9. Tổng thích kinh đề (Giải thích
chung về tên kinh)
9.1 Kinh
đề
佛 說 大 乘 無 量 壽 莊 嚴 清 淨 平 等 覺 經
Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác Kinh
(Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh, Chi
Lâu Ca Sấm dịch đời Hậu Hán. Phật Thuyết
Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ
Nhân Đạo Kinh, tên khác là Vô Lượng Thọ Kinh, tên khác nữa
là A Di Đà Kinh, Chi Khiêm dịch vào đời Ngô. Vô Lượng
Thọ Kinh, Khang Tăng Khải dịch vào đời Tào Ngụy.
Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, Bồ Đề
Lưu Chí dịch vào đời Đường. Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, Pháp Hiền
dịch vào đời Triệu Tống.
Từ nhà Hán đến nhà Tống, các bản dịch
khác nhau của kinh này xét thấy có mười hai bản,
lưu truyền đến cận đại chỉ c̣n
năm bản trên.)
Bồ tát giới đệ tử Vận Thành Hạ
Liên Cư, pháp danh Từ Tế, hội tập các bản dịch
và kính chia thành chương mục.
Phàm danh đề của kinh đều nhằm hiển
lộ trực tiếp yếu chỉ của kinh khiến
cho người học sẽ do tên kinh mà hiểu được
cái Thể, một phen xem qua tên kinh hiểu ngay được
đôi chút đại ư kinh. V́ vậy, tông Thiên Thai chú thích
kinh trước hết phải giải thích tên kinh.
Năm bản dịch gốc của Đại kinh đều
có tên riêng. Hội bản của họ Vương mang tựa
đề Đại A Di Đà Kinh để phân biệt với bản
dịch gốc và Tiểu Bổn, nhưng chữ Đại
thêm vào ấy không có căn cứ. Tiết bản của
ông Bành và hội bản của ông Ngụy đều đặt
tên là Vô Lượng Thọ Kinh giống như bản Ngụy
dịch, nhưng ba bản khác nhau mang cùng một tên dễ
gây nhầm lẫn. Ông Vương Chánh Định lại đổi
tên hội bản của ông Ngụy thành Ma Ha A Di Đà kinh. Hai
chữ Ma Ha cũng không có căn cứ.
Xét cả mười hai bản dịch từ đời
Hán đến đời Tống, dùng chữ Vô Lượng
Thọ làm tên đă hết mười bản, dùng chữ
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác đặt tên có hai bản. Dùng
Chánh Giác để đặt tên có một bản. Bản dịch
đầu tiên là bản Hán dịch có tên Vô Lượng
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh. Bản cuối cùng là bản
đời Tống có tên Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.
Nay hội bản này lấy tựa đề Phật
Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Kinh của bản Tống dịch làm đầu, bỏ chữ
Kinh trùng lập đi, lấy tựa đề Vô Lượng
Thanh Tịnh Trang Nghiêm B́nh Đẳng Giác Kinh, bỏ hai chữ
trùng lập là Vô Lượng; v́ vậy, tựa đề
kinh thành ra Phật Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh. Tự nhiên hay khéo, chẳng cần đẽo gọt,
nguyên danh của hai bản dịch gộp thành một tên.
Mười hai đề kinh đều gộp trong một
tựa đề. Ư chỉ lớn lao của toàn bộ kinh
tự nhiên rọi trước mắt. Yếu nghĩa của
Tịnh tông chứa trọn trong đề kinh. Nhân, pháp, dụ,
giáo, lư, hạnh, thể, tướng, dụng v.v... cùng hiện
rơ trong một cái tên như hạt châu trong lưới Đế
Thích thâu nhiếp trọn vẹn hết thảy pháp mầu.
Do đây, có thể thấy được đôi phần
chỗ hay khéo của hội bản này.
Chữ đầu của tựa kinh là Phật. Phật
là tiếng gọi tắt của chữ Phạn “Phật
Đà”, nghĩa là Người Giác Ngộ. Giác là đối với
mê mà nói. Mê là chúng sanh. Ba điều giác ngộ trọn vẹn
th́ gọi là Phật. Ba điều giác ngộ là tự
giác, giác tha, và giác măn. Ba giác viên măn gọi là Phật Đà. V́ vậy,
Phật là chúng sanh đă viên măn trọn cả ba giác, chúng
sanh là Phật chưa giác ngộ.
Thêm nữa, Phật là một trong mười hiệu.
Mười hiệu là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật. Đầy đủ mười hiệu
th́ được đời tôn trọng nên gọi là Thế
Tôn.
Thế Tôn tiếng Phạn là Bạc Già Phạm
(Bhavagan). Kinh Phật Địa chép: “Thị
Bạc Già Phạm tối thanh tịnh giác, cực ư pháp
giới, tận ư hư không, cùng vị lai tế” (Bạc
Già Phạm giác ngộ thanh tịnh bậc nhất, cùng tột
pháp giới, cùng tận hư không, suốt trọn đời
vị lai) (Luận Thành Thật gộp chung cả Vô Thượng
Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu thành một hiệu,
tức là cho rằng từ chữ Như Lai đến Thế
Tôn là mười hiệu. Mười hiệu sẽ
được giải thích tường tận trong phẩm
thứ tư).
Trên đây đă chỉ ra Phật là danh hiệu chung của
bậc cực thánh.
Xét trong kinh này, chữ Phật trong tựa kinh là đức
Sa Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Trung Quốc
dịch tên Ngài là Năng Nhân Tịch Mặc. Năng Nhân là Dụng,
Tịch Mặc là Thể. Quả cao ṿi vọi đến mức
rốt ráo hoàn toàn, đại thừa nguyện thuyền
sanh trong đời Ngũ Trược, thị hiện thành
Phật để hóa độ chúng ta, diễn thuyết
kinh này, chính là bậc từ phụ đại ân đại
đức của hết thảy chúng sanh, là bậc đạo
sư không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng thấy,
là đấng Thích Tôn đại giác viên măn.
Thuyết (說) là Duyệt (悅: vui vẻ),
đẹp ḷng mong mỏi. Hai chữ “Phật Thuyết” chỉ
rơ kinh này được chính kim khẩu của đức
Phật nói ra, chẳng phải do kẻ khác nói. Đức
Phật lấy độ sanh làm nguyện, nay chúng sanh
căn cơ chín muồi, kham nhận lănh đại pháp Tịnh
Độ giải thoát rốt ráo. V́ vậy, Ngài vui vẻ nói
để phô bày bổn hoài.
“Đại Thừa” là Dụ (thí dụ). Thừa (乘) có nghĩa là
chuyên chở. Được kẻ lớn (tức căn tánh
kham nhận đại pháp) sử dụng, hoặc pháp
được sử dụng là lớn lao th́ gọi là Đại
Thừa, khác hẳn Thanh Văn, Duyên Giác là Tiểu Thừa
chỉ cầu tự giác. Thập Nhị Môn Luận viết:
“Trong hai thừa, Ma Ha Diễn
cao hơn nên gọi là Đại Thừa. Phật đại
nhân cỡi cỗ xe (thừa) này nên gọi
là Đại.
Lại trừ diệt
được nỗi khổ lớn lao của chúng sanh,
ban cho sự đại lợi ích nên gọi là Đại.
Nó lại c̣n là thừa của
các vị Đại Sĩ: Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế,
Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc Bồ Tát... nên gọi là Đại.
Lại do dùng thừa này
để tột cùng bờ, đáy của hết thảy
các pháp, nên gọi là Đại.
Lại như trong kinh Bát
Nhă, Phật tự nói Ma Ha Diễn vô lượng vô biên. Do
các nhân duyên ấy, gọi là Đại”.
Kinh Bửu Tích lại nói: “
Các kinh, luận trên đây chỉ rơ Đại Thừa chỉ
có chư Phật, Bồ Tát mới có thể thực hiện
(thừa) nổi, nên nói: “Được
kẻ lớn sử dụng”.
Hơn nữa, đạo được vận dụng
là sở hạnh của chư Phật Như Lai nên pháp
được sử dụng là lớn lao. V́ vậy, gọi
là Đại Thừa.
Hơn nữa, cái “Đại” này ngay do Thể mà thành tên, Đại
có nghĩa là “thường trọn khắp”. Thể không bờ
bến, dứt bặt các đối đăi: ngang th́ khắp
trùm mười phương, dọc th́ thông suốt ba đời.
Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, chẳng có pháp nào
trước, chỉ có cái này có trước hết thảy
các pháp (như bài kệ của Phó Đại Sĩ: “Hữu vật tiên thiên địa,
vô h́nh thể tịch liêu” (Có một vật có trước
cả trời đất, vốn vô h́nh lặng lẽ)) nên
cưỡng gọi là Đại, như kinh Niết Bàn chép: “Sở ngôn đại giả,
danh chi vi Thường” (Cái Đại vừa được
nói đó được gọi là Thường). Lại chép: “Sở ngôn đại giả, kỳ tánh quảng bác,
do như hư không” (Cái Đại vừa nói đó tánh nó rộng
lớn, dường như hư không).
Trong kinh này, hai chữ Đại Thừa dùng để ví
cho Đệ Nhất Nghĩa Đế của Tịnh Tông: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật”.
Tâm năng niệm vốn đă là Phật, khởi tâm niệm
Phật, niệm niệm làm Phật, nên cái pháp được
thực hành ấy to lớn.
Hơn nữa, năng tu (chủ thể tu tập) chính
là cái tâm “tâm này là Phật”. Cái được tu (sở tu)
chính là cái tâm “tâm này làm Phật”. Năng tu, sở tu chỉ
là một tâm, ngay nơi tâm ấy là Phật. Tâm, Phật chẳng
hai nên lại có thể nói rằng: Năng tu chính là ông Phật
“tâm này là Phật”, sở tu là ông Phật “tâm này làm Phật”.
Tự Phật, tha Phật chỉ là một Phật. Tự,
tha chẳng hai. Tự, tha giống hệt nhau. Tu, chứng
chẳng hai, siêu t́nh, ly kiến. V́ vậy, cưỡng gọi
là Đại.
Đem cái năng thừa, sở thừa ấy cưỡng
gọi là Đại nên trong tên kinh dùng Đại Thừa làm thí dụ
để chỉ rơ cái yếu chỉ của trọn bộ
kinh.
“Vô Lượng Thọ”, tiếng Phạn là A Di Đà, tức
là thánh hiệu của đấng giáo chủ thế giới
Cực Lạc được nói trong kinh này. Ba chữ A Di
Đà là mật ngữ hàm chứa vô biên mật nghĩa. Nếu
dịch thánh hiệu ấy từ Phạn sang Hán để
tỏ rơ yếu chỉ bí mật bằng ngôn từ thông
thường, ta có thể dịch tên Ngài thành vô biên đức
hiệu. Kinh này dịch tên Ngài thành Vô Lượng Thọ tức
là chỉ trích lấy một nghĩa trọng yếu nhất
mà thôi.
Mười hai thánh hiệu như: Vô Lượng Quang,
Vô Biên Quang… nói trong kinh cũng chính là đức hiệu của
A Di Đà Phật. Bản dịch đời Hán dịch tên Ngài
thành Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, Vô Lượng
Giác, Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác (chữ Giác
ở đây cùng nghĩa với chữ Phật). Các thánh hiệu vừa nêu đều
có chữ Vô Lượng, nhưng thật ra, công đức,
trí huệ, thần thông, đạo lực của Phật,
sự trang nghiêm của y báo, chánh báo, thuyết pháp, hóa độ,
mỗi một thứ đều vô lượng. Do đức
Thế Tôn diệu đức vô lượng nên đức
hiệu của Ngài cũng vô lượng. Trong mỗi danh
hiệu lại hàm chứa vô lượng đức nên tŕ
danh Ngài sẽ chiêu cảm được vô lượng
đức.
Ba chữ đầu tiên trong danh hiệu bản kinh này
là Vô Lượng Thọ: Dùng ba chữ ấy để thống
nhiếp những điều được giảng trong
kinh v́ Vô Lượng Thọ là Thể của Pháp Thân thường
trụ.
Thọ là Thể của trí Như Như[1].
Quang là Tướng của trí Như Như. V́ vậy, dẫu
tên kinh chỉ nói về thọ đức, nhưng cũng
ám chỉ quang đức.
Sách B́nh Giải giảng: “Hết
thảy ba thứ trang nghiêm của Cực Lạc Tịnh Độ
(Phật trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm, quốc độ
trang nghiêm) đều quy về
thọ mạng”.
Lại c̣n viết rằng: “Ba
thứ trang nghiêm của y báo, chánh báo nơi cơi nước
An Lạc nằm gọn trong một pháp cú Vô Lượng Thọ
vậy”.
V́ vậy, đức hiệu Vô Lượng Thọ
được nêu trong tựa đề kinh này gồm cả
nguyện hạnh của Pháp Tạng khi Ngài c̣n tu nhân lẫn
quả địa Phật đức. Y báo, chánh báo, chủ,
bạn của Cực Lạc, yếu chỉ của kinh,
không một điều nào chẳng được thâu tóm
trọn vẹn trong tựa đề bản kinh này.
Sách Thám Huyền Kư giảng chữ “Trang Nghiêm” như
sau: “Trang nghiêm có hai nghĩa: Một
là đầy đủ đức, hai là trang hoàng cho đẹp
đẽ”. V́ vậy, kinh Tiểu Bổn nói: “Kỳ Phật quốc độ,
thành tựu như thị công đức trang nghiêm” (Cơi
nước Phật ấy thành tựu công đức trang
nghiêm như thế). Xin xem lại
phần trên về ba thứ trang nghiêm đă được
nói trong Văng Sanh Luận. Nếu bàn tỉ mỉ th́ có đến
hai mươi chín thứ trang nghiêm, do quá nhiều nên ở
đây chẳng trích dẫn.
Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ”,
“trang nghiêm chúng hạnh” (trang nghiêm các hạnh), lại chép: “Ngă dĩ thành tựu trang nghiêm Phật
độ thanh tịnh chi hạnh” (Ta đă thành tựu hạnh thanh tịnh trang
nghiêm cơi Phật), “Cực Lạc quốc độ,
như thị công đức trang nghiêm bất khả tư
nghị” (cơi nước
Cực Lạc công đức trang nghiêm chẳng thể
nghĩ bàn như vậy). Lại c̣n chép: “Bỉ Cực Lạc giới
vô lượng công đức cụ túc trang nghiêm” (Cơi Cực Lạc kia đầy đủ vô
lượng công đức trang nghiêm).
Các đoạn được dẫn chứng như
trên đă hiển thị rơ ràng ư nghĩa “trang nghiêm” trong tựa
kinh. Các câu “nhất hướng
chuyên chí trang nghiêm diệu độ”, “trang nghiêm các hạnh”
là hạnh nguyện thù thắng của Pháp Tạng. Do hạnh
mà đắc quả nên nói: “Ngă dĩ
thành tựu trang nghiêm Phật độ thanh tịnh chi hạnh”
(Ta đă thành tựu hạnh thanh tịnh
trang nghiêm cơi Phật). Do cảm được quả là
cơi vui sướng nên nói: “Bỉ Cực
Lạc giới vô lượng công đức cụ túc trang
nghiêm” (Cơi Cực Lạc
kia đầy đủ vô lượng công đức, trang
nghiêm).
Các câu “vinh sắc quang diệu,
bất khả thắng kiến” (màu sắc đẹp
đẽ chói lọi chẳng thể nh́n trọn nổi), “vô lượng quang viêm, chiếu
diệu vô cực” (vô lượng
ánh sáng rực rỡ chiếu ngời vô cực), “bạch châu, ma-ni dĩ vi giao lạc,
minh diệu vô tỷ” (bạch châu, ma
ni dùng làm dây chăng, sáng đẹp không ǵ sánh được), “hoa quả hằng
phương, quang minh chiếu diệu” (hoa, trái luôn thơm tho, quang minh chiếu rực
rỡ), “tùy phong tán phức,
duyên thủy lưu phân” (gió thổi
đưa hương thơm ngát, nước chảy tỏa
mùi thơm), “vô lượng
quang minh, bách thiên diệu sắc, tất giai cụ túc” (vô lượng quang minh, trăm ngàn diệu sắc
thảy đều đầy đủ), “kỳ diệu
trân dị, châu biến hiệu sức, quang sắc hoảng
diệu, tận cực nghiêm lệ” (vật kỳ diệu, quư, lạ trang hoàng khắp
nơi, ánh sáng, màu sắc chói ngời, đẹp đẽ
đến cùng cực) đều là những câu tả rơ thế
giới của đức Phật ấy đủ các sự
trang nghiêm khắp cả cơi nước, thể hiện ư
nghĩa “trang hoàng” của chữ “trang nghiêm”.
C̣n các câu như “như thật
an trụ, cụ túc trang nghiêm” (như thật an trụ, đầy đủ trang
nghiêm) trong phẩm thứ chín của kinh này lại nhằm
diễn tả ư nghĩa “đầy đủ các đức”.
Do vậy, thế giới Cực Lạc trang nghiêm như thế
đều là do an trụ nơi Như Thật. Thật là Chân Thật Tế, nghĩa là “đầy đủ
các đức”. Câu “cụ túc trang nghiêm nhất thiết trang
nghiêm, tùy ứng nhi hiện” (hết thảy
trang nghiêm hiện ra tương ứng) trong phẩm mười
lăm chính là nói về ư nghĩa “viên minh cụ đức”
của sự sự vô ngại pháp giới.
“Thanh Tịnh” là ba nghiệp thân, miệng, ư ĺa hết
thảy ác hạnh, phiền năo, cấu nhiễm.
Sách Thám Huyền Kư giảng: “Tam
nghiệp không lỗi th́ gọi là thanh tịnh”, nghĩa
là ba nghiệp thân, miệng, ư đều không có lầm lỗi.
Thêm nữa, cơi “thanh tịnh” chỉ Tịnh Độ, thân
“thanh tịnh” chỉ thân Phật, người thanh tịnh
là Như Lai. Sách Văng Sanh Luận lại bảo ba thứ
trang nghiêm vào trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh
cú. Thanh tịnh cú là “chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”.
Điều này xứng hợp một cách khéo léo tự nhiên với
chữ “trang nghiêm thanh tịnh” được dùng trong tựa
đề bản kinh. Ba thứ trang nghiêm là vô lượng
trang nghiêm bao gồm trong một thanh tịnh cú, ấy chính
là “hết thảy tức là một”. Kinh c̣n chép: “Tâm tịnh tắc Phật độ
tịnh” (Tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh), đó chính
là “một tức là hết thảy”.
Huyền chỉ kinh Hoa Nghiêm lại được thấy
nói khắp nơi trong kinh này.
Hơn nữa, bản Hán dịch gọi A Di Đà Phật
là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, nguyện thứ
mười tám trong bản dịch ấy ghi:
“Ngă tác Phật thời, chư
Phật quốc nhân dân hữu tác Bồ Tát đạo giả,
thường niệm ngă tịnh khiết tâm, thọ chung thời,
ngă dữ bất khả kế tỳ-kheo chúng phi hành nghênh
chi, cộng tại tiền lập, tức hoàn sanh ngă quốc,
tác A Duy Việt Trí” (Khi tôi làm Phật,
nhân dân trong các cơi Phật có kẻ hành đạo Bồ Tát
thường nhớ nghĩ tôi với tâm tịnh khiết,
lúc họ hết tuổi thọ, tôi cùng chẳng thể
tính toán các tỳ-kheo bay đến đón, cùng đứng
trước mặt. Người ấy liền sanh về
cơi tôi, thành A Duy Việt Trí Bồ Tát).
“Tâm tịnh khiết” trong câu trên chính là tâm thanh tịnh,
cũng chính là thanh tịnh cú của Văng Sanh Luận.
Phật tên là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, tâm Phật
là vô lượng thanh tịnh tâm. Tóm lại, cả hai cùng
là một pháp cú. Đó chính là thanh tịnh cú (câu nói thanh tịnh),
tức là: Chân thật trí huệ
vô vi Pháp Thân, cũng tức là một câu Phật hiệu.
V́ vậy, phát tâm Đại Thừa, tŕ danh niệm Phật,
lúc mạng sắp dứt được Phật tiếp dẫn
văng sanh chính là tông chỉ “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” của
kinh này.
Lại nữa, thanh tịnh cú biểu thị Thật Tế
lư thể: Từ thanh tịnh cú sanh ra ba thứ trang nghiêm,
ba thứ trang nghiêm cùng vào trong một thanh tịnh cú, đấy
là ư nghĩa “thanh tịnh trang nghiêm” của tựa đề
kinh.
“B́nh đẳng” là vượt khỏi sai biệt. Kinh
dạy: “Tâm, Phật, chúng sanh
tam vô sai biệt” (Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai
biệt) chính là nói rơ ư nghĩa chữ B́nh Đẳng. Kinh Nhập
Phật Cảnh Giới nói: “Bồ
Đề giả, danh vi b́nh đẳng. B́nh đẳng giả,
danh vi Chân Như, năi chí b́nh đẳng giả, tức nhập
bất nhị pháp môn” (Bồ Đề gọi là b́nh đẳng,
gọi là Chân Như, cho đến b́nh đẳng chính là nhập
bất nhị pháp môn). V́ vậy, có sai biệt th́ thành hai, tức
là chẳng “Như”. V́ thế,
B́nh Đẳng chính là nhập vào Bất Nhị, chính là Chân
Như. Đủ thấy ư nghĩa b́nh đẳng rất sâu.
Nay tựa đề kinh nói “B́nh Đẳng Giác” th́ ta có thể
hiểu theo bốn cách như sau:
- Một là pháp b́nh đẳng phổ giác (giác ngộ trọn
khắp) hết thảy chúng sanh, tức là pháp khiến cho
khắp hết thảy chúng sanh cùng b́nh đẳng thành Phật.
Pháp “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”
của kinh này thích ứng khắp ba căn. Kinh này dạy hết
thảy hàm linh trong tương lai đều nương
theo pháp này mà được độ thoát chính là ư nghĩa
“b́nh đẳng phổ giác”.
- Hai là dùng pháp b́nh đẳng để giác ngộ chúng
sanh. Tịnh Ảnh sớ giảng: “Vô tác, vô sở hữu v.v... là pháp b́nh đẳng”.
Pháp Tŕ Danh “tâm làm Phật, tâm là Phật” thầm hợp diệu
đạo, khéo nhập Vô Sanh, từ niệm nhập vô niệm,
do văng sanh chứng vô sanh, niệm đến khi năng lẫn
sở cùng mất, cho nên pháp Tŕ Danh chính là yếu chỉ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” (hăy nên không trụ vào đâu để sanh tâm) của kinh Kim Cang Bát Nhă và
cũng đúng là pháp “vô tác, vô sở
hữu” đă nói trong Tịnh Ảnh Sớ.
Dùng pháp như vậy dạy dỗ chúng sanh, vượt
ngang khỏi tam giới, thành Cứu Cánh Giác. Đó là dùng pháp
b́nh đẳng để giác ngộ chúng sanh.
- Ba là, B́nh Đẳng Giác là Chánh Giác của Như Lai. Chánh
Giác không có hết thảy sự khác biệt cao, thấp,
sâu, cạn nên gọi là B́nh Đẳng Giác.
- Bốn là riêng trong kinh này, B́nh Đẳng Giác chính là danh hiệu
của đấng giáo chủ Cực Lạc.
Tựa đề kinh gồm đủ các nghĩa nói
trên.
“Kinh”, tiếng Phạn là Tu-đa-la, nghĩa đen là sợi
chỉ, nghĩa bóng là Khế Kinh.
Chữ “Khế” (契) có hai nghĩa:
- Một là khế lư (phù hợp với lư), lư là Thật
Tế Lư Thể.
- Hai là khế cơ. Cơ là cơ nghi[2],
căn cơ của chúng sanh, cũng có nghĩa là thời
cơ, thời tiết nhân duyên. V́ vậy, “khế cơ” là
phù hợp với tính t́nh cùng thời đại của
chúng sanh. Nay do nói gọn, bỏ chữ Khế, chỉ gọi
là Kinh.
Kinh có đủ bốn nghĩa “quán, nhiếp, thường,
pháp” (xuyên suốt, thâu tóm, thường hằng, pháp). Quán (貫) là lư xuyên suốt
tất cả những điều được nói. Nhiếp
(攝) là thâu giữ chúng sanh được hóa
độ. Thường (常) là xưa nay chẳng
đổi. Pháp (法) là xa, gần cùng tuân theo. Dùng cả
bốn chữ vừa nêu trên đây mới nói hết
được ư nghĩa chữ Kinh.
Ngoài ra, những điều Phật dạy được
gọi chung là Kinh. V́ vậy, một chữ “kinh” trong tựa
đề là tên chung, mười bốn chữ “Phật
Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác” là tên riêng của ḿnh kinh này.
Các kinh được đặt tên chẳng ngoài việc
dùng nhân (người), pháp, dụ (thí dụ). Hoặc chỉ
dùng một trong hai thứ (đơn), hoặc dùng cả
hai hoặc ba (phức). V́ vậy, thành ra bảy loại: Ba
loại chỉ dùng một thứ, ba loại dùng đến
hai thứ và một loại dùng đủ cả ba (cụ
túc), cộng chung thành bảy loại.
Chẳng hạn như:
a. Chỉ dùng một thứ (đơn):
- Đơn nhân: A Di Đà Kinh. A Di Đà là nhân, không có pháp, dụ.
- Đơn pháp: Đại Bát Nhă Kinh. Đại Bát Nhă là pháp, không
có nhân, dụ.
- Đơn dụ: Phạm Vơng Kinh. Phạm Vơng là dụ,
không có nhân, pháp.
b. Phức:
- Nhân - pháp: Văn Thù Vấn Bát Nhă Kinh, Văn Thù là nhân,
Bát Nhă là pháp, không có dụ.
- Pháp - dụ: Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Diệu Pháp là pháp,
Liên Hoa là dụ, không có nhân.
- Nhân - dụ: Bồ Tát Anh Lạc Kinh, Bồ Tát là nhân,
Anh Lạc là dụ, không có pháp.
c. Cụ túc nhân pháp dụ:
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Phật
là nhân, Đại Phương Quảng là pháp, Hoa Nghiêm là dụ.
Tựa đề hội bản kinh Vô Lượng Thọ
đây cũng đủ nhân, pháp, dụ:
Chữ Phật trong tựa đề kinh biểu thị
người đắc quả cơi này, Vô Lượng Thọ
là người đắc quả cơi kia, cho nên trong tựa
đề kinh có người đắc quả của cả
hai cơi. Bảy chữ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác
là pháp. Hai chữ Đại Thừa là dụ. Thừa là cỗ
xe. Kinh này có thể chuyên chở vô lượng chúng sanh cùng
đến chỗ có của báu, giống như xe trâu trắng
lớn trong kinh Pháp Hoa nên dùng Đại Thừa làm dụ.
Các kinh đều có đủ giáo-hạnh-lư: Dựa vào
lư lập giáo, nương theo giáo tu hành (hạnh), từ hạnh
hiển lư. Những nhà chú giải khi giải thích đề
kinh cần phải nói rơ trong đề kinh riêng có đủ
giáo, hạnh, lư.
Xét về kinh này, “Phật Thuyết Đại Thừa” là
giáo, “Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác” là hạnh, “Vô
Lượng Thọ” là lư.
Vô Lượng Thọ hàm ư ba đời nhất như
(giống hệt như nhau), bản thể Pháp Thân thường
trụ Niết Bàn, cũng chính là Phật tánh sẵn đủ
của chúng sanh, là bản tâm “tâm này là Phật”. V́ vậy,
phán định Vô Lượng Thọ thuộc về Lư v́
nó chính là Thật Tế Lư Thể.
“Phật Thuyết Đại Thừa” là giáo, nghĩa là
nương theo lư thể của “Vô Lượng Thọ”
để trực chỉ Đại Thừa. Vô Lượng Thọ
là dụ, v́ Phật tuyên thuyết Đại kinh để nói
về cái chúng sanh vốn sẵn có đủ. Lư do phán định
chữ “Phật Thuyết Đại Thừa” là giáo đă rơ.
Lại c̣n từ giáo khởi hạnh nên “Trang Nghiêm Thanh
Tịnh B́nh Đẳng Giác” chính là diệu hạnh được
đức Phật giảng dạy. Một câu Di Đà dùng trang
nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự tâm th́ chính là “y giáo tu
hành”, chẳng nhọc phương tiện, tự
được tâm khai, hiển lộ trọn vẹn b́nh
đẳng giác sẵn có. Ấy là dùng hạnh hiển lư.
Hơn nữa, được văng sanh th́ ngộ Vô Sanh
Nhẫn, từ Thể khởi Dụng, lại dùng diệu
pháp b́nh đẳng này b́nh đẳng phổ độ hết
thảy chúng sanh văng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Đại
Giác. Đấy cũng chính là từ các hạnh hiển lư vậy.
Nếu đem tựa đề kinh phối hợp với
tam đại th́ Vô Lượng Thọ là Thể Đại,
Trang Nghiêm Thanh Tịnh là Tướng Đại, B́nh Đẳng
Giác là Dụng Đại.
Căn cứ theo bản Hán dịch, Vô Lượng Thanh
Tịnh B́nh Đẳng Giác nghĩa là A Di Đà Phật, th́ ta có thể
đem tựa đề kinh này phối hợp với ba
giác:
- Vô Lượng Thọ Phật là Bổn Giác của ta.
- Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm
để trang nghiêm tự tâm là Thỉ Giác.
- Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, tiến thẳng
đến Cứu Cánh Giác chính là chữ “Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác” trong tựa đề kinh.
Lại có thể hiểu như sau: B́nh Đẳng Giác là Bổn
Giác của ta, khởi tâm niệm Phật để tự
“trang nghiêm” là Thỉ Giác. Thỉ, Bổn chẳng rời
nhau, thẳng tiến trên đường giác ngộ, chóng
vào được Tịch Quang, chứng “Vô Lượng Thọ”.
Như vậy, B́nh Đẳng Giác là nhân tâm (cái tâm dùng làm
nhân, cái tâm tu nhân) của ta, Vô Lượng Thọ là Quả
Giác của chúng ta.
Diệu
nghĩa được phát triển đến vô tận
như thế, nhưng đều nằm gọn trong tựa
đề. V́ vậy, sách Viên Trung Sao có câu sớ như sau: “Nghe tựa đề kinh
được vô lượng công đức”. Lời
Sao giảng: “Như kinh Kim Quang
Minh và các kinh Đại Thừa khác phần nhiều nêu thuyết
này”.
[1] Như Như Trí chính là tên gọi khác của
Chân Như diệu trí, vốn sẵn thanh tịnh, không bị
vô minh che lấp, chẳng bị phiền năo ô nhiễm, chiếu
tột cùng các pháp, b́nh đẳng không hai. Do trí ấy chiếu
soi (nhận biết) các cảnh đúng như thật, không
bị thiên lệch, sai khác nên gọi là Như Như Trí.
[2] Cơ nghi (機 儀): Căn cơ thích ứng với
pháp được giảng.