3. Tông thú của kinh này
Điều được kinh đề cao gọi là Tông (宗). Tông là trọng
yếu, là tông chỉ của toàn bộ kinh. Tông lại là
đường lối trọng yếu để tu hành. V́
vậy, Tông là cương lănh của toàn bản kinh. Lưới
(cương: 綱) được giở lên th́ mắt
lưới trương ra. Nắm cổ áo (lănh: 領) th́ thân áo xuôi
theo. V́ vậy sau khi phán định Thể, trước hết
phải xác định Tông.
Thể là Lư, Tông là Hạnh. Thể là cái bản thể
để Tông nương vào. Tông là cái Tông để hiển
thị cái Thể.
Ngoài ra, Tông và Thể là hai mặt hỗ tương.
Tông là hạnh trọng yếu để lănh hội Thể
nên phải đề cao.
Bản sớ giải Tâm kinh của ngài Hương
Tượng giảng: “Điểm
được coi trọng là Tông, chỗ quy hướng của
tông th́ gọi là Thú”. Ngài Khuê Phong đại sư viết
trong sách Viên Giác Lược Sớ rằng: “Thú có nghĩa là hướng đến, tức là chỗ
quy hướng của tâm ư thức”.
Đủ biết: Thú (趣) là
quy thú (歸趣: Hướng
đến, quay về). V́ vậy, dựa vào tông chỉ của
kinh để tỏ rơ việc làm, biết điều mong
cầu, thấu đáo tột cùng chỗ kinh đạt
đến th́ gọi là Thú vậy.
Từ xưa đă có nhiều thuyết bàn về tông
thú của bản dịch kinh Vô Lượng Thọ đời
Ngụy.
Bản sớ giải của ngài Gia Tường Cát Tạng
viết: “Tông chỉ của
kinh này thường có hai thuyết: Một là Di Đà tu nhân cảm
quả Tịnh Độ. Hai là khuyến vật ([chữ vật]
chỉ cho chúng sanh, “khuyến vật” là khuyên nhủ chúng
sanh) tu nhân, văng sanh cơi kia”.
Ngài Hải Đông Nguyên Hiểu viết trong sách Tông Yếu
rằng: “Kinh này đúng là dùng
nhân quả Tịnh Độ làm Tông Thể, lấy thâu nhiếp
chúng sanh văng sanh làm ư chí”.
Đàm Loan pháp sư bảo: “Lấy
danh hiệu Phật làm Thể của kinh”.
Ngài Thiện Đạo nói: “Niệm
Phật tam-muội là tông, nhất tâm hồi nguyện (nguyện
hồi hướng) văng sanh Tịnh Độ là Thể” (Chữ
Thể ở đây chỉ cho Thú).
Bộ Hợp Tán của thầy Thích Quán Triệt
người Nhật viết: “Kinh
này: Niệm Phật là Tông, văng sanh là Thể. Kinh này tôn trọng
Niệm Phật nên lấy Niệm Phật làm Tông, chỗ
quy thú của Tông là cốt được văng sanh nên lấy
văng sanh làm Thể”.
Tịnh
tông coi kinh Vô Lượng Thọ là Đại kinh, kinh A Di Đà là
Tiểu kinh v́ hai kinh này chỉ rộng hay lược sai
khác. Do vậy, trong Sớ Sao, ngài Liên Tŕ gọi Đại
kinh là Đại Bổn, Tiểu kinh là Tiểu Bổn, v́ thật ra
hai kinh chỉ là cùng một kinh.
Tông thú của kinh A Di Đà cũng có nhiều thuyết, ở
đây chỉ chọn lấy những thuyết quan trọng.
- Sách Sớ Sao cho rằng: “Y
báo, chánh báo thanh tịnh, tín nguyện văng sanh là tông thú”.
- Sách Viên Trung Sao bảo: “Dùng
tín, nguyện, tịnh nghiệp làm tông trí (tức tông thú) của
kinh”.
- Sách Di Đà Yếu Giải cho rằng: “Dùng tín nguyện tŕ danh làm tông”.
Tổng hợp những ư kiến về tông thú hai kinh Đại,
Tiểu nói trên của các vị trong nước và hải
ngoại, ta thấy tất cả đều lấy “tín
nguyện tŕ danh, văng sanh Tịnh Độ” làm gốc. Tham khảo
khắp ư kiến các vị đă chú giải kinh cũng
như căn cứ trên kinh văn kinh này, tôi minh xác tông thú
kinh này như sau:
Kinh này dùng phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm làm Tông; sanh trọn
vẹn bốn cơi Tịnh Độ, chóng lên địa vị
Bất Thoái làm Thú.
3.1 Giảng về Tông
Người văng sanh trong ba bậc thượng, trung, hạ
nói
trong phẩm Tam Bối Văng Sanh của kinh này, ai chẳng lấy
“phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” làm
nhân. Hơn nữa, nguyện thứ mười chín của
Phật Di Đà là:
“Văn ngă danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu
chư công đức, phụng hành Lục Ba La Mật, kiên cố
bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng,
nguyện sanh ngă quốc, nhất tâm niệm ngă, trú dạ bất
đoạn. Lâm thọ chung thời, ngă dữ chư Bồ
Tát chúng nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức
sanh ngă sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (Nghe danh hiệu ta, phát Bồ Đề tâm,
tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật kiên cố
chẳng lui sụt. Lại đem thiện căn hồi
hướng nguyện sanh cơi ta, nhất tâm niệm ta, ngày
đêm chẳng dứt. Lúc lâm chung, ta cùng các Bồ Tát hiện
đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc
liền sanh cơi ta, làm Bất Thoái Chuyển Bồ Tát).
Nguyện thứ mười tám: “Văn ngă danh hiệu, chí tâm tín nhạo,
sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng,
nguyện sanh ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược
bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác, duy trừ
Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (Nghe danh hiệu ta chí tâm tin ưa, bao nhiêu thiện
căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cơi ta, nhẫn
đến mười niệm, nếu chẳng sanh về,
chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch,
phỉ báng chánh pháp)
Rơ ràng: Nguyện thứ mười chín chú trọng phát
Bồ Đề tâm, một ḷng niệm Phật. Nguyện
mười tám nhấn mạnh “chí tâm tin ưa, nhất
hướng chuyên niệm”. V́ vậy, ta biết rằng “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm” là tâm tủy của bổn
nguyện Phật Di Đà, là tông yếu của toàn bộ Đại
kinh, là chánh nhân ắt đủ để văng sanh, là thuyền
từ phương tiện độ sanh. Điều
được Đại kinh tôn sùng hoàn toàn là điểm này.
Đường trọng yếu tu hành chỉ có điểm này
là thiết yếu, nên nó là Tông của Đại kinh vậy.
Đàm Loan đại sư viết trong Văng Sanh Luận chú
rằng:
“Ba bậc văng sanh trong kinh Vô
Lượng Thọ tuy hạnh có ưu, liệt, nhưng
không ai chẳng phát tâm Bồ Đề vô thượng. Tâm Bồ Đề vô thượng
này chính là tâm nguyện thành Phật, chính là tâm độ
chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ
chúng sanh sanh về cơi có Phật. V́ vậy, nguyện sanh về cơi An Lạc Tịnh Độ
th́ cần phải phát tâm Bồ Đề vô thượng. Nếu
ai chẳng phát tâm Bồ Đề vô thượng, chỉ nghe
cơi kia hưởng vui không gián đoạn, do vui thích mà nguyện
sanh th́ cũng chẳng được văng sanh”.
An Lạc Tập viết: “Theo
Tịnh Độ Luận (tức Văng Sanh Luận) của ngài
Thiên Thân, phàm muốn phát tâm lănh hội Vô Thượng Bồ
Đề th́ có hai nghĩa: Một là trước hết phải
rời bỏ ba pháp trái nghịch Bồ Đề môn, hai là cần
biết ba pháp thuận Bồ Đề môn.
Những ǵ là ba?
- Một là nương theo
trí huệ môn: Chẳng cầu tự ḿnh vui v́ xa ĺa ngă tâm
tham trước tự thân.
- Hai là nương từ bi môn: Dẹp hết thảy khổ
cho chúng sanh v́ xa ĺa tâm khiến cho chúng sanh chẳng an vui.
- Ba là phương tiện
môn: Tâm xót thương hết thảy chúng sanh v́ chính ḿnh
đă xa ĺa cái tâm cung kính, cúng dường tự thân. Ấy
gọi là xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề tâm.
Thuận Bồ Đề môn là
Bồ Tát xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề môn như
trên liền được ba pháp tùy thuận Bồ Đề
môn. Những ǵ là ba?
- Một là tâm vô nhiễm
thanh tịnh, chẳng v́ thân ḿnh mà cầu an vui. Bồ Đề
là chốn thanh tịnh vô nhiễm, nếu v́ tự thân mà cầu
vui là trái nghịch với Bồ Đề môn. V́ vậy tâm vô
nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ Đề môn.
- Hai là tâm an ổn thanh tịnh
v́ dẹp khổ cho hết thảy
chúng sanh.
- Ba là tâm vui thanh tịnh, do
muốn cho hết thảy chúng sanh được đại
Bồ Đề vậy, v́ nhiếp thủ chúng sanh sanh sang cơi
kia vậy. Bồ Đề là chỗ thường vui rốt
ráo, nếu chẳng làm cho hết
thảy chúng sanh đạt được sự thường
vui rốt ráo th́ trái nghịch Bồ Đề môn.
Sự thường vui rốt
ráo ấy dựa vào đâu để có được? Cần
phải dựa vào đại nghĩa môn. Đại nghĩa
môn là cơi nước An Lạc
kia vậy. Thế nên, phải khiến cho họ nhất
tâm chuyên chí nguyện sanh cơi kia, muốn cho họ sớm hiểu
được vô thượng Bồ Đề”.
Ngài Hải Đông Nguyên Hiểu lại viết trong bộ
Tông Yếu rằng: “Phát Bồ
Đề tâm chính là chánh nhân”. Ngài lại bảo: Phát Bồ
Đề tâm có hai loại:
1. Một là theo Sự phát tâm: “Phiền năo vô biên nguyện đều đoạn hết,
thiện pháp vô lượng nguyện đều tu hết,
chúng sanh vô biên nguyện đều độ cả. Quả
báo của tâm ấy tuy là Bồ Đề mà hoa báo của nó là
Tịnh Độ. V́ sao thế? Bồ
Đề tâm lượng rộng lớn vô biên, xa rộng vô hạn
nên cảm được y báo Tịnh Độ rộng lớn
không ngằn mé, chánh báo thọ mạng lâu dài vô lượng.
Ngoại trừ Bồ Đề tâm, không có ǵ làm được
như thế cả”.
2. Hai là thuận Lư phát tâm: “Tin
hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng
phải có, chẳng phải không, dứt ngôn ngữ, bặt
suy nghĩ. Tin hiểu
như vậy, phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy
có phiền năo, pháp lành, mà chẳng bài bác là không có ǵ để
tu để đoạn. V́
vậy, tuy nguyện đoạn hết, tu hết, mà chẳng
trái nghịch Vô Nguyện tam-muội. Tuy nguyện độ
hết vô lượng hữu t́nh mà chẳng có người
hóa độ lẫn kẻ được độ. Do vậy,
có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy:
Diệt độ vô lượng
chúng sanh như vậy, nhưng thật sự chẳng có
chúng sanh được diệt độ. Phát tâm như vậy
công đức vô biên, dẫu cho chư Phật trọn kiếp
diễn nói công đức người ấy c̣n chẳng thể
nói hết nổi”.
Quán kinh c̣n dạy: “Dục
sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước…
Tam giả phát Bồ Đề
tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa,
khuyến tấn hành giả” (Muốn sanh cơi kia nên tu ba
phước.... Ba là phát Bồ
Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại
Thừa, khuyến khích hành giả). Lại dạy: “Nhược
hữu chúng sanh nguyện bỉ quốc, phát tam chủng tâm
tức tiện văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả
phát chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi
hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất
sanh bỉ quốc” (Nếu có chúng
sanh nguyện sanh cơi kia, phát ba loại tâm liền được
văng sanh. Những ǵ là ba? Một là tâm chí thành, hai là thâm tâm,
ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Ai trọn đủ
ba tâm ắt sanh cơi kia). Phát ba tâm này cũng chính là phát Bồ
Đề tâm.
Hơn nữa, Mật Tông chú trọng nhất là phát
đại Bồ Đề tâm. Giáo điển Bồ Đề
Tâm Nghĩa dạy: “Bồ Đề
tâm là cái gốc để thành Phật. Đại sự nhân
duyên không điều nào hơn được nó”.
Sách Bồ Đề Tâm Luận lại giảng: “Bồ Đề tâm này hàm chứa
pháp công đức của hết thảy chư Phật. Nếu
tu chứng xuất hiện th́ làm đạo sư của hết
thảy. Nếu quay về gốc th́ là cơi Mật Nghiêm, chẳng
đứng dậy khỏi ṭa mà thành tựu được
hết thảy Phật sự”.
Lại khen ngợi tâm Bồ Đề như sau: “Nếu ai cầu Phật huệ
mà thông đạt Bồ Đề tâm th́ ở ngay nơi thân do
cha mẹ sanh ra sẽ mau chứng địa vị Đại
Giác”.
Thêm nữa, vua của các kinh là kinh Hoa Nghiêm dạy: “Vong thất Bồ Đề tâm,
tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp” (Tu các pháp
lành mà quên mất Bồ Đề tâm th́ là ma nghiệp). Phát tâm quan trọng chẳng
thể ví dụ nổi.
Các vị như sư Nguyên Hiểu lấy phát Bồ Đề
tâm làm Chánh Nhân, niệm Phật làm Trợ Nhân. Các vị
như Thiện Đạo, Linh Chi của Trung Hoa và các sư Tịnh
tông người Nhật đều cho Tŕ Danh là Chánh Hạnh,
phát tâm là Trợ Hạnh. Hai thuyết nghịch nhau. Liên Tŕ
đại sư nói một cách dung hội trong Sớ Sao rằng:
“Đă dùng Tŕ Danh làm chánh hạnh, lại
lấy Tŕ Danh làm phát Bồ Đề tâm th́ ḥa hội
được ư kiến của cả hai phái”.
Tôi nay đề xướng “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”
làm Tông của kinh này, thật là gộp trọn ư kiến cả
hai phái, lại c̣n quy nhiếp về Tŕ Danh, thật phù hợp
ư tổ Liên Tŕ.
Vả lại, tám chữ trên, nói rộng th́ chính như
ư kiến của thiền sư Triệt Ngộ: “Thật v́ sanh tử phát Bồ Đề
tâm, dùng tín nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật”. Nói gọn
th́ như đại sư Ngẫu Ích đề xướng: “Tín nguyện tŕ danh”.
Sách Di Đà Yếu Giải lấy “tín nguyện tŕ danh” làm
Tông, lại c̣n viết: “Tín nguyện
tŕ danh là yếu chỉ của cả bộ kinh. Tín nguyện
là Huệ Hạnh, tŕ danh là Hành Hạnh. Được văng sanh
hay không hoàn toàn là ở chỗ có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn
toàn do tŕ danh sâu hay cạn. V́ thế, Huệ Hạnh để
dẫn đường, Hành Hạnh là chánh tu, như mắt
và chân liên quan với nhau”.
Lại c̣n viết: “Tin sâu
phát nguyện chính là vô thượng Bồ Đề. Hợp
tín nguyện ấy lại th́ đích thật là chỉ nam của
Tịnh Độ. Do vậy, chấp tŕ danh hiệu là chánh hạnh...
Kinh Đại Bổn A Di Đà cũng lấy phát Bồ Đề
nguyện làm trọng yếu, thật tương đồng
với kinh này”.
Rơ ràng: “Tín nguyện tŕ danh” và “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm” đúng là cùng một tông chỉ.
Đại sư Ngẫu Ích lấy “tín nguyện tŕ danh” làm tông
cho kinh Tiểu Bổn th́ tông chỉ của hai bổn Đại,
Tiểu phải giống nhau. V́ vậy, bảo “phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” là Tông của
kinh Đại Bổn thật đúng là đă tuân phụng lời
dạy của đại sư Ngẫu Ích.
Chữ Hướng (向) trong “nhất
hướng chuyên niệm” có nhiều nghĩa:
- ngả theo một hướng mà tiến tới
- lệch hẳn về một phía
- một vị
- gộp chung lại
- một khoảng thời gian
Do vậy, “nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật”
có nghĩa là chuyên nương theo pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật
này. “Nhất hướng chuyên niệm” vốn là chữ lấy
trong nguyện thứ mười tám “thập niệm tất sanh” (mười niệm ắt
sanh). Đức Di Đà trong lúc tu nhân phát ra đại nguyện
“mười niệm ắt văng sanh” nên hành nhân phát Bồ Đề
tâm “nhất hướng chuyên niệm” ắt được
văng sanh Tịnh Độ, chứng trọn vẹn diệu quả
Bất Thoái.
Người văng sanh bậc Thượng, bậc Trung, bậc
Hạ trong kinh đều do phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm A Di Đà Phật mà văng sanh Tịnh Độ
Cực Lạc. Ấy là do giác ngộ là quả, tâm làm nhân,
phương tiện rốt ráo phơi bày trọn vẹn
nguyện hải Nhất Thừa của Di Đà, sáu chữ hồng
danh oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Hơn nữa, “nhất hướng chuyên niệm” là
như cổ đức dạy: “Thượng
th́ tận h́nh thọ, hạ th́ mười niệm”.
Thượng tận h́nh thọ là từ ngày phát tâm niệm
Phật trở đi, suốt đời niệm Phật
thẳng đến một niệm tối hậu lúc lâm
chung. Đấy là bậc Thượng. C̣n bậc Hạ
chưa thể làm nổi như vậy, hoặc bởi
chướng nặng, hoặc do bận rộn chẳng rảnh
rang để niệm nhiều th́ mỗi ngày hành pháp Thập
Niệm cũng là “nhất hướng chuyên niệm”. C̣n
bét nhất th́ như trong Quán kinh nói: Kẻ Ngũ Nghịch,
Thập Ác lúc mạng sắp dứt, được nghe
thánh giáo, chí tâm hối cải, mười niệm xưng
danh cũng được văng sanh, nên nói: “Mười niệm
ắt sanh”.
Hành giả nên biết: Nhất hướng chuyên niệm
là từ lúc bắt đầu phát tâm niệm Phật cho
đến một niệm tối hậu, mà niệm quan trọng
khẩn thiết nhất là niệm tối hậu. Như kẻ
ác nghịch vừa nói trên đây, niệm Phật mười
tiếng th́ tiếng thứ nhất là sơ niệm, tiếng
thứ mười là niệm cuối cùng, cũng là thẳng
thừng từ sơ phát tâm cho đến chết đều
tŕ danh. Do vậy, phù hợp với tông chỉ “nhất
hướng chuyên niệm”. Trái lại, như có kẻ niệm
Phật mấy mươi năm nếu lúc tối hậu
bỏ lửng, khinh thị Tŕ Danh, đổi qua tu pháp khác,
hoặc lúc lâm chung chẳng ưa Cực Lạc, luyến
tiếc thế gian, chưa thể niệm Phật nổi
th́ chẳng gọi là “nhất hướng chuyên niệm!”
Nếu như ngờ rằng Niệm Phật sao lại
có công đức như thế? Hăy nên biết: Do Năng Niệm,
Sở Niệm[1]
đều là Thật Tướng vậy. Sách Di Đà Yếu
Giải giảng:
“Quang là theo chiều ngang chiếu
khắp mười phương. Thọ là theo chiều dọc
khắp cả ba đời. Ngang
dọc hỗ tương đều là pháp giới thể.
Đem cả cái Thể ấy làm thành thân và cơi của Phật
Di Đà, cũng đem cả cái Thể ấy làm thành danh hiệu
Di Đà. V́ vậy, danh hiệu Di Đà chính là bổn giác lư tánh của
chúng sanh. Tŕ danh là Bổn
Giác hợp với Thỉ Giác. Thỉ, Bổn chẳng hai,
chúng sanh và Phật chẳng hai, nên một niệm
tương ứng đức Phật trong một niệm.
Niệm niệm tương ứng
với đức Phật trong niệm niệm”.
Do đoạn văn trên thấy được rằng:
Danh hiệu Di Đà là Pháp Giới Thể nên công đức của
danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, danh
hiệu tức là bổn giác lư tánh của chúng sanh. Khởi
tâm niệm Phật là Thỉ Giác. Đức Phật đang
được ḿnh niệm đây chính là Bổn Giác của
ta. Do vậy, ta nói Tŕ Danh chính là Bổn Giác hợp với
Thỉ Giác. Bởi vậy, niệm niệm tương ứng
mà niệm niệm chính là Phật th́ rơ ràng công đức
Tŕ Danh chẳng thể nghĩ bàn.
Hơn nữa, theo Mật Điển, công đức của
chỉ riêng chữ A trong sáu chữ hồng danh đă là vô
lượng. Đại sư Hưng Giáo người Nhật
giảng:
“Từ chữ A lưu xuất
hết thảy đà-ra-ni, từ hết thảy đà-ra-ni
sanh ra hết thảy các vị Phật”.
C̣n bảo: “Chân ngôn chữ
A là tâm của mười phương Phật. Pháp thân
chư Phật cùng gia tŕ” và: “Tỳ
Lô Xá Na[2]
dùng chữ A này làm tạng bí mật”.
Lại c̣n nói:
“Ba thân chỉ nói một pháp
chữ A, các kinh rộng khen công đức của pháp này.
Nghe tên thoảng qua tai, các tội băng tiêu. Xướng
âm, thấy mặt chữ, vạn đức như mây nhóm.
Xem sơ qua mà tin th́ dạo thẳng Tịnh Độ, tu sâu
viên trí, chứng Phật đạo ngay trong hiện tại”.
Công đức của chữ A đă như thế, huống
hồ là công đức của toàn thể danh hiệu Phật.
Một câu Phật hiệu đây thực hiện thật dễ,
chẳng luận nam nữ trẻ già, chẳng cần biết
ngu, trí, rảnh, bận, ai cũng niệm được,
kẻ nào cũng hành được. Danh chiêu vạn đức,
cảm ứng mầu nhiệm khó thể nghĩ nổi. Từ
hữu niệm khéo nhập vô niệm, ngay nơi tâm phàm
nhanh chóng hiển lộ quả đức, đúng như Sớ
Sao đă nhận định: “Ngang
với chư thánh trong một lời, vượt ba
A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm”.
Cực viên, cực đốn, quá sức giản dị,
nên biết “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên
niệm” chẳng những là cương tông của kinh mà
thật sự c̣n là chỉ quy của cả Đại Tạng
giáo.
3.2 Giảng về Thú
Chỗ quy hướng của tông gọi là Thú. Chỗ thú hướng của
“phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” là
văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ, chứng ba thứ Bất
Thoái. V́ vậy, kinh này lấy sanh trọn vẹn bốn
cơi Tịnh Độ, chóng lên địa vị Bất Thoái làm
Thú. Tịnh Độ có bốn cơi: Phàm Thánh Đồng Cư,
Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Trang Nghiêm và
Thường Tịch Quang. Dưới đây sẽ giải
thích sơ lược về tướng trạng văng sanh bốn
cơi.
* Phàm Thánh Đồng Cư Độ:
Cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực
Lạc là Đồng Cư Tịnh Độ. Thế giới
Sa Bà ta đang ở đây cũng là cơi Phàm Thánh Đồng
Cư. Cơi này cũng có phàm, có thánh, như Văn Thù thường
hiện Ngũ Đài, các vị A La Hán thường trụ tại
núi Thiên Mục hoặc Nhạn Đăng. Họ đều là bậc
thánh cơi này, nhưng cơi Đồng Cư chúng ta đang ở
là Đồng Cư uế độ. V́ vậy, tuy cùng mang
tên Đồng Cư nhưng thật ra chẳng giống
nhau.
Sách Yếu Giải giảng về cơi Đồng Cư
nơi đây như sau:
“Do thật thánh (chỉ
cho ba thánh quả Tiểu thừa) quá khứ có lậu nghiệp, quyền thánh (đại
quyền thị hiện Bồ Tát) đại từ bi nguyện, nên phàm phu được
ở chung với thánh nhân. Đến
khi thật thánh nát thân (niết-bàn), cơ ứng hóa của quyền
thánh hết (cơ duyên hóa độ đă hết) liền thăng, trầm khác xa,
khổ, vui khác biệt vời vợi. Tuy là tạm giống,
rốt cuộc không giống.
Lại nữa, trong ṿng trời
đất, ít kẻ được thấy nghe. Nếu may
mắn được gặp gỡ th́ ít kẻ chịu
thân cận, học hỏi. Hơn nữa, khi Phật tại
thế thánh nhân dẫu đông đảo, như của
quư, như điềm lành, nhưng chẳng thể trọn
khắp các cơi nước như các ngôi sao, như bụi trần. Vả
lại, tuy đồng cư mà việc làm, thành tựu trọn
chẳng giống nhau”.
Theo lời giải thích của sách Yếu Giải, cơi
Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới này kém Cực
Lạc ở bốn điểm:
1. Tạm đồng: Cơi này, ba quả vị đầu
của Tiểu Thừa chứng A La Hán xong liền nhập
tịch diệt. Cơ độ sanh của Đại Quyền
Bồ Tát đă hết th́ liền chẳng thị hiện
nữa. Do đó, phàm phu cơi này chỉ là tạm thời
đồng cư, chẳng phải là rốt ráo. C̣n đồng
cư Tịnh Độ th́ lại có thể cùng với các Đại
Bồ Tát nhóm hội chung một chỗ măi cho đến
khi thành Phật.
2. Khó gặp: Tuy có bậc thánh thị hiện sống
trong cơi này nhưng chẳng dễ gặp gỡ, thân cận;
c̣n ở Cực Lạc, thánh giả đều như thầy,
như bạn, sáng, chiều cùng ở.
3. Hiếm hoi: Thánh giả như của quư, như
điềm lành, hy hữu khó gặp, c̣n ở Cực Lạc
th́ “có nhiều vị Nhất
Sanh Bổ Xứ, số ấy rất nhiều chẳng thể
dùng toán số để biết nổi, chỉ có thể
nói là vô lượng vô biên A- tăng-kỳ”.
4. Việc làm chẳng đồng: Trong cơi này, thánh
giả đều ở cảnh thánh, c̣n chúng sanh luân hồi
sáu nẻo, thăng - trầm vô định. Phàm thánh tuy cùng ở
cơi này nhưng việc làm và thành tựu khác hẳn nhau. Ở
Cực Lạc, cùng hết vô minh, cùng lên Diệu Giác, nên biết
là Đồng Cư nơi Tịnh Độ vượt xa
Đồng Cư cơi này vô lượng vô biên lần.
Hơn nữa, phàm ở cơi này th́ gồm cả ba ác đạo:
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, c̣n Đồng
Cư cơi kia “chẳng c̣n có cái
tên ác đạo, nữa là thật có!” Người
được văng sanh sẽ chẳng rớt vào ba ác đạo
nữa, vĩnh viễn ĺa nẻo ác, chẳng như chúng
sanh cơi này ở trong biển sanh tử, thoạt vào thoạt
ra, thoạt ch́m, thoạt nổi, xoay vần trong ác đạo,
ở trong nẻo khổ đă lâu.
Sâu hơn nữa th́ như sách Yếu Giải đă giảng:
“Nên biết đại sự
nhân duyên của bọn ta: Một ải Đồng Cư
thật khó thoát qua nhất”. Ấy là v́ phàm phu cơi Đồng
Cư này phải đoạn được Kiến Hoặc
và Tư Hoặc mới đắc Lậu Tận Thông, mới
vượt khỏi ḍng sanh tử, vượt thoát Đồng
Cư tiến lên cơi Phương Tiện Hữu Dư. Đấy
là vượt tam giới theo chiều dọc, thật là việc
khó.
Nay pháp môn văng sanh bỏ Đồng Cư uế độ
sanh về Đồng Cư Tịnh Độ, được
sanh về Cực Lạc liền đoạn sanh tử nên
gọi là “vượt ngang tam giới” (hoành siêu tam giới).
Người văng sanh chẳng đợi đoạn hai Hoặc
(Kiến Hoặc và Tư Hoặc), chỉ cần phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, liền
được Phật nguyện ngầm gia bị, quyết
được văng sanh Tịnh Độ. Việc này rất dễ
nên gọi “đạo dễ hành”.
Phương tiện vượt thẳng như thế
rất thù thắng hy hữu, mười phương không
đâu có thể bằng được nổi. Do vậy,
cơi Đồng Cư của Cực Lạc vượt xa cơi Phật
mười phương.
Lại c̣n đới nghiệp văng sanh: Dẫu c̣n là phàm
phu chẳng bị thoái chuyển, một đời thành Phật.
Thế nên, văng sanh Đồng Cư cũng là sanh trọn vẹn
bốn cơi vậy.
* Phương Tiện Hữu
Dư Độ:
Nếu người niệm Phật dụng công sâu
đậm, ĺa được tâm tạp loạn, chuyên niệm
một câu danh hiệu, tâm, miệng tương ứng, từng
chữ phân minh, tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng
rời tâm, niệm niệm tiếp nối chẳng có gián
đoạn. Niệm Phật như thế gọi là Sự
Nhất Tâm. Nếu đạt đến cảnh giới
này tuy chẳng cầu đoạn Hoặc mà Kiến, Tư
phiền năo tự nhiên đoạn mất. Từ Đồng
Cư uế độ cơi này sanh ngang sang cơi Phương Tiện
Hữu Dư của Cực Lạc.
* Thật Báo Trang Nghiêm Độ:
Nếu nhớ Phật, niệm Phật rành rẽ phân
minh, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm
ấy, không c̣n niệm thứ hai nào, chẳng bị các niệm
tham, sân, phiền năo tạp loạn th́ gọi là Sự Nhất
Tâm. Trên mặt Sự đă đạt, nhưng về mặt
Lư chưa thấu triệt, chỉ thuộc về Định
môn, chưa có Huệ môn.
Nếu trên đầu sào trăm thước, tiến
thêm một bước nữa, chợt khế hợp bản
tánh của chính ḿnh, biết rơ Năng Niệm, Sở Niệm
chỉ là nhất tâm, chẳng trụ hữu niệm, chẳng
rớt vào vô niệm như Sớ Sao đă viết: “Nếu nói là Có th́ bản thể
của cái tâm Năng Niệm tự nó là Không, đức Phật
đang được ta niệm cũng trọn chẳng
thể được. Nếu bảo là Không th́ tâm Năng
Niệm sáng ngời chẳng lầm lẫn, đức Phật
được niệm phân minh rạng ngời”.
Vô niệm mà niệm, niệm nhưng vô niệm. Nói,
nghĩ dứt bặt, chẳng thể gọi tên, mô tả;
chỉ là nhất tâm, Thể vốn sẵn thanh tịnh,
nào có pháp ǵ tạp loạn được. Đấy gọi
là Lư nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kiêm cả đắc
Định. Niệm Phật nếu đạt đến
Lư nhất tâm, phá một phần vô minh th́ sanh trong Thật
Báo Trang Nghiêm Độ, đồng thời chứng một
phần Thường Tịch Quang độ.
Thật Báo Trang Nghiêm Độ là nơi cư ngụ của
hàng Pháp Thân Đại Sĩ. Các vị Đại Sĩ từ
Sơ Địa trong Biệt Giáo, Sơ Trụ trong Viên Giáo trở
lên mới được sanh về cơi ấy. Phá một phần
vô minh, chứng một phần Pháp Thân th́ mới sanh
được cơi này. Bậc
Đại Sĩ cơi ấy sắc tâm tự tại, thân và cơi ảnh
hiện, trong một đầu lông hiện cơi Bảo
Vương. Trong một hạt bụi chuyển đại
pháp luân, xứng tánh trang nghiêm vô chướng, vô ngại. Bốn
mươi địa vị Pháp Thân Đại Sĩ từ bậc
Bồ Tát Sơ Trụ trong Viên Giáo cho đến Đẳng
Giác Bồ Tát đều thuộc cơi này. Mỗi địa
vị đều chứng một phần Thường Tịch
Quang Độ.
* Thường Tịch Quang
Độ
Cơi Pháp Thân của Phật ngự được gọi
là Thường Tịch Quang. Sách Yếu Giải viết: “Thể của Thật Tướng
chẳng tịch, chẳng chiếu. Tịch mà hằng chiếu,
chiếu nhưng luôn tịch, chiếu mà tịch, cưỡng
gọi là Thường Tịch Quang. Tịch mà chiếu,
cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân”. V́ vậy,
thân và cơi chẳng hai; đều là cưỡng gọi. “Tịch
- Chiếu đồng thời”
chẳng phải là cảnh có thể suy lường
được.
Thêm nữa, ba chữ Thường Tịch Quang phơi
bày trọn vẹn ba đức Niết Bàn của Như
Lai bí tạng. Thường là Pháp Thân Đức v́ Pháp Thân
thường trụ. Tịch là Giải Thoát Đức v́
trần lao vĩnh viễn tịch tĩnh. Quang là Bát Nhă
Đức do trí quang chiếu khắp.
Bậc Đẳng Giác Đại Sĩ phá sạch bốn
mươi mốt phẩm vô minh, liền phá một phẩm
Sanh Tướng Vô Minh tối hậu, Pháp Thân hiển lộ
hoàn toàn, chứng trọn vẹn ba đức, triệt ngộ
ngọn nguồn bổn tâm, rốt ráo thanh tịnh, chứng
nhập Thường Tịch Quang Độ.
Phàm phu đới nghiệp văng sanh cơi Đồng Cư, do
gặp Phật dạy dỗ nên không thoái chuyển. Do thọ
mạng vô lượng nên ngay trong một đời đoạn
trừ trọn vẹn các Hoặc, thanh tịnh trọn vẹn
bốn cơi Tịnh Độ. Do vậy, sanh cơi Đồng Cư
cũng chính là sanh ba cơi trên nên bảo là: “Sanh trọn bốn
cơi”.
Lại nữa, trong cơi này (Sa Bà) tu hành khó khăn, nhiều
duyên thoái thất, nên kẻ tu đạo nhiều như
lông ḅ, người đắc đạo hiếm tựa vảy
lân. Cơi Cực Lạc thành Phật dễ dàng v́ không thoái chuyển.
Phẩm Chánh Nhân Văng Sanh trong kinh dạy: “
Cơi Cực Lạc hơn hẳn mười
phương, trước hết là do phàm phu đới nghiệp,
sanh sang cơi kia rồi liền đắc A Duy Việt Trí. A
Duy Việt Trí, Hán dịch Bất Thoái.
Bất Thoái lại có ba nghĩa:
- Vị Bất Thoái: Nhập ḍng thánh, chẳng đọa
địa vị phàm phu.
- Hạnh Bất Thoái: Đoạn trừ Kiến Tư
Hoặc, dẹp sạch Trần Sa, luôn độ chúng sanh,
chẳng đọa Tiểu Thừa.
- Niệm Bất Thoái: Phá vô minh, hiển lộ Phật
tánh, niệm niệm lưu nhập Như Lai quả hải.
Đối với ba thứ Bất Thoái trên đây, nếu
ở cơi này tu tŕ th́ phải đoạn Kiến Hoặc
như Sơ Quả của Tạng Giáo, Kiến Địa của
Thông Giáo, Sơ Trụ của Biệt Giáo, Sơ Tín của
Viên Giáo th́ mới gọi là Vị Bất Thoái.
Bồ tát của Thông Giáo, Thập Hướng của
Biệt Giáo, Thập Tín của Viên Giáo mới là Hạnh Bất
Thoái.
Sơ Địa của Biệt Giáo, Sơ Trụ của
Viên Giáo mới gọi là Niệm Bất Thoái.
Nhưng pháp môn Tịnh Độ hoành sanh viên siêu[3]
chẳng thể nghĩ bàn. Hễ văng sanh rồi sẽ chẳng
đọa xuống địa vị phàm phu nữa, tức
là chứng Vị Bất Thoái.
Cơi nước Cực Lạc chỉ có một Phật
thừa nên chẳng đọa vào Tiểu thừa, đó là
Hạnh Bất Thoái.
Sanh vào cơi Đồng Cư xong liền cùng sanh vào ba cơi trên,
viên tu, viên chứng. Ở trong thế giới ấy, ắt
phá vô minh, hiển thị Phật tánh, chứng Niệm Bất
Thoái.
Do Niệm Bất Thoái, vượt đủ bốn
mươi mốt nhân vị[4],
một đời thành Phật như sách Yếu Giải
chép: “Kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác, mười niệm thành tựu đới nghiệp văng
sanh, thuộc vào hạ hạ phẩm đều đạt
được ba thứ Bất Thoái”. Sách ấy lại
viết:
“Hiểu như vậy mới
có thể tin sâu nguyện lực của Phật Di Đà. Tin Phật
lực rồi mới có thể tin sâu công đức của
danh hiệu. Tin tŕ danh rồi th́ mới có thể tin sâu tâm
tánh của chúng ta vốn chẳng thể nghĩ bàn”.
Hơn nữa, nhân duyên bất thoái nơi cơi Cực Lạc
gồm năm điều:
- Một, được Di Đà đại từ nguyện
lực nhiếp tŕ nên chẳng thoái.
- Hai, Phật quang thường chiếu, Bồ Đề
tâm tăng tấn nên chẳng thoái.
- Ba, nước, chim, cây cỏ đều diễn diệu
pháp, tăng thêm chánh niệm nên chẳng thoái.
- Bốn, thuần các Bồ Tát làm bạn thù thắng,
ngoài không ma tà, trong không phiền năo nên chẳng thoái.
- Năm, thọ mạng lâu dài nhiều kiếp, ngang bằng
với thọ mạng của Phật nên chẳng thoái.
Ôi! Thánh đức khó lường, ơn Phật khó báo,
Di Đà bi tâm cùng cực, thánh trí khôn tầy! Từ đấy
hiện ra cơi Đồng Cư Tịnh Độ dễ sanh về
này cho phàm phu. Hành nhân chẳng cần đoạn Hoặc,
tiêu nghiệp, chỉ cốt tín nguyện tŕ danh, thậm
chí mười niệm đều được văng sanh,
vượt ngang tam giới, vĩnh viễn ĺa khỏi các nỗi
khổ, chứng địa vị Bất Thoái, nhất sanh
bổ Phật (được bổ xứ làm Phật
trong một đời), siêu t́nh ly kiến[5]
chẳng thể nghĩ bàn. Mười phương thế
giới thật không đâu có thể bằng được
như vậy nên Cực Lạc được ngàn kinh muôn
luận cùng khen ngợi. Văng sanh cơi Đồng Cư tức là
sanh ngang qua ba cơi trên. Chứng địa vị Bất Thoái
cũng là chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Niệm
niệm lợi khắp quần sanh, tâm tâm lưu nhập biển
giác, đó thật là chỗ quy thú của kinh này vậy.
[1] Năng Niệm: Người niệm Phật
hoặc cái tâm niệm Phật, Sở Niệm: đức
Phật được hành nhân niệm.
[2] Tỳ Lô Xá Na (Vairocana), c̣n phiên âm là Tỳ
Lô Giá Na, Bệ Lỗ Giá Na, hoặc dịch nghĩa là Đại
Nhật Như Lai hay Quang Minh Biến Chiếu Như Lai là
danh hiệu của Pháp Thân Phật.
[3] Hoành sanh viên siêu: Vượt thoát tam giới
sanh ngay sang Tịnh Độ, không phải tu dần dần
theo thứ tự để vượt thoát tam giới nên
gọi là “hoành sanh” (sanh về Tịnh Độ theo chiều
ngang), hễ sanh về Tịnh Độ sẽ chứng
lên địa vị Bất Thoái, tuy sanh về cơi Đồng
Cư nhưng cũng chứng đắc ba cơi trên nên gọi
là “viên siêu” (siêu thoát trọn vẹn).
[4] Nhân vị: Bốn mươi mốt
địa vị Bồ Tát từ Sơ Trụ cho đến
Đẳng Giác Bồ Tát, do vẫn chưa thành Phật, tức
chưa đạt đến quả vị chứng ngộ
tột cùng, cho nên vẫn thuộc về tu nhân, v́ thế bốn
mươi mốt địa vị Bồ Tát ấy đều
gọi là “nhân vị” (địa vị trong khi c̣n đang
tu nhân).
[5] Siêu t́nh ly kiến: T́nh gọi đủ
là “t́nh tưởng”, tức những ư niệm nhận thức
thế giới bên ngoài qua lăng kính vô minh của sáu thức.
Kiến là những sự thấy biết qua tác dụng của
sáu thức. Do đó thường gọi chung là “t́nh kiến”.
Siêu t́nh ly kiến là vượt khỏi những sự nhận
biết, những quan niệm đă bị lệch lạc
v́ vô minh phiền năo.