngay cả đức Thế
Tôn cũng không cách chi ngăn ngừa v́ thế lực của
nghiệp mạnh mẽ nhất”; bởi thế, kinh
nói: “Chúng sanh nghiệp báo bất
khả tư nghị” (Nghiệp
báo của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn).
“Chúng sanh thiện căn bất khả tư nghị” (Thiện
căn của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn) là như
kinh Đại Tập dạy: “Chúng sanh hạnh bất khả
tư nghị, chúng sanh cảnh giới bất khả
tư nghị” (Hạnh của chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn, cảnh giới của chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn). Tổ Lâm Tế
cũng nói: “Nhữ dục thức
Phật Tổ ma? Chỉ nhĩ năng thính pháp đích tiện
thị” (Ông muốn biết
Phật, Tổ ư? Ông chỉ cần nghe pháp ắt sẽ
biết) và: “Mỗi nhật đa ban dụng
xứ, nhĩ thiểu thập ma? Lục đạo thần
quang, vị tằng gián yết” (Những việc hằng ngày ông có thiếu chi
đâu? Thần quang của sáu đường chưa từng
gián đoạn). Như vậy, cảnh giới cùng việc
làm thường nhật của chúng sanh đều là những
thứ chẳng thể nghĩ bàn.
Câu kinh Pháp Hoa: “Nhược
nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất
xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Dẫu người tâm tán loạn,
vào trong tháp miếu, niệm Nam Mô Phật một tiếng,
đều đă thành Phật đạo) thật
đă hiển thị sâu xa rằng: Thiện căn của
chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể dùng suy
lường, phân biệt để lănh hội nổi.
“Chư Phật thánh lực,
chư Phật thế giới, diệc bất khả
tư nghị” (Thánh lực của
chư Phật, thế giới của chư Phật
cũng chẳng thể nghĩ bàn): Chữ “chư Phật” chỉ khắp cả mười
phương Như Lai. Trong chữ “thánh lực”, chữ “lực”
chỉ lực dụng. Theo sách Phạn Ngữ Danh Nghĩa
Đại Tập và quyển bốn mươi tám sách Tông Kính
Lục th́ có năm thứ lực: Định Lực, Thông
Lực, Tá Thức Lực, Đại Nguyện Lực và Phật
Pháp Oai Đức Lực. Năm thứ lực này chẳng
thể nghĩ bàn nên kinh bảo “thánh
lực chẳng thể nghĩ bàn”.
Theo kinh này, trong vô lượng kiếp, Pháp Tạng Bồ
Tát trụ vào Chân Thật Huệ để trang nghiêm cơi Phật,
hạnh đức như Phổ Hiền, khai hóa, hiển
thị Chân Thật Tế, muốn cho hết thảy chúng
sanh đều hưởng cái lợi chân thật. Do vô
lượng công đức chân thật của đại
nguyện, đại hạnh đó nên thành tựu
được thánh lực và cơi nước đều chẳng
thể nghĩ bàn.
Với mỗi thứ công đức trong mười bảy
thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cơi
nước, Đàm Loan pháp sư đều bảo là “há thể nghĩ bàn nổi”
như: “Quang minh thực hiện
Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”, “nước
trong cơi ấy thực hiện Phật sự há nghĩ bàn nổi”, “h́nh ảnh ấy
làm Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”, “tiếng ấy
làm Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”. Điều
thù thắng nhất là những người văng sanh “chẳng đoạn phiền năo
lại được hưởng Niết Bàn há thể
nghĩ bàn nổi”.
Kinh Kim Cang Đảnh cũng nói: “Duy thử Phật sát, tận dĩ Kim Cang tự tánh
thanh tịnh sở thành Mật Nghiêm Hoa Tạng” (Chỉ ḿnh cơi Phật ấy dùng
trọn kim cang tự tánh thanh tịnh để tạo
thành Mật Nghiêm Hoa Tạng). Trong quyển hai, tôi
đă chứng minh Mật Nghiêm Hoa Tạng chính là Cực Lạc
thế giới. Cơi nước thù thắng nhiệm mầu
như vậy chẳng từ vi trần tạo thành nên
chẳng phải là vật chất thế gian, chẳng cần
đến sức hấp dẫn giữa vạn vật
để kết tụ nên cần chi núi Tu Di! Do v́ cơi nước
ấy do kim cang tự tánh thanh tịnh tạo thành nên kinh bảo
“thế giới chẳng thể
nghĩ bàn”.
Trong câu “kỳ quốc chúng
sanh công đức, thiện lực” (thiện lực,
công đức của chúng sanh cơi ấy), chữ “kỳ quốc” (cơi ấy) chỉ
thế giới Cực Lạc. Những người văng
sanh phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm, dùng các
thứ chánh hạnh, trợ hạnh, định thiện,
tán thiện để cầu sanh Tịnh Độ, tŕ danh hiệu
viên măn vạn đức, nhập biển đại nguyện
Nhất Thừa. Công đức thù thắng vô lượng
vô biên như thế nên lực dụng thật chẳng thể
nghĩ bàn. Lực dụng đạt được do tu tập
gọi là “thiện lực”.
Tịnh Ảnh Sớ viết: “Nương
vào pháp để tu hành đúng đắn th́ gọi là thiện
lực”. Công đức và thiện lực của chúng
sanh cơi Cực Lạc đều chẳng thể nghĩ
bàn.
Sách Hội Sớ giảng chữ “trụ hạnh nghiệp địa” như sau: “Hạnh nghiệp địa
chính là sự thành tựu đại nghiệp hạnh nguyện
của A Di Đà Phật”. Chúng sanh cơi Cực Lạc do thiện
lực của vô lượng công đức nên có thể an
trụ trong những thành tựu tạo bởi đại
nghiệp nguyện hạnh của A Di Đà Như Lai; v́ thế
bảo là “trụ hạnh nghiệp
địa”.
Trong quyển hai, khi giải thích nguyện thứ bốn
mươi bảy, tôi đă từng dẫn Văng Sanh Luận
Chú để chứng tỏ rằng: Thấy được
thân tướng Phật Di Đà th́ được thân nghiệp
b́nh đẳng, nghe danh hiệu Ngài th́ được khẩu
nghiệp b́nh đẳng, gặp quang minh của Ngài chiếu
đến th́ hiểu được pháp và được
ư nghiệp b́nh đẳng. Những điều như vậy
chính là “hạnh nghiệp địa”
của Phật Di Đà.
Do thiện lực công đức của chúng sanh cơi Cực
Lạc, do sức an trụ vào hạnh nghiệp địa
của Phật Di Đà, và do oai thần vô thượng của
đức Phật ấy, nên cơi nước Cực Lạc
chẳng cần phải nương vào núi Tu Di mà vẫn có
thể an trụ một cách tự nhiên.
Chánh kinh:
阿 難 白 言:業 因 果 報,不 可 思 議。我 於 此 法,實 無 所 惑。但 為 將 來 眾 生 破 除 疑 網,故 發 斯 問。
A
A
- Nghiệp nhân
quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Đối với pháp này
con chẳng nghi hoặc, chỉ là để phá trừ
lưới ngờ cho chúng sanh trong đời tương
lai nên con mới hỏi như thế.
Giải:
Đến đây, ngài A Nan mới nói rơ nguyên do thúc đẩy
Ngài nêu câu hỏi ấy: Ngài thấy rơ chúng sanh trong đời
tương lai t́nh chấp sâu nặng ắt sẽ nghi lầm
điều đó (tức là nghi cơi Cực Lạc không có núi
Tu Di th́ sẽ nương vào đâu để an trụ) nên
mới thay họ thưa hỏi. Trong cơi thế gian này,
chúng sanh điên đảo chất chồng, chỉ
khăng khăng chấp vào những hiện tượng và
quy luật của thế giới này, dùng sự thấy biết
hẹp ḥi để suy xét cảnh giới của Phật.
Thậm chí chấp vào cái thấy biết thiếu sót của
ḿnh rồi nghi ngờ lời Phật; nghe nói cơi Cực Lạc
không có núi Tu Di liền nghi chư thiên cơi ấy biết
nương vào đâu mà trụ?
Để phá nỗi nghi ấy, Phật liền hỏi
ngược lại: Vậy th́ các tầng trời như trời
Dạ Ma v.v… trong cơi này lại nương vào đâu để
trụ? Chẳng lẽ cứ căn cứ theo sự
tướng của trời Đao Lợi để rồi ngờ
vực cơi Cực Lạc hay sao?
Ngài A Nan đại quyền thị hiện v́ chúng sanh
mà thưa hỏi. Bởi thế, Ngài chẳng nói “trụ không” (trụ vào không trung) mà lại
nói “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn)
để khơi gợi Thế Tôn dạy ra điều
thù thắng, nêu lên yếu chỉ của toàn bộ kinh này:
Toàn bộ bản kinh này đều là “bất khả tư nghị” cả.
Điều chấp trước vừa được nói
trên không những chỉ là do chưa hiểu thấu Phật
pháp mà thật ra c̣n mâu thuẫn với cả khoa học hiện
đại. Do thế giới chúng ta đang sống là không
gian ba chiều (tam duy không gian - three-dimension space). Do vọng
niệm chẳng ngừng nên những suy nghĩ, phân biệt
của người đời chẳng thể vượt
khỏi tánh chất hạn cuộc của thế giới
này. Lẽ nào ta lại có thể dùng những quy luật của
không gian ba chiều để suy lường không gian nhiều
chiều trong thực tế một cách sai lạc hay sao?
Hiện tại, lư thuyết không gian nhiều chiều
(đa duy không gian - multi-dimension space) đă được
giới khoa học thừa nhận. Số chiều trong cơi
Thường Tịch Quang của Phật ắt cũng phải
là vô lượng.
Thật ra, chúng sanh cơi Cực Lạc vượt xa cảnh
giới trời, người, nhưng v́ thuận theo các
phương khác nên mới gọi là “trời, người”.
Nói trời Đao Lợi, trời Tứ Thiên Vương v.v…
cũng chỉ là thuận theo cách nói thông thường của
những phương khác. Kinh bảo thánh chúng cơi ấy “hữu tại địa thọ
kinh, thính kinh giả” (có người ở trên mặt
đất nghe nhận kinh điển), có người “hữu tại hư không giảng,
tụng, thọ, thính” (ở trên hư không giảng, tụng,
nghe, nhận). Thánh chúng cơi ấy lại c̣n “cung điện tùy thuộc vào thân”, cho nên cung
điện trong cơi ấy hoặc là ở trên mặt đất
hoặc ở trên hư không. V́ vậy, những tầng trời
như Dạ Ma (không cư), Đao Lợi (địa cư)…
chỉ là thí dụ.
Phẩm
Siêu Thế Hy Hữu của kinh này cũng bảo: “Đản nhân thuận dư
phương tục, cố hữu nhân thiên chi danh” (Chỉ
do thuận theo lề thói phương khác nên có danh từ trời,
người). Như vậy, trời, người và các tầng
trời chỉ là cách nói thuận theo thế tục.