Đại Thế Chí Bồ Tát
Niệm Phật Viên Thông
Chương
Lược Giảng
(Nguyên tác: Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương Thân Văn Kư)
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Đệ tử Lưu Thừa Phù bút kư
Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa
Ngày 19 tháng 10 năm
1992, pháp sư Tịnh Không giảng Lăng Nghiêm Kinh Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương tại
học viện Đức An Tác (De Anza College) ở Gia
Châu (California) hơn một tuần, nhờ pháp sư
bảo cư sĩ Trương Đức Thanh gởi cho
băng thâu âm lời giảng kinh gồm tám cuốn, chúng
tôi mở lên kính nghe, trích lấy những điểm trọng
yếu chép lại, dâng lên các đồng tu khảo duyệt.
Chư vị
đồng tu!
Lần giảng kinh
này, tôi chọn lấy một đoạn kinh văn trọng
yếu nhất của kinh Lăng Nghiêm là chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông. Cổ đức
nói: “Khai huệ: Lăng Nghiêm, thành Phật: Pháp Hoa”.
Trong các kinh luận Đại Thừa, thường nói Nhất
Xiển Đề chẳng thể thành Phật, Nhất Xiển
Đề là kẻ đoạn mất thiện căn.
Đến khi giảng kinh Pháp Hoa, Phật lại nói Nhất
Xiển Đề cũng có thể thành Phật, tức là
nói ai nấy đều có thể thành Phật. Đấy mới
là giảng Phật pháp đến mức viên măn rốt ráo,
bởi thế nói “thành Phật: Pháp Hoa”.
Nói chung,
kinh điển Phật giáo truyền đến Trung Quốc,
đều do các cao tăng đại đức hoặc
cư sĩ Ấn Độ đến Trung Quốc truyền
giáo mang theo, ngoài ra c̣n có những kinh do các học tṛ Trung Quốc
qua Ấn Độ tham học, khi trở về nước
mang theo. Những lưu học sinh ấy khi ở Ấn
Độ đều chẳng được thấy kinh
Lăng Nghiêm là do các vương triều nắm quyền thời
ấy coi kinh này là quốc bảo, chẳng cho phép truyền
ra ngoại quốc.
Thời Đường,
có vị cao tăng người Ấn Độ là pháp
sư Bát Lạt Mật Đế, từng trước sau
hai lượt lén chuyển kinh này ra ngoại quốc, đều
bị quan xét ải xét thấy, ngăn cản. Cuối
cùng, Ngài chép kinh này lên một loại lụa rất mỏng,
xẻ bắp tay nhét vào, trông giống như một vết
thương nặng, lén chuyển qua Trung Quốc. Sau khi
phiên dịch xong kinh này tại Trung Quốc, Ngài bèn trở về
Ấn Độ tiếp nhận pháp luật quốc gia xét
xử. Quá tŕnh vận chuyển kinh gian nan như thế
đấy.
Cuối
đời Tùy, đầu đời Đường, bậc
đại đức của tông Thiên Thai là Trí Giả đại
sư, căn cứ vào kinh nghĩa của kinh Pháp Hoa phát huy
học thuyết Tam Chỉ Tam Quán. Đương thời,
có một vị cao tăng Ấn Độ nói: “Tam Chỉ
Tam Quán rất giống với giáo nghĩa kinh Lăng
Nghiêm”. Trí Giả đại sư nghe vậy, rất
mong kinh Lăng Nghiêm sớm có ngày được truyền
đến Trung Quốc. Do đó, Ngài bèn xây một đài lạy
kinh ở núi Thiên Thai, ngày ngày hướng về Tây lễ
bái cầu cảm ứng. Lạy suốt mười tám
năm cho đến ngày lăo nhân gia viên tịch.
Nơi phiên dịch kinh này là Quảng
Châu, người tham gia phiên dịch không đông. Tể
tướng đương triều Vơ Tắc Thiên là Pḥng
Dung, nhân phạm lỗi bị biếm ra Quảng Châu làm
quan địa phương, khéo sao, nhân cơ duyên ấy
được tham dự công tác dịch kinh, đảm
trách nhiệm vụ bút lục. Ông rất giỏi văn
chương. Nếu dùng con mắt văn học để
nhận định th́ văn tự kinh Lăng Nghiêm ưu
mỹ nhất trong các kinh Phật.
Lúc đức
Thế Tôn giảng kinh này, nói ra năm thứ đề mục
kinh, các đề mục ấy như sau:
1. Đại Phật
Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng
Bảo Ấn Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải
Nhăn.
2. Cứu Hộ Thân
Nhân Độ Thoát A Nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tỳ
Kheo Ni Đắc Bồ Đề Tâm Nhập Biến Tri Hải.
3. Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa.
4. Đại
Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Thập
Phương Phật Mẫu Đà Ra Ni Chú.
5. Quán Đảnh
Chương Cú Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ
Lăng Nghiêm.
Các đại đức
dịch kinh lấy 19 chữ trong các đề mục trên
ghép thành “Đại Phật Đảnh Như Lai Mật
Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm”, đặt làm đề mục
bản dịch tiếng Hán kinh này. Bây giờ, chúng tôi chia ra
thành bảy đoạn để giới thiệu:
I. Giải thích đề mục kinh
1. Đại:
Đại
là từ ngữ khen ngợi. Chữ Đại này có nghĩa
là vô hạn, chẳng phải là tương đối.
Đại tức là tâm chúng sanh; tâm dung nhiếp hết thảy
pháp thế gian và xuất thế gian nên gọi là Đại.
Chữ Tâm rất khó giải thích, nhà Phật nói chân tâm và vọng
tâm là một, chẳng phải là hai tâm. Giác là chân tâm, mê là vọng
tâm. Vọng tâm chỉ phát khởi tác dụng cục bộ.
Chúng sanh trong chín pháp giới tŕnh độ mê ngộ bất
đồng, mê thật nặng là chúng sanh trong địa ngục,
mê rất nhẹ là Bồ Tát. Chữ “thế gian” chỉ
lục phàm (1), chữ “xuất thế gian” chỉ tứ
thánh (2). Mười pháp giới toàn là do tâm biến hiện.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Ưng
quán pháp giới tánh,
Nhất
thiết duy tâm tạo.
(Nên
quán tánh pháp giới,
Hết
thảy do tâm tạo)
Chữ “tánh”
ấy chỉ bản thể. Tâm là thể, mười pháp
giới là hiện tượng. Sau khi giác ngộ, tâm ấy
ắt thanh tịnh, b́nh đẳng, tuyệt không nhân ngă thị
phi. Hết thảy vạn pháp đều lưu lộ từ
tâm tánh, kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Các
kinh điển khác, có kinh gọi là Thật Tướng, Phật
Tánh, Viên Giác, Chân Như, kinh này gọi là Như Lai Tạng,
những danh từ ấy đều chỉ Nhất Tâm. Phật
nói nhiều danh từ như thế là nhằm dụng ư dạy
chúng ta đừng chấp trước. Trong Đại Thừa
Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát nói: “Ĺa ngôn thuyết
tướng, ĺa danh tự tướng, ĺa tâm duyên tướng”.
Tâm duyên tướng chính là chấp trước.
Mười
phương vô tận, không gian lớn vô hạn, tam tế vô
cùng. Tam tế (ba bờ mé) chính là thời gian: quá khứ, hiện
tại, vị lai. Không gian và thời gian chính là bản thể
của mười pháp giới; bản thể là cái tâm của
chúng ta lớn vô hạn. Nguyên lai của mười pháp giới
và chân tướng của vũ trụ nhân sanh, các khoa học
gia, triết gia, các nhà tôn giáo hiện đại nghiên cứu
t́m ṭi, không t́m được kết luận. Vấn đề
này chỉ có ḿnh kinh Lăng Nghiêm là nói rất rơ ràng, giảng
thấu triệt thực tại.
Kinh Lăng Nghiêm chỉ
có sáu bảy vạn chữ, có độ sâu tương
đương. Ngôn ngữ có hạn độ, nói chẳng
rơ ràng, diễn đạt chẳng hết được.
Phạm vi tư duy tuy rộng, vẫn không cách nào đạt
đến mức rốt ráo được. Phải tách rời
ngôn ngữ, tư duy mới ḥng lănh ngộ, nhưng cũng
không thể nói ra được. Kinh Lăng Nghiêm có thể
dẫn dắt quư vị nhập cảnh giới ấy,
đạt đến tŕnh độ tự chứng. Công
phu tu đến mức thành công đó gọi là Thủ
Lăng Nghiêm Đại Định. Sau khi đạt đến
mức độ này, hết thảy vũ trụ, nhân sanh,
hết thảy muôn pháp, nhân trước quả sau, t́m long
tróc mạch (3), quư vị đều hiểu rơ ràng hết,
bởi thế nói “khai trí huệ là kinh Lăng Nghiêm”.
Phần
mở đầu kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh
văn dài gọi là “bảy chỗ chỉ tâm” – đức
Thế Tôn hỏi ngài A Nan “tâm ông ở đâu?” A Nan rất
thông minh, Ngài cũng đáp bảy chỗ, nhưng đều
bị Phật bác hết, Ngài mới thừa nhận ḿnh mê
hoặc, điên đảo, đức Phật bèn dựa
trên sáu căn chỉ ra tác dụng của bản thể.
C̣n mê gọi là “Như Lai Tạng”, giác rồi gọi
là “Tu Chứng Liễu Nghĩa”, Liễu là hiểu rơ.
Pháp môn Niệm Phật là pháp liễu nghĩa bậc nhất
trong các pháp liễu nghĩa.
Để giảng về
Lăng Nghiêm Đại Định, trong kinh nêu lên hai
mươi lăm vị Bồ Tát làm đại biểu, mỗi
vị đều đă chứng đắc minh tâm kiến
tánh. Hai mươi lăm phương pháp ấy là hai
mươi lăm pháp tổng quát, triển khai ra sẽ
thành tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đại Thế Chí Bồ
Tát đại biểu cho việc tu Lăng Nghiêm Đại
Định bằng phương pháp Niệm Phật, trong
hai mươi lăm pháp môn được gọi là thù thắng
bậc nhất, sau khi tu học viên măn gọi là Thủ
Lăng Nghiêm Vương.
Trong Phật pháp, tuyệt
đối chẳng có ǵ gọi là bí mật cả! Bí mật
chẳng phải là việc tốt, nói chung là chuyện con
người không thấy được. Nhà Phật nói “mật”
nghĩa là “thâm mật” (sâu kín), phải có trí huệ
viên măn cao độ mới hiểu rơ được. Một
câu danh hiệu A Di Đà Phật chính là mật nhân (cái nhân
sâu kín), y theo phương pháp này tu hành đạt được
Niệm Phật Tam Muội, chứng đắc Sự Nhất
Tâm Bất Loạn th́ quư vị mới lư giải được
chút phần; chứng đắc Lư Nhất Tâm Bất Loạn,
quư vị mới có thể hiểu rơ phần lớn,
nhưng vẫn chưa hiểu triệt để, đợi
đến khi thành Phật mới có thể hiểu rơ triệt
để.
Trong hai mươi
lăm pháp môn ấy, chỉ có mỗi một pháp môn thích hợp
nhất cho việc tu học của chúng ta; các pháp môn khác
tuy hay, nhưng điều kiện quá cao, chúng ta tu học
theo chẳng thể thành tựu ngay trong một đời
này. Pháp môn Niệm Phật thích hợp nhất cho chúng sanh
trong thời đại này: trí cạn phước mỏng,
chướng ngại lại nhiều. Nhưng chỉ tu chết
nơi Phật hiệu không thôi th́ vẫn chưa đúng, phải
lấy Phật hiệu làm chánh tu, và cũng cần phải
có trợ tu, chẳng hạn như tu ba thứ phước
như trong phần giảng về ba bậc chín phẩm của
Quán Kinh đă dạy, và mười nguyện Phổ Hiền.
Niệm Phật chẳng thể không hiếu thuận đối
với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, chẳng thể
không có tâm từ bi, chẳng thể không tu Thập Thiện.
Lấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới làm mục tiêu chung, gọi là “đại
hạnh”.
Cái Định mà
Như Lai đă đạt được khi chứng quả
gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định. “Mật
nhân” là Lư, “Liễu Nghĩa” là Giáo, “Vạn Hạnh”
là Hạnh, “Lăng Nghiêm” là Quả. Bốn thứ Giáo
- Lư - Hạnh - Quả đều được bao gồm
trong đề mục kinh này.
2. Phật Đảnh
Phật
Đảnh là tỷ dụ, biểu thị pháp môn này thù thắng
vi diệu. Đảnh đầu Phật khác với đảnh
đầu người thường. Đảnh đầu
Phật có một u thịt màu hồng nhô lên, có thể phóng
quang, không ai thấy được, bởi thế gọi
là “vô kiến đảnh tướng”, đó là một
trong ba mươi hai tướng hảo. Kinh Hoa Nghiêm, kinh
Pháp Hoa như toàn thân đức Phật, kinh Lăng Nghiêm
như đảnh đầu đức Phật, cho thấy
kinh này viên đốn tôn diệu, là thù thắng nhất
trong tất cả kinh pháp. Y theo pháp này tu hành chính là con
đường thẳng hướng đến Phật.
3. Như Lai Mật Nhân
Chữ “Như Lai mật nhân” chỉ
chánh nhân Phật tánh, như kinh Niết Bàn dạy: “Chánh
nhân Phật tánh là Chân Như trung, chánh, ĺa hết thảy tà
vạy, sai trái. Y theo đó sẽ thành tựu quả đức
Pháp Thân”. Đây là nói về bổn tánh, ai cũng vốn
có sẵn, ai nấy đều đầy đủ, chỉ
có điều: Phàm phu mê hoặc nên chẳng tự biết.
Kinh Lăng Nghiêm chỉ ra chân bản (căn bản
đúng đắn) trong hai thứ
căn bản. Hai thứ căn bản: Nơi phàm phu là sanh
tử căn bản, do mê nên hiển hiện thành sanh tử
luân hồi; nơi Phật Bồ Tát, nó trở thành Bồ
Đề Niết Bàn căn bản.
Sáu căn của chúng
ta đều chẳng rời ngoài nó; núi, sông, đại
địa và hết thảy chúng sanh đều là nó. Những
lời này nghe ra chẳng dễ hiểu được, núi
sông, đại địa, nhân vật bên ngoài liên quan chi
đến ta? Khi quư vị ở trong mộng cảnh, núi,
sông, đại địa, người, vật từ
đó mà ra. Mộng là do tâm hiện, toàn thể cái tâm biến
thành mộng cảnh, chẳng phải là có vật ǵ từ
bên ngoài vào trong mộng cả. Năng biến (chủ
thể thực hiện động tác biến hiện) là tâm, sở biến (cái được
biến hiện ra) là tướng
hư vọng. Lúc mộng bèn có núi, sông, đại địa;
lúc tỉnh, hết thảy đều chẳng có. Hết
thảy tướng trạng của cảnh giới
được biến hiện bởi chân tâm tựa hồ
chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc,
nhưng do chúng có tướng “tương tục” (tiếp
nối) nên quư vị chẳng nhận
biết hiện tượng sanh diệt trong từng sát-na.
Trong kinh
Lăng Nghiêm, đức Phật dạy A Nan hạ thủ
công phu ngay trên sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ư. Sau khi đốn ngộ mới biết sáu căn
chính là nơi để chân tâm bản tánh phát khởi tác dụng,
nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe,
nơi mũi gọi là ngửi, nơi lưỡi gọi
là nếm, nơi thân gọi là đụng chạm, nơi ư
gọi là biết. Thấy, nghe, hay, biết là tác dụng của
chân tâm. Lúc mê vẫn khởi tác dụng, chẳng qua người
ngộ rồi sẽ khởi tác dụng vĩnh viễn chẳng
mê.
Nơi người mê,
niệm thứ nhất là chân tâm; ví như sau cái thấy
đầu tiên của mắt, trong ư niệm thứ hai bèn
khởi phân biệt xen tạp xấu, tốt, thiện, ác.
Đó là mê. Ĺa khỏi hết thảy vọng tưởng,
chấp trước, thấy nghe vẫn rơ ràng tường
tận, nhưng sắc được thấy, tiếng
được nghe chẳng c̣n phân biệt, chấp trước,
chẳng khởi tâm động niệm, tức là hoàn toàn
giống hệt như Phật, Bồ Tát. Lúc Phật c̣n tại
thế, có ai hướng về Phật thưa hỏi những
vấn đề họ nghĩ không ra, Phật liền lập
tức đáp ứng, không phải suy nghĩ chút nào. Đó
gọi là “Bát Nhă vô tri, vô sở bất tri” (Bát Nhă
không biết, nhưng không ǵ chẳng biết). “Vô tri” là Căn Bản Trí, “vô sở
bất tri” là Hậu Đắc Trí. Dùng vọng tưởng,
chấp trước để nghiên cứu kinh Phật là
biến Phật pháp thành thế gian pháp, vĩnh viễn chẳng
thể khai ngộ được!
Chánh nhân
là bổn tánh, liễu nhân là trí huệ chân thật; chân trí
hoàn toàn phù hợp với chân tướng sự thật, trọn
không mảy may nào sai lệch, th́ mới gọi là “thật
chứng”. Nếu như do suy lư mà lănh hội th́ chẳng
thể tin cậy được. Người ta thường
cho rằng tu Thiền, tu Mật không thể không đọc
kinh Lăng Nghiêm; thật ra, người tu Tịnh Độ
lại càng không thể không đọc Lăng Nghiêm.
Ước chừng vào
năm Dân Quốc năm mươi mốt (1962), tôi trụ
tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, có một ngày, có mấy
sinh viên đại học Đài Loan, cùng với một giáo
sư (người Nhật Bổn, giáo sư thỉnh giảng
của đại học Đài Loan) đến t́m tôi
đàm luận Phật pháp. Vị giáo sư đó hỏi
tôi thường ngày tu pháp môn nào, tôi nói thường ngày tôi
tu pháp môn Niệm Phật, chủ tu là kinh Lăng Nghiêm. Ông
ta bèn hạ một câu: “Kinh Lăng Nghiêm có quan hệ chi với
Tịnh Độ?” Ông ta tỏ thái độ hơi ngạo
mạn, tôi vừa nghe liền biết ông ta chưa thông. Tôi
hỏi ngược lại một câu: “Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí Bồ Tát có quan hệ chi với Tịnh Độ?”
Hỏi vậy, ông ta không đáp được câu nào, khá là
lúng túng. Hai vị Bồ Tát ấy thuộc vào Tây
Phương Tam Thánh, phần kinh văn tối trọng yếu
trong kinh Lăng Nghiêm là chương Quán Thế Âm Bồ Tát
Nhĩ Căn Viên Thông và chương Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông.
Kinh Lăng Nghiêm có mối
quan hệ mật thiết với tất cả Phật
pháp Đại Thừa, bất cứ tông phái nào cũng
không thể không đọc kinh Lăng Nghiêm. Văn Thù Bồ
Tát chọn lấy pháp Nhĩ Căn Viên Thông là minh tuyển (chọn
rơ ràng), kỳ thật, Ngài ám tuyển
(tuyển ngầm) pháp Niệm
Phật.
Hai mươi lăm
pháp Viên Thông được tŕnh bày theo thứ tự thuận,
những pháp không được tuyển được xếp
theo thứ tự thuận; những pháp được tuyển
xếp ra sau cùng. Giống như ca kịch, vở nào hay nhất
xếp ra sau cùng làm vở hạ màn. Trong hai mươi
lăm pháp Viên Thông, có đến hai pháp được xếp
vào sau chót, chẳng phải là một pháp. Nhĩ Căn
đáng lẽ phải xếp thành pháp thứ nh́, lại xếp
ra sau cùng. Trong Thất Đại: Địa, Thủy, Hỏa,
Phong, Không, Kiến, Thức, pháp môn Niệm Phật của
ngài Đại Thế Chí là Kiến Căn Đại. Lẽ
ra, Ngài phải được xếp trước ngài Di Lặc,
nhưng hiện tại, Ngài được xếp vào hạng
mục hai mươi bốn, đứng sau ngài Di Lặc.
Ngài Văn Thù chọn
pháp Niệm Phật v́ nó khế hợp với căn cơ
chúng sanh trong pháp giới, chọn pháp Nhĩ Căn Viên Thông
của ngài Quán Âm v́ nó khế hợp căn cơ của
chúng sanh trong thế giới Sa Bà này. Tôi ở Đài Trung
theo thầy Lư mười năm, chủ tu Lăng Nghiêm.
Đối với pháp Niệm Phật, tôi tin tưởng
sâu xa, chẳng nghi là do nhờ kinh Lăng Nghiêm nên mới
hoàn toàn liễu giải.
4. Tu Chứng Liễu Nghĩa
“Do tín
khởi quán” gọi là “tu”, lấy quán hạnh làm Tu, chẳng
phải là lấy việc trải đủ mọi sự
làm Tu. Lấy giải ngộ làm Chứng, chứ chẳng
phải trải qua các địa vị để thủ
chứng. Nhà Thiền gọi Quán là “quán chiếu”, sáu
căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài nhưng chẳng
mê th́ gọi là “quán chiếu”; chẳng khởi tâm
động niệm phân biệt, chấp trước gọi
là Quán. Có thiện ác, thị phi, lấy - bỏ th́ chẳng
phải là Quán. Chẳng phải là do trải qua các địa
vị tiến lên từng nấc mà tu được, cứ
hễ tu hành đạt đến một tiêu chuẩn nhất
định bèn khởi tác dụng, liền đạt
được hai thứ thù thắng:
- Một là trên có cùng một
từ lực với chư Phật, lực dụng lớn
nhất là cứu hộ hết thảy chúng sanh, trừ
được hết thảy năo hại cho bản thân.
- Hai là dưới cùng
một bi ngưỡng với chúng sanh, có năng lực tự
nhiên có thể cảm ứng đạo giao với hết
thảy hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới.
Phật,
Bồ Tát có năng lực cảm ứng chẳng thể
nghĩ bàn, năng lực ấy là do chứng Liễu Nghĩa
mà được. Tuy nói là “được”, nhưng
thật ra, đó chính là tác dụng của đức
năng vốn sẵn có đủ nơi tự tánh. Tánh
đức phải nhờ vào Tu đức mới có thể
hiển hiện.
Phát ra ba tác dụng th́:
a) Điều thứ
nhất là Tam Thập Nhị Ứng (ba mươi hai thân ứng
hóa). Tam thập nhị ứng chỉ là cách phân loại tổng
quát. Phàm phu thường hiểu lầm, cho rằng Phật,
Bồ Tát có tướng mạo nhất định, có
người hỏi Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ,
người hỏi như vậy nhất định chỉ
hiểu biết Phật pháp hời hợt. Người
chân chánh chứng đắc “tu chứng liễu nghĩa”th́
không có tướng mạo nào để nói được,
có thể tùy theo từng loài mà hóa thân, đáng nên dùng thân nào
để độ được kẻ ấy th́ sẽ
hiện thân đó để thuyết pháp. Phật, Bồ
Tát không vọng tâm, vọng niệm, phân biệt, chấp
trước; thuận theo tâm chúng sanh, ứng theo sự hiểu
biết của họ, Phật, Bồ Tát có thể hiện
các thân. Nơi thiên đường, địa ngục, súc
sanh, ngạ quỷ, các ngài đều có thể hiện thân
đồng loại. Chúng ta cũng có năng lực đó,
v́ tự tánh mê nên năng lực ấy bị mất
đi. Trong Phật pháp, bất luận tu hành theo tông phái
nào, mấu chốt của việc tu hành đều là Thiền
Định, tức là tu tâm thanh tịnh.
b) Thứ
hai là Thập Lực Vô Úy (mười lực không sợ
hăi), bao gồm hết thảy pháp thế gian, xuất thế
gian đều thông đạt, hiểu rơ mọi lẽ,
trong bất cứ trường hợp nào cũng chẳng
hề có tâm kinh sợ. Lúc Phật tại thế, bất cứ
vấn đề nào, Ngài cũng đều có thể giải
đáp tường tận, không ai bắt bí được
Ngài. Có kẻ cho rằng bậc học rộng chưa chắc
đă biết rành những chuyện nhỏ nhặt, vặt
vănh; có kẻ hỏi Phật về vấn đề
chăn trâu, Phật cũng dạy cho người ấy
cách thức, trong Đại Tạng Kinh có một bài kinh
mang tên là Mục Ngưu Kinh (kinh Chăn Trâu).
c) Thứ
ba là Tứ Bất Tư Nghị (bốn thứ chẳng thể
nghĩ bàn), cũng là một trong ba thứ tác dụng phát
khởi sau khi đă tu chứng liễu nghĩa. Với t́nh
huống này, khi tu hành đạt đến mức độ
tương đương sẽ tự nhiên có, chẳng cần
phải cầu.
Ghi chú:
“Tứ Bất Khả Tư Nghị” là thuật ngữ
nhà Phật, tức là chư Như Lai có bốn sự chẳng
thể nghĩ bàn, Tiểu Thừa chẳng thể biết
được nổi. Một là thế giới chẳng
thể nghĩ bàn, hai là chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn,
ba là rồng chẳng thể nghĩ bàn, bốn là cơi Phật
cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Dùng
Căn chẳng dùng Thức, chọn Nhĩ Căn làm liễu
nghĩa bậc nhất trong các liễu nghĩa. Chúng sanh
căn tánh bất đồng, pháp môn tu hành trong kinh Lăng
Nghiêm chia thành hai mươi lăm loại lớn, ngài
Văn Thù quán sát căn tánh của người thế gian,
trong sáu căn, căn Tai thông lợi nhất. Lúc Phật tại
thế, trong bốn mươi chín năm giáo hóa chúng sanh,
toàn là giảng kinh cho đại chúng nghe. Vào thời đại
Xuân Thu, Khổng Phu Tử cũng phải dùng cách giảng
thuyết giáo học để chỉ dạy hàng đệ
tử.
Bởi thế, lúc ngài
Văn Thù tuyển chọn pháp môn, dạy chúng ta dùng lục
căn, chẳng dùng lục thức, đặc biệt chọn
lấy Nhĩ Căn v́ nó khế hợp nhất đối
với căn cơ của chúng sanh. Người thời cổ
thật thà, tôn sư trọng đạo, đối với
lời thầy tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ.
Người hiện tại chẳng bằng cổ nhân,
đối với lời nói của bất cứ ai cũng
đều hoạnh họe, cho nên sở học cả một
đời của con người hiện tại chỉ là
tri thức, chứ chẳng phải là trí huệ. Trí huệ
và tri thức khác nhau rất xa, quư vị chú tâm nghiên cứu
Lục Tổ Đàn Kinh [sẽ thấy]: Lục Tổ
chưa hề đọc sách, nhưng sau khi khai ngộ, bất
cứ sự việc thế gian hay xuất thế gian nào
Ngài đều thông đạt cả. Trí huệ của Ngài
là do sau khi khai ngộ mà thành, có thể nói là “tu một thứ
là tu hết thảy” vậy.
Từ
tánh khởi tu chẳng có giai đoạn, tu một thứ
là tu hết thảy. Nhĩ Căn đối ứng Nhĩ
Thức, chẳng dùng Nhĩ Thức mà dùng Nhĩ Căn
để nghe tánh, tại mắt th́ dùng Nhăn Căn để
thấy tánh. Vấn đề nan giải hiện thời
là giữa “tánh nghe” và “nhĩ thức” có khác biệt
ǵ? Phải biết th́ mới có thể học được.
Theo Duy Thức Học,
tác dụng của thức thứ sáu là phân biệt, tác dụng
của thức thứ bảy là chấp trước, tác dụng
của thức thứ tám nói theo cách bây giờ là ghi nhớ,
trong kinh Phật gọi là “chứa đựng chủng tử”.
Phật dạy chúng ta bỏ Thức, sử dụng tánh của
Căn. Tánh khác với Thức; Tánh không phân biệt, chấp
trước, chẳng vướng mắc ấn tượng.
Ví như tấm gương chiếu mọi vật rơ rệt,
rành rẽ, nhưng trọn chẳng giữ lại bóng dáng.
C̣n Thức như máy chụp h́nh, trong máy có phim, giữ lại
h́nh ảnh. Tách rời hết thảy mọi phân biệt,
chấp trước, vạn pháp quyết định b́nh
đẳng th́ tâm mới thanh tịnh, tâm thanh tịnh gọi
là “liễu nghĩa”.
Hiện thời, ta chọn
dùng phương pháp Niệm Phật của Đại Thế
Chí Bồ Tát, Phật hiệu từ tâm sanh ra, từ miệng
niệm ra, tai lại nghe lấy, cũng có mối liên quan mật
thiết đối với pháp Nhĩ Căn Viên Thông. Dùng
cách niệm này, nhiếp tâm dễ dàng. Nếu tịnh niệm
tiếp nối th́ chính là Niệm Phật Tam Muội. Công
phu cạn gọi là “thành phiến”, công phu sâu gọi là
“nhất tâm bất loạn”.
5. Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Duyên nhân
trợ tu. Duyên là Tăng Thượng Duyên, lục độ
vạn hạnh hỗ trợ chúng ta tu học. Trong Viên Giáo,
Thập Tín hoàn toàn không có địa vị bởi lẽ
lúc tiến, lúc lùi. Sơ Địa Bồ Tát trong Đại
Thừa Phật pháp bèn chứng ba thứ bất thoái, thật
sự là đệ tử Phật. Hàng Bồ Tát thuộc
địa vị Thập Hạnh tu lục độ vạn
hạnh nhằm mục đích đào thải những tập
khí của chính ḿnh từ vô thỉ kiếp đến nay.
Chẳng hạn như bố thí để đoạn sạch
tập khí keo bẩn, tập khí keo bẩn của chính ḿnh bị
đoạn sạch hoàn toàn chính là tu hành viên măn. Thập Hồi
Hướng là quay Phật sự hướng về Phật
tâm, tâm Phật là tâm của chính ḿnh. Hết thảy những
việc tu dưỡng của ḿnh nhằm để minh tâm
kiến tánh, hiển phát tự tánh, tánh thể, tánh đức,
tánh lượng; hồi hướng Thật Tế, hồi
hướng Bồ Đề, hồi hướng chúng sanh.
Sau khi viên măn địa
vị Tam Hiền (Thập trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng) bèn có Tứ Gia Hạnh (4), sau khi tu viên
măn liền đăng địa. Tứ Gia Hạnh là bốn
phương pháp tu hành, với mục đích nhằm diệt
mất cả tâm lẫn Phật, diệt sạch số
lượng, khiến cho tâm đạt đến chỗ
thanh tịnh, diệt sạch hết thảy ư niệm. Nếu
trong tâm vẫn c̣n có Phật hoặc c̣n những số
lượng khác, th́ vẫn là c̣n có một vật, tâm vẫn
chưa thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới có thể
đăng địa. Phải đăng địa rồi
mới có thể hiển xuất Chân Như Phật Tánh.
Đẳng Giác Bồ
Tát vẫn c̣n một phẩm Sanh Tướng vô minh, phải
đến khi phá sạch rồi mới đạt đến
địa vị Diệu Giác, tự tánh hoàn toàn hiển lộ
th́ gọi là thành Phật. Công phu, hạnh nghiệp của
hành nhân viên đốn cốt yếu tại lúc Sơ Phát
Tâm, cho nên nói: “Sơ phát tâm liền thành Chánh Giác”. Về
Lư th́ đúng, nhưng trên mặt Sự, phiền năo tập
khí chưa đoạn.
Sau khi đạt địa
vị Càn Huệ mới có thể tùy ư vào trong biển trang
nghiêm mầu nhiệm của Như Lai. Càn là giống như
nước khô cạn, Phật pháp coi tham ái như nước,
ví nóng giận như lửa. Càn tức là chẳng có thất
t́nh (5), ngũ dục. Nước ái đă khô cạn, trí huệ
liền hiện tiền, đă đạt cảnh Tam Không
(6). Càn Huệ nằm trong khoảng giữa từ Thập
Tín cho đến Sơ Trụ, đợi đến sau khi
phá được một phần vô minh, liền chứng
địa vị Sơ Trụ, bèn thành Pháp Thân đại sĩ,
sau đấy bèn mặc t́nh tự nhiên tương ứng
với pháp tánh, vào trong biển trang nghiêm mầu nhiệm của
Như Lai, chẳng bị thoái chuyển. Vận dụng cả
Chỉ lẫn Quán nên c̣n gọi là “diệu Thiền-na”.
Trong kinh này, Ngài A Nan cho
biết Ngài đă liễu giải ba thứ Định là
Xa Ma Tha, Tam Ma Địa và Thiền Na. Ba thứ Định
ấy là ba giai đoạn trong quá tŕnh tu học, nhưng
đối với tu hành đại định viên măn, A Nan
vẫn chưa biết. Phật dạy ngoài ba thứ Định
ấy ra, c̣n có một thứ đại định viên măn
gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định, là thứ
Định Như Lai chứng được nơi quả
vị. Những thứ Định khác Bồ Tát chứng
được, Xa Ma Tha La Hán cũng có thể chứng, Bồ
Tát c̣n chứng được Tam Ma Địa và Thiền
Na.
6. Thủ Lăng Nghiêm
Đức Phật dùng
chữ Thủ Lăng Nghiêm để h́nh dung hết thảy
sự rốt ráo kiên cố. Vạn sự, vạn pháp dù là
thế gian hay xuất thế gian đều có biến hóa,
ngay đến cả Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng chẳng phải là ngoại lệ. Bản
tánh chân tâm của chính ḿnh là rốt ráo kiên cố, tự
tánh là Năng Biến, vạn pháp là Sở Biến, hết
thảy hiện tượng là Sở Biến. Năng Biến
là chân, Sở Biến là huyễn hóa.
Vũ trụ được
sanh ra như thế nào, sanh mạng bắt nguồn như
thế nào, các nhà khoa học, triết học trên toàn thế
giới t́m chẳng ra. Nếu như thế gian t́m
được câu trả lời, Phật đă chẳng cần
phải đến thế gian này! Lời Phật dạy thật
chẳng dễ ǵ hiểu được. Đức Phật
bảo tất cả hiện tượng “đương
xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận”
(tạm hiểu là: Sanh ra ngay từ nơi này, diệt
mất ngay nơi này). Đấy là
lời thật, tất cả hiện tượng sanh từ
tâm tưởng. Bài Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia
đại sư có câu:
Mộng lư minh minh hữu
lục thú,
Giác hậu không không
vô đại thiên.
(Tạm dịch:
Trong mộng, sáu
đường vằng vặc có,
Giác rồi, tam giới
rỗng toang hoang)
Sâm la vạn tượng
do tâm tưởng sanh, sau khi khai ngộ, sẽ minh bạch
hoàn toàn chân tướng sự thật. Kinh Pháp Hoa nói: “Tướng
thế gian thường trụ”, nghĩa là chẳng có
sanh diệt, cũng chẳng có ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai. Chúng ta thấy rơ con người có sanh
lăo bệnh tử, thực vật có sanh trụ dị diệt,
khoáng vật có thành trụ hoại không, mọi sự đều
đổi dời, sao lại nói “chẳng có sanh diệt”?
Trong tâm có ư niệm, có tiền niệm, có hậu niệm,
niệm niệm nối tiếp nhau chẳng ngừng, hết
thảy hiện tượng đều là từ tâm tưởng
tiếp nối mà sanh ra, nhưng lời nói chân thật này
chúng ta nghe chẳng hiểu.
Thất thú (bảy
đường) là ngoài lục thú (trời,
người, a-tu-la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ), c̣n kể thêm tiên đạo. Ngũ Ma
là do chúng ta có Ngũ Ấm, kinh Lăng Nghiêm nói có năm
mươi thứ Ấm Ma, chướng ngại thân tâm
chúng ta tu tŕ. Nếu quư vị hiểu được chúng sẽ
chẳng bị chúng gây chướng ngại nữa.
“Xa Ma Tha, Tam Ma Địa,
Thiền Na” là do mức
độ tâm thanh tịnh sai khác mà giả đặt danh
xưng. Chẳng hạn như, tâm thanh tịnh bị nhiễm
ô mười phần mà khử được hai ba phần
th́ gọi là Xa Ma Tha; trừ được sáu bảy phần
gọi là Tam Ma Địa; trừ được tám chín phần
gọi là Thiền Na. Trừ sạch cả mười phần
gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Một phần thanh tịnh
được một phần công đức, cho đến
khi rốt ráo viên măn th́ chính là “Thủ Lăng Nghiêm rốt
ráo kiên cố”.
Giao Quang đại
sư là người đời Minh, cùng thời đại
với đại sư Liên Tŕ, cũng tu niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Ngài viết một bản sớ giải
mang tên Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, giải thích kinh
Lăng Nghiêm khác với cách cổ đức giảng giải.
Phần trước tôi đă từng nhắc đến:
khi Trí Giả đại sư phát minh thuyết “Tam Chỉ
Tam Quán”, có vị cao tăng từ Ấn Độ đến
Trung Hoa gặp mặt Trí Giả Đại Sư, cho là thuyết
Tam Chỉ Tam Quán của đại sư rất giống với phương pháp
tu hành trong kinh Lăng Nghiêm. Do đấy, về sau học
giả các đời đều đem thuyết Chỉ
Quán của ngài Thiên Thai phối hợp với ba thứ
định trong kinh Lăng Nghiêm, coi Xa Ma Tha là Chỉ, Tam Ma
Địa là Quán, Thiền Na là Chỉ Quán bất nhị,
dùng Tam Chỉ Tam Quán để phụ họa kinh Lăng
Nghiêm.
Giao Quang đại
sư phản bác cựu thuyết, cho rằng Tam Chỉ Tam
Quán là dùng ư thức để tu tâm, c̣n kinh Lăng Nghiêm dùng
tánh của căn để tu, phát huy huyền nghĩa chân
chánh của kinh Lăng Nghiêm. Lúc Ngài viết chú sớ, mắc
bệnh một trận, thấy A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn Ngài văng sanh. Ngài thưa cùng A Di Đà Phật:
“Chú giải từ cổ đến nay đều
chưa phát huy được huyền nghĩa chân chánh của
kinh Lăng Nghiêm, con nay đang soạn chú giải kinh
Lăng Nghiêm, con muốn soạn xong rồi mới đi”,
Phật bèn chấp thuận.
Ngài giải thích
Lăng Nghiêm Đại Định là Tánh Định, ngài
giảng như sau:
- Đây là diệu
định, đúng là tánh vốn tự có đủ, thiên
nhiên bất động, chẳng cần phải nhọc
công tu thành. Bổn tánh của chúng sanh chưa từng mất
đi, chân tâm bất động, nhận lầm mê t́nh là
chân tâm, tức là nhận giặc làm con. Giác là bất động,
mê là động. Đấy gọi là diệu định.
- Đây là viên định,
phần trên đă nói qua, vạn pháp không ǵ chẳng phải
là Thật Tướng, đều vốn sẵn bất
động.
- Đây là đại
định, hết thảy phàm phu không ai là chẳng vậy.
Tâm Phật chẳng động, tâm ta cũng chẳng động.
Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn rất dài
nói về thấy rơ mười phương: Tánh Thấy của
chúng ta chẳng động, tánh Thấy chẳng mê, chẳng
đến, chẳng đi, chẳng sanh, chẳng diệt,
tức là bổn tánh. Nhăn Thức động, tánh Thấy
chẳng động. Sau khi giải ngộ phải tu hành
để đào thải cho sạch hết vọng tưởng
tập khí th́ toàn thể đại dụng của tánh
đức mới có thể hiện hữu hoàn toàn, ḷng tin
chẳng thể lay động, đối với việc
niệm Phật văng sanh quyết định chẳng c̣n ngờ
vực ǵ.
7. Kinh
(lược đi không giảng)
Ghi chú:
Pháp Sư giảng
kinh mấy mươi năm, mỗi lần giảng đề
mục kinh đều giảng chữ kinh, các đệ tử
nghe giảng thường đều đă biết rành, nên
giảng đến chữ Kinh, Pháp Sư bèn lược
đi không nhắc đến nữa, nhưng cũng không
hiếm người mới nghe băng giảng kinh này là lần
đầu, nên chúng tôi thuyết minh đơn giản, những
chỗ nào cần mà bị lược đi, bèn ghi bổ
sung vào.
Chữ Kinh là tên
chung, chữ Kinh tiếng Phạn gọi là Tu-đa-la, dịch
sang tiếng Tàu là Khế Kinh. Khế nghĩa là trên khế hợp
với Lư đức Phật đă chứng, dưới là
phù hợp căn cơ chúng sanh được độ.
Chữ Kinh gồm bốn nghĩa: Quán, Nhiếp, Thường,
Pháp.
- Quán là xuyên suốt
nghĩa lư được nói trong toàn kinh, tạo thành giáo
nghĩa có hệ thống, như dùng một sợi chỉ
để xâu các hạt ngọc lại.
- Nhiếp là nhiếp
tŕ chúng sanh căn cơ đáng độ. Thiện căn của
chúng sanh đă thành thục, vừa nghe kinh này bèn có thể
tin nhận phụng hành.
- Thường là
thường trụ bất biến, muôn đời luôn mới
măi, bất cứ thời đại nào cũng đều
thích ứng, phổ độ chúng sanh.
- Pháp là pháp tắc,
quy củ. Trên dưới xưa nay đều nên tuân theo,
chiếu theo, y giáo phụng hành, đều có thể đắc
độ.
II. Giải thích đề mục
chương Viên Thông
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông Chương
Đại
Thế Chí là người khải giáo, [chỉ bày] giáo pháp Niệm
Phật tu Tịnh Độ. Hai mươi lăm vị Bồ
Tát mỗi vị [dạy một pháp môn] khác nhau, Đại
Thế Chí dạy chúng ta chuyên tu pháp môn Niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ. Ngài là Sơ Tổ của Tịnh
Tông.
Trong cuốn Tịnh
Tông Tiệp Yếu, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư là
người đầu tiên đề xướng Đại
Thế Chí Bồ Tát là Sơ Tổ Tịnh Tông, trong hư
không đề xướng pháp môn Niệm Phật chỉ
có Đại Thế Chí Bồ Tát. Một câu A Di Đà Phật
niệm đến cùng cực, từ sơ phát tâm cho măi
đến khi thành Phật chẳng thay đổi, thành Phật
rồi vẫn niệm A Di Đà Phật, trong mười
phương thế giới rộng độ chúng sanh cũng
vẫn dùng một câu A Di Đà Phật, xưng là Tịnh
Tông Sơ Tổ quả là danh xứng với thật. Dùng
tâm niệm Phật nhập Vô Sanh Nhẫn. Nói thông thường,
Thất, Bát, Cửu Địa Bồ Tát của Viên Giáo mới
chứng được Vô Sanh Nhẫn.
“Nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối” hai câu này là phương pháp niệm Phật.
“Chẳng nhọc phương tiện, tự được
tâm khai”: Chẳng cần mượn bất cứ
phương pháp nào để hỗ trợ, “tâm khai”
là như Thiền Tông nói đại triệt đại ngộ
và như Mật Tông bảo là Tam Mật Tương Ứng
hay Tức Thân Thành Phật. “Tự được tâm
khai” là Lư Nhất Tâm Bất Loạn, “nhập Tam Ma
Địa” là chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm
đại định.
Hai vị đại Bồ
Tát Đại Thế Chí và Quán Thế Âm hiện đang sống
trong Sa Bà thế giới, nhiếp thủ người niệm
Phật chẳng bỏ, khiến họ ĺa tam đồ,
được sanh về Tịnh Độ. Niệm Phật
là phương pháp, có trí tuệ mới có thể niệm Phật.
Người thông minh trong thế gian chưa hẳn đă có
trí huệ, thông minh là thế trí biện thông, là một trong
tám nạn, bất cứ nạn nào trong tám nạn cũng
đều có thể chướng ngại tu đạo,
chướng ngại xuất tam giới, chướng ngại
liễu sanh tử, thoát luân hồi, thành Phật đạo.
Tánh thể trọn khắp là Viên, diệu dụng vô ngại
là Thông. Lại nữa, Lư Diệu Trí để chứng gọi
là Viên Thông. Dùng phương pháp Niệm Phật có thể
đạt đến cảnh giới Viên Thông.
III. Giải Thích Kinh Văn
Chánh kinh:
Đại Thế
Chí pháp vương tử, dữ kỳ đồng luân, ngũ
thập nhị Bồ Tát, tức tùng ṭa khởi, đảnh
lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn:
(Đại
Thế Chí pháp vương tử cùng những với năm
mươi hai vị Bồ Tát đồng chí hướng với
Ngài, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật
rằng)
Kinh
Tư Ích chép: “Nơi ta (Đại Thế Chí Bồ
Tát tự xưng) đặt chân,
chấn động tam thiên đại thiên thế giới
và cung điện ma, nên tên là Đại Thế Chí”. Kinh
Tư Ích nói đầy đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở
Vấn Kinh.
Danh hiệu Đại
Thế Chí Bồ Tát là do oai thế của Bồ Tát mà kiến
lập, trong Tây Phương Tam Thánh, Ngài tượng
trưng cho trí huệ. Trí huệ viên măn rốt ráo mới có
oai đức tối thù thắng, oai đức ấy có thể
chấn động tam thiên đại thiên thế giới,
cũng như chấn động cung điện ma. Quán
Kinh nói: “Lúc vị Bồ Tát này đi, mười
phương thế giới hết thảy chấn động.
Lúc vị Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy báu
đồng thời lay động”, nghĩa là nói oai
đức, trí huệ của Bồ Tát từa tựa
như kinh Tư Ích. Đấy đều là nói về
phương diện tự lợi của Bồ Tát.
Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện
thế giới của tôi giống như thế giới của
Quán Thế Âm, giống hệt không khác”. Bảo Tạng
Phật nói: “Do ông nguyện lấy đại thiên thế
giới, ta nay đặt tên ông là Đắc Đại Thế”.
Đấy là nói về đại nguyện của Bồ
Tát.
Trong kinh Phật có nói,
trong tương lai A Di Đà Phật ở Tây Phương
Cực Lạc thế giới cũng có lúc bát Niết Bàn,
thời gian ấy lâu phi thường. Phật nói là giả
sử chúng sanh trong mười phương thế giới
đều chứng đắc Bích Chi Phật, đều
có đại thần thông như Mục Kiền Liên, suốt
trọn vạn ức năm cũng chẳng tính nổi thọ
mạng của Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc
kỳ diệu phi thường, chẳng hề có những
thời kỳ Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp và diệt
pháp. Sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Quán Thế Âm
ngay lập tức thành Phật tiếp nhiệm; Quán Thế
Âm nhập diệt, Đại Thế Chí liền tiếp nối
thành Phật.
Nếu có kẻ hoài
nghi: Phật cũng nhập diệt, ta sanh về đó làm
chi? Nói “nhập diệt” nghĩa là Ứng Thân nhập
diệt, chứ Pháp Thân bất sanh bất diệt, Báo Thân hữu
sanh vô diệt. Trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ và
Phương Tiện Hữu Dư Độ, thấy
được Ứng Thân Phật A Di Đà, trong Thật
Báo Trang Nghiêm Độ thấy được Báo Thân, trong
Thường Tịch Quang Tịnh Độ thấy
được Pháp Thân. Trong kinh, đức Thế Tôn
thường nói: phàm phu tu thành Phật Quả phải tu ba
đại a-tăng-kỳ kiếp, sanh về Tây
Phương liền được vô lượng thọ,
cho nên chẳng cần sợ A Di Đà Phật nhập diệt.
Quán kinh nói: “Dùng trí huệ
quang chiếu khắp hết thảy, khiến ĺa tam đồ,
đắc vô thượng lực”, tức là nói về
phương diện dùng ḷng từ bi lợi tha. Kinh Lăng
Nghiêm nói Đại Thế Chí có ba đức lớn, tức
là niệm Đại Thế Phật (thượng cầu),
nhiếp thủ vọng niệm nơi sáu căn (trung tu),
tiếp độ người niệm Phật (hạ hóa).
Đầy đủ ba đức này, oai đức đến
cùng cực, nên gọi là Đại Thế Chí. Đại
Thế Phật chính là A Di Đà Phật. Cách tu hành của
ngài Đại Thế Chí là dùng “tịnh niệm tiếp
nối”, một câu Phật hiệu niệm đến rốt
ráo, hết thảy những người niệm Phật cầu
sanh Cực Lạc thế giới trong mười
phương thế giới đến lúc lâm chung, Ngài và A
Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn. Oai thần,
trí lực của Ngài trong tất cả các Bồ Tát không có
ai cao hơn được nên xưng là Chí.
“Pháp vương tử” là danh hiệu của vị Bồ Tát bổ
xứ, giống như Thái Tử trong thế gian, Ngài là hậu
bổ Phật (vị Phật sẽ kế nhiệm
sau này). Vị hậu bổ Phật
thứ nhất là Quán Thế Âm, Ngài là vị hậu bổ
Phật thứ hai. Câu Phật hiệu chứa đựng
ư nghĩa sâu xa phi thường, đạt đến chót
đỉnh của mọi oai đức, thế lực thế
gian lẫn xuất thế gian. Tự tánh vốn sẵn có
đủ trí huệ, Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự
tánh vốn là sẵn có”. Vốn có sẵn đủ nên gọi
là “tánh cụ” hay là “tánh đức”. V́ phàm phu mê mất
nên Tánh Đức phải nhờ vào Tu Đức mới có
thể hiển lộ, Tánh Đức có hiển thị
đến mức viên măn rốt ráo th́ mới thật sự
thành Phật. Ngài Đại Thế Chí dùng phương pháp
Tu Đức nào để hiển lộ Tánh Đức?
Chính là niệm A Di Đà Phật, do đây biết một
câu danh hiệu này công đức chẳng thể nghĩ
bàn.
“Đồng luân” nói theo cách bây giờ là “đồng chí”.
Đồng chí trong thế gian là hữu danh vô thực,
đối với điều này, cổ nhân đă lập
nghĩa nhất định: bạn đồng học gọi
là “bằng”, người cùng chí hướng với
ḿnh gọi là “hữu”. Là đồng chí thật sự
th́ phải tâm đồng, nguyện đồng, giải
đồng, hạnh đồng! Kinh Hoa Nghiêm nói đến
tám mươi bốn thứ đồng, hoặc tám
mươi tám thứ đồng, rất tỉ mỉ.
Đại Thế Chí và A Di Đà Phật hoàn toàn
tương đồng, trong mười phương thế
giới, phàm những ai phát tâm niệm Phật đều
là “đồng luân” của ngài Đại Thế Chí cả.
“Năm mươi
hai” là chữ dùng để
phân biệt thứ loại: Thập Tín, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác; tổng cộng năm
mươi hai giai đoạn, từ sơ phát tâm thẳng
đến khi thành Phật chẳng biến cải; hết
thảy người tu pháp môn niệm Phật đều có
thể gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát, đều
là đồng luân của Đại Thế Chí Bồ Tát.
Pháp môn b́nh đẳng
chẳng có cao thấp, do phù hợp căn cơ nên pháp nào cũng
tốt. Nhưng con người phần nhiều chẳng
phải là căn tánh thông lợi, chỉ e sự nhiều
công ít, khó thể thành công. Chỉ có pháp môn Niệm Phật
này ai cũng có thể niệm được, đi, đứng,
nằm, ngồi đều có thể niệm được,
thời thời khắc khắc chẳng gián đoạn,
giúp chúng ta siêu xuất sanh tử luân hồi, bởi thế,
người niệm Phật đều có trí huệ chân thật
vô thượng.
* Thập Tín: Mọi
người nói chung đối với chuyện v́ sao phải
học Phật, v́ sao phải cầu thành Phật chẳng
hiểu rơ lắm. Phật là chân tâm của chính ḿnh, mà cũng
là bổn tánh của chính ḿnh. Thành Phật là thành tựu trí
huệ viên măn của tánh đức. Phật chính là tâm, vốn
sẵn có đủ vạn đức, vạn năng. Kinh
Kim Cang dạy: “Ḷng tin thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng”.
Do ḷng tin trong sạch mức độ khác nhau nên mới có
mười giai đoạn (Thập Tín), tu măn địa vị
Thập Tín sẽ nhập Sơ Trụ, Sơ Trụ là
bước đầu của Đại Thừa.
* Thập Trụ:
trụ trong tam-muội, tức là trụ trong thanh tịnh -
b́nh đẳng - giác, luôn ǵn giữ chân tâm thường trụ,
chẳng bị thoái chuyển. Quán Thật Tướng Phật
chính là nh́n vào tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự
tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Tánh đức của
Ngài tỏ lộ, liền tự hiểu rơ chân tướng
của nhân sanh, vũ trụ.
* Thập Hạnh:
Hạnh là pháp môn Niệm Phật, chỉ niệm một
câu Phật hiệu, dùng pháp khó tin dễ hành để độ
người niệm Phật. Công phu niệm Phật càng
sâu, càng thể hội được việc niệm Phật.
* Thập Hồi
Hướng: Xoay niệm hướng về tâm Phật,
tất cả hết thảy công đức hồi hướng
về Phật tâm, thông thường hồi hướng ba
nơi:
a. Hồi hướng
Thật Tế: Thật Tế chính là chân tướng sự
thật.
b. Hồi hướng
Bồ Đề: Bồ Đề là trí huệ chân thật.
c. Hồi hướng
chúng sanh: sau khi chính ḿnh đă thành tựu, vẫn c̣n bao
người mê mất tự tánh, hy vọng họ thảy
đều giác ngộ.
“Hồi hướng” là đem hết thảy công đức
ḿnh đă tích lũy, chẳng cần đến nữa,
đem cho hết thảy chúng sanh. Đấy chính là phá Ngă
Chấp, lợi ích của việc hồi hướng chính
là phá Nhị Chấp.
* Thập Địa:
Địa tức là Phật địa. Hồi hướng
viên măn bèn nhập Phật địa, rất gần với
Phật, địa vị ḿnh chứng được rất
gần với quả vị Phật. Đẳng Giác chính
là bằng với quả Phật viên măn. Niệm Phật là
công đức ngay trên quả vị Như Lai. Người
niệm Phật là thượng thượng nhân, cũng là
hoa phân-đà-lợi (hoa sen trắng) trong loài người.
Chánh kinh:
Ngă ức văng tích,
hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô
Lượng Quang. Thập nhị Như Lai, tương kế
nhất kiếp, kỳ tối hậu Phật, danh Siêu Nhật
Nguyệt Quang.
(Con nhớ xưa kia
trong hằng hà sa kiếp, có Phật xuất thế, tên là
Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối
tiếp nhau [xuất hiện] trong một kiếp. Đức
Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang)
Đại
Thế Chí Bồ Tát bảo cho chúng ta biết về sư
thừa của Ngài, trong vô lượng kiếp trước
có một đức Phật, tên là Vô Lượng Quang. Có
mười hai vị Như Lai nối tiếp nhau xuất
thế trong một kiếp. Kinh Vô Lượng Thọ,
chương hai mươi lăm có nói: “A Di Đà Phật,
quang minh tốt lành, sáng hơn mặt trời, mặt
trăng ngàn vạn ức lần, ấy tôn quư nhất trong
các quang minh, là vua trong các Phật. V́ thế, Vô Lượng
Thọ Phật c̣n có tên là Vô Lượng Quang Phật”.
Nói trên mặt Lư, Phật
Phật đạo đồng, tuyệt chẳng có cao thấp,
xưng tụng là “tôn quư nhất trong các quang minh, là vua
trong các Phật” tựa hồ giáo nghĩa mâu thuẫn
nhau? Nên biết rằng, luận trên mặt Lư là b́nh đẳng,
nhưng trên mặt Sự lại chẳng b́nh đẳng.
Sau khi thành Phật chứng quả, do lúc ban đầu khi
tu nhân phát nguyện sai khác, nên về mặt tướng,
chư Phật chẳng thể sánh bằng Phật A Di
Đà. Chư Phật thấy A Di Đà Phật phát ra bốn
mươi tám nguyện, thành quả là thế giới Cực
Lạc trang nghiêm, đương nhiên nhất trí ủng hộ,
khen ngợi, đều muốn giúp A Di Đà Phật tiếp
dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới
sanh về thế giới Cực Lạc, bất tất phải
mở riêng trường phái. Kinh Vô Lượng Thọ c̣n
nêu danh xưng của mười hai Như Lai, lược
nói như sau:
1. Vô
Lượng Quang Phật tiêu biểu chân trí huệ.
2. Vô
Biên Quang Phật, tiêu biểu giải thoát b́nh đẳng
nhất như.
3. Vô Ngại Quang Phật,
tiêu biểu “thể tịch, dụng diệu” tự tại:
Thể tánh thanh tịch, tịch tĩnh; “dụng diệu”
là khởi tác dụng mầu nhiệm tự tại. “Thể
tịch” là tánh không, “dụng diệu” là diệu hữu.
4. Vô Đẳng Quang
Phật, là do tâm đại bi kiến lập, dẹp nỗi
khổ cho chúng sanh không ai có thể sánh bằng.
5. Trí Huệ Quang Phật,
trừ bụi nhơ vô minh, ban cho lợi ích chân thật. Chỉ
có trí huệ chân chánh mới phá được vô minh, vô minh
là hồ đồ, tự ḿnh khi mê, khi ngộ. Do vậy cũng
có thể quán sát, thời thời khắc khắc giúp đỡ
người khác, niệm niệm lợi ích chúng sanh, tức
là trí huệ. Lợi ích chân thật là khuyên người niệm
Phật, sau khi văng sanh tất cả vô minh đều phá sạch.
6. Thường Chiếu
Quang Phật: Giống như chư Phật phóng quang, chiếu
khắp pháp giới. Thường quang của Phật A Di
Đà chiếu khắp pháp giới, tịch nhưng thường
chiếu. Tịch là tâm thanh tịnh. Chiếu là tâm b́nh đẳng
mà cũng là tâm đại từ bi. Niệm niệm muốn
phổ độ chúng sanh nhưng tâm không nhiễm trước.
7. Thanh Tịnh Quang
Phật là ba nghiệp chẳng nhiễm, quyết chẳng
chấp trước, biến phước đức thành
công đức, dùng tâm thanh tịnh tu phước đức,
chẳng hạn như tu Bố Thí có thể đạt
đến “tam luân không tịch” (7), lại c̣n thực
hiện hạnh ấy một cách vô cùng tích cực.
8. Hoan Hỷ Quang Phật:
Từ là làm cho an lạc, làm cho hết thảy chúng sanh an lạc.
9. Giải Thoát Quang
Phật, ĺa tướng mà lợi ích khắp tất cả,
cả Tiểu lẫn Đại Thừa đều bàn
đến. Giải là muôn vàn gút mắc trong tâm đều
tháo gỡ cả. Tiểu Thừa chỉ đoạn
được Kiến Tư mà ra khỏi tam giới; Đại
Thừa ngoại trừ Kiến Tư, c̣n có Trần Sa, Vô
Minh.
10. An Ổn Quang:
ư nghĩa gần giống với chữ Thủ Lăng
Nghiêm, có nghĩa là hết thảy rốt ráo kiên cố, ĺa
tướng sanh diệt. Có sanh diệt là chẳng an ổn.
Nói trên mặt Lư, chân tâm bổn tánh chẳng sanh chẳng diệt,
ai ấy đều có đủ; phàm phu tuy có nhưng không
dùng được, có ư niệm sanh diệt bèn bị
chướng ngại, bị luân hồi oan uổng trong lục
đạo.
Mười thứ
quang minh nói trên đây đều thuộc Thường Quang,
hai loại quang minh tiếp theo đây thuộc về Phóng
Quang.
11. Siêu Nhật Nguyệt
Quang: quang minh của đức Phật vượt xa mặt
trời, mặt trăng.
12. Bất Tư Nghị
Quang: Cổ đức nói quang minh này có năm điều
chẳng thể nghĩ bàn:
a. Vượt ngang ra
khỏi tam giới, chẳng cần phải đợi
đến khi đoạn Hoặc:
Quang minh của Phật
A Di Đà chiếu khắp hết thảy, nhưng chúng ta
không thấy được, cũng chẳng nhận biết.
Hiện tại, người có công năng định lực
mới có thể thấy được. Quang minh này thật
đáng sánh với tâm thanh tịnh. Vọng niệm chẳng
đoạn, quyết định chẳng thể thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Thiền gia chẳng qua chỉ
đè nén được Kiến Tư Hoặc nên chẳng
thể thoát tam giới. Chẳng đoạn phiền năo mà
có thể thoát khỏi tam giới th́ chỉ riêng ḿnh pháp Niệm
Phật mà thôi.
b. Hễ sanh về
Tây Phương liền đầy đủ cả bốn
cơi theo chiều ngang, chẳng phải do tiến tu dần dần:
Tất cả pháp Đại
Thừa, tu nhân chứng quả đều có thứ tự,
những thế giới khác đều có đủ cả
bốn cơi, nhưng không phát khởi cùng một lúc. Phàm Thánh
Đồng Cư Độ có phàm phu mà cũng có thánh nhân,
có phàm phu giác ngộ, có người chân chánh tu hành, nhưng
công phu chưa đạt đến tột cùng, chẳng thể
siêu việt. Lại c̣n có Bồ Tát, La Hán thị hiện
trong cơi này để hóa độ chúng sanh. Nếu đoạn
được Kiến Tư phiền năo, sẽ vượt
khỏi lục đạo, dự vào Phương Tiện Hữu
Dư Độ, ở ngoài tam giới. Nếu như phá
được một phẩm vô minh, chứng được
một phần Pháp Thân, liền nhập Thật Báo Trang
Nghiêm Độ. Hai cơi trước là do A Lại Da Thức
biến hiện, là Tướng Phần (8) của A Lại
Da Thức. Thật Báo Trang Nghiêm Độ là pháp tánh độ,
do Chân Như Bổn Tánh biến hiện ra. Thường Tịch
Quang là Lư, xuyên suốt các cơi kia.
Trong thực tế, chỉ
có ba cơi, nhưng trong Cực Lạc thế giới, bốn
cơi đồng thời khởi. Tuy tŕnh độ bất
đồng nhưng vẫn khởi cùng lúc, cho nên một thứ
sanh th́ hết thảy đều sanh. Phàm phu sanh trong Đồng
Cư Độ, Tiểu Thừa La Hán hồi Tiểu
hướng Đại sanh trong Phương Tiện Độ,
Bồ Tát sanh cơi Thật Báo. Đến Tây Phương hết
thảy cùng khởi.
3. Chỉ tŕ danh hiệu,
chẳng cần đến phương tiện nào khác:
Chẳng cần phải
tu pháp môn nào khác, cũng chẳng cần phải đọc
kinh điển nào khác, chỉ dựa vào một câu Phật
hiệu, chẳng cần đến những thứ nào
khác.
4. Lấy bảy ngày
làm kỳ hạn, chẳng cần phải nhiều đời
nhiều kiếp:
Hết thảy mọi
sự thế gian, xuất thế gian đều buông xuống
hết, thành tâm niệm Phật, bảy ngày liền có thể
thành tựu.
5. Tŕ danh hiệu một
đức Phật, liền được chư Phật
hộ niệm, chẳng khác ǵ tŕ danh hiệu hết thảy
Phật:
Hết thảy chư
Phật tán thán thế giới Cực Lạc y báo, chánh báo
trang nghiêm. Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ là
chương tŕnh tu luyện chính để học Phật,
các kinh điển khác đều để phụ trợ.
Mười hai đức
Phật vừa nói trên là cổ Phật, A Di Đà Phật
thành Phật chẳng qua mới mười kiếp, cổ
Phật cùng với đức Phật A Di Đà hiện tại
đồng danh đồng hiệu. Ở Trung Quốc, vào
thời xưa, cha mẹ đặt tên cho con cái nhằm bày
tỏ niềm hy vọng nơi con cái. Danh hiệu của một
đức Phật là do trí huệ, đức năng, và
phương pháp, biện pháp giáo hóa chúng sanh của Ngài mà kiến
lập, bởi thế mới có những vị Phật
danh hiệu giống nhau.
Chánh kinh:
Bỉ Phật giáo
ngă, Niệm Phật Tam Muội.
(Đức Phật ấy
dạy con Niệm Phật Tam Muội)
Vô Lượng Thọ
Phật dạy Đại Thế Chí Bồ Tát pháp Niệm
Phật Tam Muội. Tam Muội là tiếng Phạn, nghĩa
là Chánh Thọ. Niệm Phật, niệm thật hoan hỷ
phi thường, niệm đến mức tinh thần no
đủ, càng niệm càng lên tinh thần, là đạt Niệm
Phật Tam Muội. Cảm thọ của phàm phu gồm
năm thứ: khổ, sướng, buồn, vui, xả. Từ
trời Dục Giới trở xuống, có đủ
năm thứ này. Không có năm thứ này th́ cuộc sống
luôn b́nh ổn. Trời Sắc Giới khổ, sướng,
buồn, vui đều chẳng có, chỉ có mỗi Xả
thọ, chia thành tám đẳng cấp Tứ Thiền Bát
Định. Do chẳng thể giữ được Định
ấy vĩnh cữu, giống như đá đè cỏ,
nên chỉ là tạm thời; nếu như đoạn dứt
được cái gốc, liền thành tam-muội.
Niệm Phật có Sự
và Lư, Sự Niệm là nhất tâm nghĩ nhớ, chẳng
quản là Sự hay Lư, mấu chốt là Nhất Tâm, hễ
có tạp niệm vọng tưởng th́ chẳng phải
là Nhất Tâm. Thông thường, quá nửa người
đời dùng tạp tâm niệm Phật, chứ nếu thật
sự nhất tâm, sẽ trong một thất hay hai thất
liền đắc tam muội.
Về Lư Niệm, niệm
chính là Thỉ Giác, Phật là Bổn Giác. Bổn và Thỉ hợp
nhau, Thỉ - Bổn chẳng hai, gọi là Niệm Phật.
Lư niệm tức là Thật Tướng Niệm Phật.
Người sơ học rất khó thực hiện
được, hăy nên hạ thủ bằng Sự Niệm,
từ Sự Nhất Tâm niệm đến Lư Nhất Tâm. Từ
bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới thuộc
về Lư Niệm, từ Thập Tín trở xuống đều
thuộc về Sự Niệm. Niệm Phật có bốn
cách:
- Một là Thật
Tướng Niệm Phật, tức là niệm đức
Phật nơi tự tánh, hiểu cặn kẽ chân tánh của
tự tâm, chẳng dùng tâm ư thức, chúng ta chẳng thực
hiện nổi.
- Hai là Quán Tưởng
Niệm Phật như mười sáu phép quán. Lúc tâm tưởng
Phật th́ tâm ấy chính là ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy h́nh hảo. Tâm tưởng Phật biến
thành Phật, tưởng cái ǵ liền biến thành cái
đó. Tưởng chỗ nào có bệnh, chỗ ấy bèn có
bệnh, thật đúng là chỗ nào cũng bệnh. Ngày
ngày nghĩ tưởng khổ năo, sao quư vị đoạn
phiền năo cho được? Mười sáu phép quán, tu
phép nào cũng có thể thành tựu. Mười hai phép quán
đầu đều là quán tưởng, phép quán thứ
mười ba là quán tượng, phép quán thứ mười
sáu sau rốt là Tŕ Danh Niệm Phật.
- Ba là Quán Tượng
Niệm Phật, quán tượng Phật vẽ, đắp,
hay đúc. Kinh dạy: “Đứng lên chắp tay, nhất
tâm quán Phật”. Trong nhà nếu có điện thờ Phật,
nếu có thời gian rảnh rỗi, chẳng được
ĺa khỏi Phật đường.
- Bốn là Tŕ Danh Niệm
Phật, nhất tâm chấp tŕ danh hiệu, chẳng hoài
nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. Đây là
điều Đại Thế Chí Bồ Tát gọi là “tịnh
niệm tiếp nối”. Trong bản chú sớ Quán Kinh,
Thiện Đạo đại sư chỉ dạy vô cùng
tường tận, phải tin vào lời Phật, đặc
biệt là kinh Văng Sanh. Ngoại trừ ba kinh Tịnh Độ
ra, c̣n có Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm và Đại
Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương. Dẫu cho
cổ Phật tái lai, thuyết pháp hoàn toàn mâu thuẫn với
những kinh trên cũng chẳng tin theo.
Tiếng Phạn “tam-muội”,
Tàu dịch là Chánh Định, c̣n dịch là Chánh Tư. Tứ
Thiền Bát Định của thế gian chẳng thể
gọi là Chánh Định Chánh Tư, bởi chẳng thể
giữ được chúng vĩnh cửu, chỉ tạm
thời đè ép được phiền năo chứ không
đoạn được phiền năo; c̣n Chánh Tư Duy
đă ly khai vọng tưởng. Phàm phu khởi tâm động
niệm không ǵ chẳng phải là tội, thiện ác hỗn
tạp. Nhất tâm niệm Phật chính là Niệm Phật
Tam Muội, cảnh giới ấy có sâu cạn khác nhau, công
phu chẳng giống nhau. Đọc truyện kư xưa nay,
thấy rất nhiều người niệm Phật ba
năm liền có thể sanh tử tự ư, tùy nguyện
văng sanh, xem thế giới này có ai hữu duyên chăng, nếu
vẫn c̣n có cơ duyên để độ, bèn chẳng ngại
lưu lại thêm một thời gian nữa, nếu không sẽ
sớm ngày văng sanh.
Niệm Phật Tam Muội
c̣n gọi là Nhất Hạnh Tam Muội, cũng gọi là
Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, Bát Nhă Tam Muội,
Phổ Đẳng Tam Muội. Từ xưa, tổ sư
đại đức đem hơn ba trăm hội giảng
kinh trong cả một đời giáo hóa của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành môn loại khác nhau, gọi là
“phán giáo”. Tông Thiên Thai chia thành tám giáo, tông Hiền Thủ
chia thành năm giáo. Ở đây, theo tông Hiền Thành chia
thành Tiểu, Chung, Thỉ, Đốn, Viên.
Niệm Phật Tam Muội
có Sự Niệm và Lư Niệm. Phàm những ǵ trọng
nơi sự tướng là thuộc về Tiểu giáo
sơ cấp, giống như tiểu học. Các tông khác: Tiểu
chẳng thông Đại;pháp môn này tuy có thứ lớp
nhưng cũng viên dung. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ
giảng về Nhất Hạnh Tam Muội rất tường
tận, Ngài truyền dạy Thiền Tông đốn ngộ.
Thiền được nói trong Thiền Tông chẳng phải
là Thiền Định trong Lục Độ, mà là Bát Nhă Ba
La Mật. Vừa mở đầu Đàn Kinh, Lục Tổ
dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật
Đa, minh xác Thiền Tông tu Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa.
“Nhất Hạnh” nghĩa
là ư chuyên chú, pháp môn Tịnh tông từ Sự Niệm có thể
nhập Lư Niệm, cũng thuộc vào Nhất Hạnh Tam
Muội, thuộc về Đốn Ngộ. Sau khi ngộ khởi
tu, chưa thấy ai cũng có thể đốn chứng.
So với Thiền Tông, Niệm Phật không đốn ngộ
bằng, nhưng về mặt đốn chứng lại
trỗi hơn Thiền Tông. Một đằng siêu thắng
về mặt Ngộ, một đằng siêu thắng về
mặt Chứng. Nhưng ngộ rồi chẳng nhất
định sẽ chứng, bởi thế, cổ đức
nói:
Đản đắc
kiến Di Đà,
Hà sầu bất khai
ngộ.
(Chỉ được
thấy Di Đà,
Lo chi chẳng khai ngộ?)
Thấy đức Di
Đà, tự nhiên khai ngộ, bởi thế so với Thiền
Tông, Niệm Phật phải thù thắng hơn!
Chư Phật Hiện
Tiền Tam Muội thuộc vào cảnh giới Đại
Thừa Chung Giáo, niệm một câu A Di Đà Phật bao gồm
danh hiệu hết thảy chư Phật, chẳng sót một
đức Phật nào. Tựa đề kinh A Di Đà vốn
là “Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Kinh” (kinh được hết thảy chư Phật hộ
niệm). Hết thảy chư Phật đều v́ chúng
sanh giảng kinh A Di Đà! Phật giảng kinh là ứng
cơ thuyết pháp, các kinh điển chủ yếu đều
đă được dịch sang Trung Văn, trong đó,
kinh khế cơ nhất là kinh A Di Đà, độ khắp
ba căn, thâu trọn lợi độn, khiến cho chúng
sanh b́nh đẳng được độ. V́ thế,
đại sư Thiện Đạo nói: “Sở dĩ
Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ là để
nói Di Đà nguyện hải”.
Phật đă v́ một
sự kiện này mà xuất hiện trong thế gian, v́ sao vẫn
phải nói những pháp môn khác? Chỉ là do chúng sanh chẳng
tin pháp môn này, chỉ có mỗi pháp môn này là pháp môn thành Phật
ngay trong một đời. Ai có cơ hội một đời
thành Phật th́ người đó mới có thể chuyên tâm
tin tưởng pháp môn này, nhưng những người
như thế rất ít.
Trong cách phán giáo của
tông Hoa Nghiêm, Bát Nhă Tam Muội thuộc về Đại Thừa
Thỉ Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát thật sự là bước
mở đầu của Đại Thừa, Sơ Trụ
phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân.
V́ thế, gọi là Đại Thừa Thỉ Giáo. Nếu
quư vị có dịp, hăy đọc cuốn sách vỡ ḷng của
Đại Thừa là Đại Thừa Khởi Tín Luận.
Luận ấy là sách giáo khoa của Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo, đương nhiên chúng ta xem chẳng hiểu!
Tiểu Thừa La Hán,
Bích Chi Phật đă đoạn Kiến Tư Hoặc,
vượt thoát tam giới lục đạo luân hồi,
trong ba đức đạt được Giải Thoát
đức, được tự tại; ngoài ra, Pháp Thân
đức lẫn Bát Nhă đức đều chưa chứng
đắc. Thập Trụ là giai đoạn mở đầu
của Đại Thừa, Thập Địa là rốt cục
của Đại Thừa. Địa thứ mười gọi
là Pháp Vân địa.
Kinh Kim Cang cũng là
Đại Thừa Thỉ Giáo, nêu lên những tiêu chuẩn
của Bồ Tát, kinh dạy: “Nếu có Bồ Tát có
tướng ta, tướng người, tướng chúng
sanh, tướng thọ giả th́ chẳng phải là Bồ
Tát”. Ĺa được bốn tướng mới tính là
nhập môn, phân nửa trên là “ly tướng”; phân nửa
dưới là: “Thế Tôn nói ngă kiến, nhân kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến chẳng phải là
ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến
th́ mới gọi là ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến,
thọ giả kiến”. “Kiến” là ư niệm, [câu trên
đây ư nói] chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.
Nửa phần sau này là “ly kiến”. Ngay nơi một câu Phật
hiệu liền khế nhập cảnh giới này, bốn
tướng, bốn kiến đều chẳng có,
phương pháp đơn giản, cũng là Đại Thừa
Thỉ Giáo.
Cuối cùng là Phổ
Đẳng Tam Muội. “Phổ” là phổ biến, rộng
lớn vô biên, “Đẳng” là b́nh đẳng, tận hư
không, khắp pháp giới, trọn chẳng có tướng
sai khác, thật sự viên măo rốt ráo. Đem câu “nam mô A
Di Đà Phật” dịch thành “quy y Vô Lượng Thọ”
là Phổ Đẳng Tam Muội. Đem vô lượng công
đức Phật A Di Đà đă chứng đắc biến
thành cái nhân để tu cho chính ḿnh, nhân tột biển quả,
quả thấu nguồn nhân, nhân quả chẳng hai. Ta niệm
là niệm Phật A Di Đà trong tâm ta, A Di Đà Phật là
chúng sanh trong cái tâm niệm Phật. Chúng sanh, tâm và Phật
là nhất tâm, nhất tâm không hai tâm, lập tức trong một
niệm công đức viên măn của chư Phật và chính
ḿnh dung hợp thành một phiến. Do đây, ta biết rằng:
một câu Phật hiệu gồm đủ cả Tiểu,
Thỉ, Chung, Đốn, Viên.
Niệm Phật Tam Muội,
cổ nhân gọi là đường tắt, nhưng Tŕ Danh
là đường tắt nhất trong các đường tắt,
dễ đi mau đến, xưng danh hiệu Ngài, bổn
nguyện như thế. Tâm người phương này tạp
loạn, ắt phải làm cho chuyên tâm một cảnh mới
ḥng được văng sanh. Tôi thường yêu cầu các vị
niệm kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần, là nhằm
tu tâm thanh tịnh, lại dùng ḷng tin thanh tịnh kiên định
để chấp tŕ danh hiệu, có thể đạt
đến minh tâm kiến tánh, đắc Vô Thượng Bồ
Đề, trong một đời có thể đạt
được.
Lăo pháp sư Đàm
Hư khai thị trong Phật thất tại đạo
tràng nọ ở Hương Cảng, có lưu lại một
cuốn băng thâu âm, Ngài lại nói giọng Thiên Tân, tôi phải
nghe hết ba ngày mới hiểu hoàn toàn. Người có thiện
căn nghe được cuốn băng ấy có thể
văng sanh, tôi nhờ người làm thành CD, rồi lại chế
thành băng thâu âm. Có người chuyên niệm một câu Phật
hiệu, rồi đứng mà qua đời hoặc ngồi
mà qua đời; người thật, việc thật, bọn
họ làm được như thế, thân tâm lẫn thế
giới đều buông xuống cả, cái ǵ cũng chẳng
có. Thiện căn của ḿnh có hợp với tiêu chuẩn
hay không chính ḿnh phải tự biết. Nếu vẫn là ba
tâm hai ư th́ chưa đạt được tiêu chuẩn! Cũng
chẳng nghĩ đến Phật pháp, thế sự lại
càng chẳng tưởng đến. Việc ǵ cần cứ
làm, làm xong không nghĩ đến nữa, trong tâm chỉ có
một câu A Di Đà Phật.
Lại như pháp quán
tưởng và quán tượng, cứ chiếu theo Thập
Lục Quán Kinh, quán mặt trời lặn, mở mắt,
nhắm mắt vẫn có vầng thái dương. Dẫu có
quán thành vẫn là chấp tướng, để đạt
đến Tây Phương phải bỏ được
tướng, nhưng trừ tướng cũng chẳng dễ
ǵ.
Chánh kinh:
Thí như hữu
nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên vong, như thị
nhị nhân, nhược phùng bất phùng, hoặc kiến
phi kiến. Nhị nhân tương ức, nhị ức niệm
thâm, như thị năi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư
h́nh ảnh.
(Ví như có người,
một người chuyên nhớ, một người chuyên
quên, hai người như thế dù gặp cũng như
không gặp, dù có thấy cũng như không thấy. Hai
người nhớ nhau, hai người nhớ nghĩ nhau
sâu xa, như thế cho đến từ đời này sang
đời khác, giống như h́nh với bóng)
Ví dụ thứ nhất
là Phật nghĩ đến chúng sanh, nhưng chúng sanh trọn
chẳng nghĩ đến Phật. Nếu cả hai nhớ
nghĩ lẫn nhau bèn cảm ứng đạo giao. Cha mẹ
nghĩ đến con cái th́ chỉ một đời, đời
sau chẳng c̣n gặp gỡ, dẫu có gặp nhau cũng
chẳng nhận biết. Đối với chúng sanh, Phật
nghĩ nhớ đời đời kiếp kiếp chẳng
đoạn, tâm Ngài đối với chúng sanh chỉ có
người chứng quả mới nhận hiểu nổi.
Phật nói hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh,
câu nói ấy là chân lư và cũng là sự thật. Hết thảy
pháp thế gian, xuất thế gian đều do tâm tưởng
sanh, chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật; chư Phật là Phật
trong tâm chúng sanh, tâm tâm tương đồng. Nếu chẳng
phải là tự tánh biến hiện, sẽ chẳng thể
có cảm ứng. Lúc khởi tâm niệm Phật, tâm ấy
biến thành cái tâm có đức Phật ba mươi hai
tướng, tâm là chủ tể. Niệm Phật lâu ngày,
tâm thành từ bi, tướng mạo cũng nhu ḥa, thể
hiện ra tướng, ta thường nói “tướng
tùy tâm chuyển”.
Trong sách chú giải Quán
Kinh, Thiện Đạo đại sư viết: “Chín phẩm
văng sanh đều là do gặp duyên sai khác”. Vừa nghe
đến pháp môn Niệm Phật, bèn tin tưởng ngay lập
tức, tiếp nhận, chết một ḷng niệm Phật,
ấy chính là người thiện căn chín muồi,
người ấy một đời niệm Phật nhất
định đắc lực. C̣n như người thiện
căn chưa chín muồi, gặp duyên là điều rất
quan trọng. Lâm chung, gặp bạn lành, nhất tâm bất
loạn, niệm Phật văng sanh, có thể lay động
túc căn trong quá khứ, chuyên tâm niệm Phật mau
được thành tựu.
Chánh kinh:
Thập
phương Như Lai, mẫn niệm chúng sanh, như mẫu
ức tử, nhược tử đào thệ, tuy ức
hà vi?
(Mười
phương Như Lai nghĩ thương chúng sanh như mẹ
nhớ con. Nếu con trốn đi, dù nhớ làm ǵ
được?)
Mẹ con tỷ dụ
thân thiết nhất, mẹ nào chẳng nghĩ đến
con! Từ xưa đến nay, ḷng mẹ u mê, dẫu biết
con chẳng nghĩ đến ḿnh, vẫn cứ canh cánh, chẳng
buông bỏ được. Ví Phật với mẹ,
nhưng chẳng phải là chỉ thương nhớ một
đời.
Chánh
kinh:
Tử nhược
ức mẫu, như mẫu ức tử, mẫu tử lịch
sanh, bất tương vi viễn.
(Nếu con nhớ mẹ
như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng
trái xa nhau)
Ở
đây ví dụ cả mẹ lẫn con cùng nhớ chẳng
xa ĺa, tự nhiên cảm ứng đạo giao, ắt có thể
thấy Phật văng sanh. Chúng ta phải thể hội sâu
xa: V́ sao niệm Phật nhất định được
văng sanh? V́ sao mười phương Như Lai riêng khen ngợi
đức Di Đà?
Cao Tề là
vương triều do Cao Hoan thành lập vào thời đại
Nam Bắc Triều trong lịch sử, quốc hiệu là Tề.
Đương thời, có vị Đại Hạnh ḥa
thượng nói: “Tin - nhớ hai chữ chẳng ĺa
nơi tâm, xưng - kính hai chữ chẳng ĺa nơi miệng”.
Chẳng cần nghĩ ǵ khác, ngay cả với Đại
Thừa Phật pháp cũng chẳng tưởng đến.
Đại Thừa dạy chúng ta vượt thoát luân hồi,
nhưng quư vị có vượt thoát được
chưa? Muốn vượt thoát luân hồi phải đoạn
phiền năo, chưa đoạn phiền năo th́ tất cả
trí huệ đều là gọi là tà trí huệ, chỉ
tăng trưởng tà tri, tà kiến. Thanh Lương đại
sư nói: “Có hiểu nhưng không hành, tăng trưởng
tà kiến”. Phật nói thất t́nh, ngũ dục chẳng
đoạn, quả báo của quư vị vẫn là Dục Giới,
chẳng thể đạt tới Sắc Giới. Đoạn
ngũ dục mới có thể lên tới trời Sơ Thiền.
Nếu người ta nói quư vị một câu nghe chẳng
thuận tai, trong tâm quư vị vẫn c̣n chút phần chẳng
cao hứng, quư vị chẳng thể lên được trời
Sơ Thiền.
Trong truyện kư về
ngài An Thế Cao có đoạn kể: Có lần ngài xuống
Cửu Giang thuộc Giang Nam để độ bạn
đồng học. Người đồng học đó
làm Long Vương; trong quá khứ, ông ta là người xuất
gia, hiểu kinh, thích bố thí, có một lần ra ngoài khất
thực, cơm, thức ăn không ngon, trong tâm rất bực
bội. Bởi một niệm tâm sân hận đó, chết
đi lạc vào đường súc sanh, biến thành đại
măng xà, làm Long Vương ở Cửu Giang. Do ông ta hiểu
kinh, nên có trí huệ, rất linh, nhang đèn cực thạnh.
Chỉ v́ sân tâm quá nặng, thuyền phu nào chẳng lạy
ổng, ổng sẽ lật thuyền đó để trừng
phạt. Bởi thế, đến khi hết thân rắn, ắt
đọa địa ngục.
Các vị nghĩ coi: Khất
thực chẳng vừa ư, mới khởi lên một niệm
nóng giận, c̣n mắc phải báo đó, chúng ta phải nên
kiêng dè. Tu hành là khử sạch tham, sân, si. Tu tâm thanh tịnh,
tu tâm b́nh đẳng, tu tâm từ bi, tu tâm hoan hỷ, mới
có thể sửa đổi được tập khí bệnh
căn của chính ḿnh. Tất cả hết thảy pháp môn
không pháp nào chẳng tốt, nhưng thực tại, chúng ta
chẳng có biện pháp ǵ để đoạn phiền
năo. Một câu Phật hiệu có thể đè nén tham, sân,
si, ngũ dục, lục trần, chẳng sợ niệm
khởi, chỉ sợ biết chậm. Một ư niệm vừa
khởi, trong ư niệm thứ hai bèn niệm Phật hiệu.
Niệm niệm liên tục, niệm Phật đắc lực
hay không là do đây.
Vạn phần chẳng
để Phật hiệu vẫn niệm, nhưng phiền
năo vẫn khởi tác dụng. Luôn luôn nỗ lực, luôn
luôn buông xuống. Hiểu lư mới có thể buông xuống,
mới có thể khuất phục được phiền
năo. Phải thường luôn bồi đắp, điều
thứ nhất là phải đọc kinh, trong kinh đức
Phật dạy chúng ta chân tướng của nhân sanh, vũ
trụ, thế gian, xuất thế gian. Đọc kinh nhằm
mục đích thấy rỗng toang, buông xuống, sau đấy
dùng một câu Phật hiệu để giúp chúng ta vượt
thoát tam giới.
Ḥa Thượng Đại
Hạnh nêu lên bốn chữ “tin, nhớ, xưng, kính”,
xem Văng Sanh Truyện, ta thấy những người niệm
Phật văng sanh trong các đời nói chung đều đă
thực hiện được bốn chữ ấy. Lại
kiểm điểm ḿnh, nếu ḿnh làm chưa được,
chỉ đành đợi đến những đời
sau, nhưng đời sau có được thân người,
có gặp được Phật pháp hay không đều là
những nan đề cả! Bởi thế, nhất định
phải nắm lấy cơ hội này, trọn chẳng
để vuột mất.
Chánh kinh:
Nhược
chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền
đương lai, tất định kiến Phật.
(Nếu
tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, [sẽ trong] hiện
tại hay trong tương lai, nhất định thấy
Phật)
Kinh Vô
Lượng Thọ nói: “Một câu chuyên niệm”. Kinh
Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nhất tâm hệ niệm”.
Kinh A Di Đà (bản dịch của ngài La Thập) chép: “Nhất
tâm bất loạn”. Văn tự ba kinh tuy đây kia sai
khác, nhưng ư nghĩa tương đồng. Kinh điển
dạy chúng ta phải chú trọng cương lănh tu hành, nếu
muốn đạt được lợi ích công đức
thù thắng, nhất định phải hiểu
phương pháp tu học th́ mới ḥng măn nguyện.
Chú tâm xem kỹ kinh
điển, ta thấy trọng điểm chính là nhất
tâm, chẳng những nhất tâm khi niệm Phật, ngay cả
trong sanh hoạt thường ngày cũng phải nhất
tâm. Niệm Phật chẳng qua chỉ là phương cách
để huấn luyện nhất tâm đó thôi, chỉ có
mỗi một niệm này, không c̣n niệm nào khác. Niệm
niệm nối tiếp nhau, thành tựu tam-muội, trong hết
thảy thời, hết thảy nơi, trong cảnh thuận
hay cảnh nghịch đều giữ được nhất
tâm. Công phu niệm Phật thành phiến, liền có sức
để hàng phục phiền năo, đó gọi là Sự Nhất
Tâm. Cổ đại đức tán thán pháp môn này đều
tán thán nơi một điểm sau: nhờ vào chút công phu
bèn có thể siêu xuất tam giới.
“Sẽ
trong hiện tiền hay trong tương lai, nhất định
thấy Phật”. Thấy Phật là trong mộng thấy
hoặc là trong định thấy. Định là tâm chẳng
tán loạn. Kinh Hoa Nghiêm có đoạn chép khi Thiện Tài
tham phỏng trưởng giả Uất Hương, vị
đại đức ấy thích ra chợ để tu
định tại đó. Lại như trong các bức bích
họa ở Đôn Hoàng, Phật giảng kinh, thuyết
pháp, trên trời có thiên nữ vừa ca vừa múa. Tu học
ở mức độ cao chẳng giống với kẻ
sơ học. Kẻ sơ học nhất định phải
t́m cách xa ĺa xă hội nhiễu nhương, đấy là
điểm khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu
Thừa. Trong hiện tại, tu học nếu thành tựu
th́ so ra sẽ cao hơn cổ nhân nhiều lắm. Nếu
tu chẳng thành tựu, lui sụt cũng lẹ.
Kế đó, trong mộng
thấy Phật cũng là tướng lành tốt phi thường,
nhưng ngẫu nhiên gặp th́ được, nếu
thường thấy chỉ sợ là cảnh ma. Học
pháp môn Tịnh Độ có Phật, Bồ Tát gia bị, ma
chẳng dám đến dụ hoặc. Kinh Lăng Nghiêm dạy
rất tường tận. Người niệm Phật
lúc lâm chung, ắt được Phật A Di Đà đến
đón; nếu thấy bất cứ vị Phật hay Bồ
Tát nào khác đến đón đều chẳng muốn
theo, chỉ đợi A Di Đà Phật, các cảnh giới
tốt đẹp khác bất tất phải quan tâm đến.
Huệ Viễn đại sư, sơ tổ Tịnh Tông,
lúc lâm chung nói: Một đời Ngài thấy Phật A Di
Đà ba lần, c̣n thấy Tây Phương Cực Lạc
thế giới nữa, hoàn toàn giống như kinh nói.
Nhất
tâm nhất ư chuyên niệm Tịnh Độ ngũ kinh, niệm
đủ cả năm bộ cũng được, chọn
lấy bất cứ bộ nào để niệm cũng
được. Người niệm Phật th́ nhiều
nhưng văng sanh th́ ít, nguyên nhân là do miệng niệm nhưng
tâm không niệm. Trong tâm thanh tịnh, b́nh đẳng, đại
từ, đại bi, mới xứng là tâm niệm Phật,
bởi lẽ tâm giống như tâm Phật. Tâm và nguyện
đều giống với Phật th́ Chân Như bổn
tánh hiện tiền, niệm Phật là nhân, thành Phật là
quả. Giống như Thiền Tông “minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật”; chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật cũng
có thể đạt được. Vị Phật ấy
là “phần chứng Phật”, chẳng phải là viên măn Báo
Thân Phật, chỉ là sơ trụ phần chứng Phật,
vẫn c̣n có bốn mươi hai giai đoạn mới
viên măn.
Có những
kẻ cả đời niệm Phật nhưng chẳng
thể văng sanh, nguyên nhân nói đại lược gồm 4
điều:
1. Một
là v́ niệm Phật chẳng tinh thành, niệm thứ nhất
vừa mới tinh thuần, niệm thứ hai bèn xen tạp.
Lịch đại tổ
sư đại đức đều là bậc thông Tông,
thông Giáo, sau khi hiểu rơ Tịnh Độ bèn buông bỏ hết
những thứ khác, chuyên tu Tịnh Độ. Trong những
trước tác của đại sư Liên Tŕ, tinh hoa là bộ
Di Đà Sớ Sao; trước tác tối trọng yếu của
đại sư Ngẫu Ích là Di Đà Yếu Giải, Ấn
Quang đại sư vào tuổi già chỉ dùng một bộ
kinh A Di Đà, một câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng
c̣n có ǵ khác nữa.
2. Hai là
v́ sanh nghi, chẳng dốc ḷng tin.
Tuy tu Tịnh Độ,
cũng chịu niệm Phật, nhưng chẳng thể
hoàn toàn tin ḿnh có thể văng sanh. Chỉ cần có một
điểm nghi t́nh, lúc lâm chung dù có phước báo, thân không
bệnh khổ, trí năo sáng suốt, nhưng chỉ có thể
sanh về biên địa. Kẻ phước báo kém hơn,
thần trí chẳng sáng suốt, nghi chướng nổi
lên, liền chẳng được văng sanh. Nếu muốn
phá trừ những nghi chướng ấy, hăy nên thâm nhập,
nghiên cứu kinh giáo và t́m đọc những chuyện văng
sanh thật sự.
3. Thứ
ba là do chẳng có nguyện văng sanh.
Chẳng nguyện văng
sanh là mâu thuẫn với niệm Phật, dùng việc niệm
Phật để tu phước, tương lai làm một
con quỷ giàu có, có kẻ c̣n mong sanh lên trời, hy vọng
tương lai hưởng phước trời, cầu
phước báo trong cơi trời, cơi người.
4. Điều
thứ tư là v́ chẳng thể đoạn tham ái.
Tham cầu các thứ
hưởng thọ trong tam giới lục đạo, phàm
phu tham ngũ dục lục trần thế gian, người
cơi trời tham phước báo thanh tịnh cơi trời,
người Sắc Giới, Vô Sắc Giới tham hưởng
thọ Thiền Định. Có tham ắt thành chướng
ngại, chẳng thể văng sanh.
Người
tu Tịnh Độ chân chánh, ma chẳng dám đến nhiễu
loạn. Thứ nhất là do niệm lực, tức là
như kinh này nói: “Nhớ Phật, niệm Phật”. Thứ
hai là bổn nguyện có Phật tánh lực, điều
được niệm là tự tánh Phật, thanh tịnh
b́nh đẳng đại từ bi là Phật. Thứ ba là
được bổn nguyện của chư Phật gia
tŕ. Với sức bổn nguyện oai thần gia tŕ của
mười phương ba đời hết thảy
Như Lai, ma dù có sức cũng chẳng thể đến
nhiễu loạn.
Tập
khí mang theo từ nhiều đời nhiều kiếp; nếu
thường khởi ác niệm, thường gặp ác mộng,
đấy đều là do ác nghiệp quá khứ, phải nỗ
lực tu pháp môn sám hối. Chắc thật niệm Phật
là chân sám hối. Niệm tướng hảo của Phật
để đối trị hôn trầm, niệm công đức
của Phật để đối trị vọng tưởng.
Cảnh thuận nghịch trong một đời chẳng
nhất định, hăy nhớ kinh Kim Cang dạy: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”. Vinh hoa phú quư thế gian là vướng bận, có ai
thỉnh ḿnh làm Đại Phạm Thiên Vương ḿnh cũng
chẳng làm. Bệnh khổ cũng là một duyên gây thoái thất,
đừng nghĩ tới nó, hăy nghĩ tới tướng
hảo trang nghiêm của đức Phật.
Trong Quán Kinh Trực Chỉ,
ngài Từ Vân đại sư đời Thanh nói: “Người
thế gian nghiệp chướng sâu nặng, lúc hết thảy
kinh chú sám pháp đều chẳng thể tiêu trừ
được th́ rốt cuộc một câu Phật hiệu
có thể tiêu sạch, phương pháp hữu hiệu nhất
là niệm Phật”.
Chánh
kinh:
Khứ
Phật bất viễn, bất giả phương tiện,
tự đắc tâm khai.
(Cách Phật
chẳng xa, chẳng nhờ đến phương tiện,
tâm được tự khai)
Sự Niệm,
niệm đến một công phu nhất định, sẽ
nhập vào Lư Niệm, có thể thấy được Pháp
Thân và Báo Thân Phật. Công phu chẳng đạt tới mức,
chỉ thấy được Ứng Hóa Thân Phật. Trong
sớ luận, tổ sư đại đức nói niệm
Phật niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn,
là nói về thượng phẩm Sự Nhất Tâm, đă
đoạn Kiến Tư phiền năo, thấy được
Ứng Hóa Thân Phật. Nếu niệm đến Lư Nhất
Tâm Bất Loạn, thấy được Báo Thân Phật,
Pháp Thân Phật. Cái gọi là “kiến tánh thành Phật” chính
là thấy được đức Phật nơi tự
tánh, Phật tâm b́nh đẳng thanh tịnh, tự tánh thật
và Phật là một.
Phật
tâm b́nh đẳng, quyết chẳng có phân biệt, chấp
trước, nguyện đồng Phật nguyện. Hết
thảy các kinh Phật nói đều do trong tự tánh tự
nhiên lưu lộ ra. Nếu ai nhập được cảnh
giới này, mở xem kinh Phật, thấy những điều
Phật giảng hoàn toàn giống với kiến giải của
chính ḿnh, bởi lẽ tự tha b́nh đẳng.
Một
câu Phật hiệu chính là phương tiện thù thắng,
lạ lùng, chẳng cần nhờ vào phương tiện,
pháp môn khác nào để hỗ trợ. Niệm Phật chính
là niệm tâm, tâm và Phật không khác, tự - tha bất nhị,
bởi thế chẳng cần có ông Phật nào khác ở
ngoài tâm để làm phương tiện. Nếu tự và
tha là hai pháp th́ chẳng phải là Phật pháp, Lục Tổ
bảo như thế. Những điều được
nói trong Đàn Kinh toàn là nguyên lư, nguyên tắc, bất cứ
Phật pháp Đại Thừa nào cũng chẳng thể
trái nghịch những nguyên lư, nguyên tắc được
nói trong kinh ấy.
Chánh
kinh:
Như
nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử
tắc danh vi Hương Quang Trang Nghiêm.
(Như
người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đó gọi
là Hương Quang Trang Nghiêm)
Phần
trên, Đại Thế Chí Bồ Tát đă tŕnh bày toàn bộ
phương pháp tu học và hiệu quả tu học của
chính ḿnh rồi; giờ đây, Ngài đem danh xưng của
pháp môn này bảo với chúng ta. Hai câu đầu là tỷ dụ.
Hai câu sau nêu danh xưng của pháp môn này: Hương Quang Trang
Nghiêm. Thân gần gũi thân Phật (Giới), tâm khai Phật
tâm (Định - Huệ). Lời lẽ, hành vi của Phật
đều từ tâm thanh tịnh phát khởi, trọn chẳng
lầm lỗi, đáng là giới luật cho thế gian.
Luận
trên mặt chân tâm, tâm Phật và tâm chúng không hai, không khác. Phật
giác ngộ hoàn toàn; tướng của Giác là Định,
tướng của Mê là động. Tâm bất động
gọi là Định, tác dụng của nó là trí huệ chân
thật. Trí huệ thông minh của phàm phu là dùng tưởng
tượng, dùng tư duy, dùng suy tưởng, nên gọi là
thế trí biện thông. Tâm định như gương, tịnh
như nước lặng, thấy được chân
tướng sự thật, cũng có thể thấy
được quá khứ, vị lai. Tam thế, mười
phương là “bất tương ưng hành pháp”, nói
theo cách bây giờ là khái niệm trừu tượng, chẳng
phải thực sự tồn tại.
Cương lănh giáo dục
của đức Phật trong bốn mươi chín
năm trên đời là: Có Định, có Huệ, tâm liền
khai mở Phật tâm! Nếu ngôn ngữ, hành vi chúng ta
tương ứng với giới luật th́ gọi là thân
gần thân Phật, như người nhiễm
hương. Hết thảy pháp của Đức Phật
nói do v́ sự, do v́ người, do v́ địa bất
đồng nên [nhiều] vô lượng vô biên, nếu nắm
được tư tưởng trung tâm (tức điều
cốt lơi) của chúng th́ hết thảy ngôn hạnh sẽ
tương ứng với Phật pháp.
Đại Tạng Kinh
có mấy ngàn quyển, không cách ǵ đọc tụng khắp
hết được, thông thường chúng ta chỉ có thể
học tập chưa đến năm mươi bộ.
Con người hiện tại rất bận bịu, chẳng
thể có đủ thời gian để nghiên cứu kinh
lớn, luận lớn. Kinh Vô Lượng Thọ số chữ
không nhiều, nhưng bao quát hết thảy nguyên tắc,
lư luận, nếu có thể đọc thuần thục bộ
kinh này, thâm nhập lư giải kinh đó th́ tốt lắm.
Kinh Hoa
Nghiêm nói Bồ Đề tâm hương trừ được
các nhiệt năo: tham, sân, si v.v… Bồ Đề là giác. Tâm Bồ
Đề đối trị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến,
có thể làm cho chúng sanh đầy đủ trí huệ,
thanh lương, không nhiệt năo. Bồ Đề tâm thể
và dụng rộng lớn, chứa đựng cả thái
hư. Hiện tại chúng ta chỉ mê thích cái nhỏ nhoi,
chỉ nghĩ đến bản thân, nhà cửa của
ḿnh, bởi thế phải lưu chuyển trong lục
đạo, chẳng thể xuất ly. Lục đạo
sanh từ mê, nếu chẳng mê th́ đại thiên thế
giới cũng chẳng có. Là phàm hay thánh chỉ trong khoảng
mê hay ngộ, Tứ Thánh là giác, lục đạo là mê. Chân
chánh giác ngộ liền có thể vượt thoát lục
đạo.
Ḥa Thượng Hư
Vân một năm tắm một lần, cạo tóc một lần.
Nghe nói thân ngài có mùi thơm, y phục cũng có mùi thơm. Chúng
ta ba ngày chẳng tắm giặt, bốc mùi khó chịu
đựng nổi. Chúng ta vào chùa nếu thấy có treo tấm
biển Hương Quang Thất, ta biết nơi đó là
đạo tràng niệm Phật.
Chánh
kinh:
Ngă bổn
nhân địa, dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn.
(Nhân
địa của con, dùng tâm niệm Phật, nhập Vô
Sanh Nhẫn)
Pháp môn Niệm Phật
chẳng giống với bất cứ pháp môn nào khác. Mọi
pháp môn đều là tu nhân chứng quả, nhân quả chẳng
đồng thời. Pháp môn Niệm Phật là nhân quả
đồng thời, gọi là “triệt quả hạch
nhân”. Phật hiệu đây chẳng phải chỉ là
đức hiệu của riêng A Di Đà Phật khi Ngài chứng
quả, mà c̣n là đức hiệu chứng đắc
nơi quả vị của mười phương chư
Phật Như Lai. Chúng ta lấy quả làm nhân, nên chẳng
giống với bất cứ pháp môn nào khác.
Niệm Phật trọng
tại niệm tâm, nhưng chẳng thể phế khẩu
niệm. Tâm và miệng phải tương ứng nhau, phải
như một, miệng đọc suông là vô ích, nhất
định phải miệng niệm tâm ứng, chẳng thể
dùng cái tâm ư thức phân biệt để niệm, mà phải
nhiếp trọn sáu căn nhất tâm bất loạn mà niệm.
Hai mươi lăm vị Bồ Tát trong kinh Lăng Nghiêm
đều là Pháp Thân đại sĩ, các Ngài chẳng có vọng
tâm, chân tâm đă hiển lộ. Dù chúng ta chưa đạt
tới cảnh giới của các Ngài, nhưng muốn học
theo th́ trọng yếu nhất là chắc thật niệm
Phật.
Phương pháp [niệm
Phật] rất nhiều, trong quá khứ, tại chùa Linh
Nham ở Tô Châu có một tấm bia đá khắc một
bài kệ, dạy người đời phương pháp
niệm Phật, chẳng cần phải đếm số,
chỉ quán tưởng màu sắc, mùi thơm, ánh sáng của
hoa sen. Căn cứ vào kinh Di Đà nói trong ao bảy báu có
hoa sen: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh
sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Niệm A Di
Đà Phật câu thứ nhất tưởng hoa sen màu xanh
ánh sáng xanh, niệm sang câu thứ hai tưởng hoa sen vàng
ánh sáng vàng, câu thứ ba tưởng hoa sen đỏ ánh sáng
đỏ, câu thứ tư tưởng hoa sen màu trắng
ánh sáng trắng. Theo thứ tự đó, hết một ṿng
lại trở về đầu, luân lưu quán tưởng,
dùng phương pháp này để nhiếp trọn sáu
căn, chẳng cần phải đếm số. Ấn
Quang đại sư nói cách niệm này phù hợp ư kinh.
“Ngộ” là ngộ nhập, chia thành giải ngộ
và chứng ngộ. Đoạn nghi sanh tín, gọi là giải
ngộ, nhưng phiền năo tập khí chưa đoạn,
vẫn c̣n chướng ngại trí huệ thanh tịnh,
chướng ngại văng sanh thành Phật, cần phải
chân chánh khế nhập cảnh giới Phật. Kinh
Lăng Nghiêm giảng về chân tướng của vũ
trụ nhân sanh, phương pháp và tŕnh tự tu hành tường
tận hơn các kinh khác. Kinh Hoa Nghiêm nói tu hành có năm
mươi hai địa vị, nhưng kinh Lăng Nghiêm
nói đến sáu mươi địa vị, tỉ mỉ
hơn kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm, trước địa
vị Thập Tín có ba địa vị tiệm thứ (tiến
dần dần). Ba địa vị
tiệm thứ ấy chính là cơ sở tu hành, như các lớp
dự bị đại học.
Thứ nhất là tu tập,
mục đích trước hết là trừ các trợ duyên
của tập khí phiền năo. Chẳng hạn như
người tu hành phải đoạn ngũ tân (năm
thứ hôi nồng). Ngũ tân là hành,
tỏi, kiệu, hẹ, hưng cừ (9), đều là những
thứ trợ duyên bất hảo, nên gọi là các thứ
rau hôi. Ăn sống can hỏa dễ động, ăn
chín làm cho hormone tăng thêm, có thể gây nên những xung
động t́nh dục.
Thứ hai là chân tu, chân
tu là dùng cái tâm chân thật để tu. Trước hết,
nhất quyết phải tŕ giới, giữ bốn giới
trọng “giết, trộm, dâm, dối”, nặng nhất
là tội đại vọng ngữ: chưa chứng bảo
là đă chứng. Như Vĩnh Minh đại sư là A Di
Đà Phật tái lai, một khi thân phận bị lộ
Ngài bèn viên tịch. Bố Đại ḥa thượng xuất
hiện dưới thời Nam Tống, là Di Lặc Bồ
Tát tái lai, chính Ngài tự nói ra, nói xong bèn viên tịch. Kẻ
nào nói xong chẳng viên tịch th́ đích thực là giả
mạo.
Thứ ba là tăng tấn,
dùng sức định huệ đoạn trừ nguồn
ác, không ngừng cầu tiến lên, xa ĺa tập khí phiền
năo của chính ḿnh, sau đấy mới nhập địa
vị Thập Tín. Dù có viên măn địa vị Thập Tín,
vẫn chỉ thuộc về Giải vị (địa
vị mới giải ngộ, chưa thật chứng), trọn chưa kiến tánh, chưa tự
thấy hiểu chân tướng của vũ trụ, nhân
sanh. Từ Sơ Trụ trở lên, phá một phần vô
minh, thấy một phần bổn tánh, mới tính là thật
chứng.
Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác gọi là chứng nhập, cho
đến địa vị bốn mươi mốt của
hàng Pháp Thân đại sĩ. Tiểu thánh đă chứng
Nhân Không, nhưng chưa chứng nhập Pháp Không, chẳng
qua là giải ngộ, phá được Ngă Chấp,
nhưng chưa thể trừ được Pháp Chấp.
Tiêu chuẩn nhập Vô
Sanh Pháp Nhẫn trong kinh Nhân Vương khá cao: phải đạt
đến Thất, Bát, Cửu Địa mới được
tính là chứng nhập, dùng tịnh niệm chân chánh để
trừ diệt tà kiến, vọng tưởng, và các thứ
nhiễm ô tư tưởng, kiến giải nơi tâm lư,
tinh thần. Trước kia thấy thế giới là đời
ác năm trược, bây giờ, tâm thanh tịnh rồi, thấy
thế giới là thanh tịnh, tâm thanh tịnh thế giới
cũng thanh tịnh, hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng.
Tâm là mấu chốt, nội pháp ngoại pháp đều
không, hết thảy vô sanh, đó là cảnh giới của
bậc từ Thất Địa trở lên. Không thể
không biết cương lănh tu học như thế, trong
lúc niệm Phật, bất cứ chuyện ǵ chẳng
được nghĩ đến.
Có kẻ nói càng niệm
Phật vọng tưởng càng nhiều, đó chỉ là
lúc b́nh thường chẳng hay biết đấy thôi, nào
phải b́nh thường chẳng có vọng tưởng.
Lúc niệm Phật, y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây
Phương đều có thể dùng để tưởng
được cả, chẳng riêng ǵ hoa sen, nhưng chỉ
nên tưởng một thứ, bởi mục đích là
để dẹp tạp niệm.
Kinh Hoa Nghiêm giảng Vô
Sanh Pháp Nhẫn là chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng
chẳng thấy chút pháp nào diệt. Đó là nói đến
hiện tượng của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Khi nào quư vị
thấy cùng tột hư không khắp pháp giới chẳng
có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt,
quư vị đă chứng đắc cảnh giới Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Vô sanh vô diệt mới là chân tướng, có
sanh có diệt là sự hiểu lầm của chúng ta;
nhưng nếu ta chưa tự chứng cảnh giới
này, rất khó hiểu được nổi.
Nói chung, tâm ta và tâm Phật,
tâm Bồ Tát chẳng khác ǵ, nhưng tâm Phật, tâm Bồ
Tát bất động, tâm bất động là chân tâm, những
điều được thấy đều là tướng
chân thật. Tâm chúng ta là tâm sanh diệt, tâm hư vọng,
nên toàn thấy những tướng hư vọng, đến
khi nào chúng ta tu định đạt đến tŕnh độ
tương đương, tự ḿnh chứng đắc
rồi th́ mới có thể hiểu rơ lư luận này. Kinh
Đại Thừa nói: “Phật chẳng độ chúng
sanh”. Ngài chỉ giảng rơ chân tướng chính Ngài
đă tự chứng, chúng ta có tự chứng được
hay không là do công phu của chính ḿnh.
Không sanh, không đến,
ĺa dục, không nguyện đều là “không”, đây là nói
theo mặt Lư. Không diệt, không tận, không đi là “chẳng
không”, đây là luận trên mặt Sự. Ly cấu, vô biệt,
vô xứ, tịch tĩnh, vô trụ, không nhưng chẳng
không chính là Trung Đạo. Sự là có, nhưng thể của
nó là không. Sự từ đâu có? Phật nói vạn pháp do
nhân duyên sanh. Bất cứ một pháp nào sanh khởi đều
có vô lượng nhân duyên. Cái ǵ sanh bởi nhân duyên ắt
không có tự thể, tức là không! Đừng hiểu
Không là không có ǵ. Không là Có, chỉ v́ sáu căn của chúng ta
chẳng tiếp xúc được nên tạm gọi là
Không, chứ chúng thật sự là Có. Nếu hiểu rơ
được sự thực, liền có thể sử dụng
Trung Đạo, chẳng nghiêng lệch về Không Lư hay chấp
vào Giả Tướng.
Nho gia nói đến
đạo Trung Dung, nhưng chưa thấu triệt Phật
pháp. Châu Hy là người đời Tống, cũng từng
học Phật, bỏ không ít công phu học Phật, bộ
Tứ Thư do ông ta biên soạn nhất định chịu
ảnh hưởng cách chỉ dạy trong kinh Hoa Nghiêm,
nhưng tôi chưa dám khẳng định, bởi lẽ kết
cấu Tứ Thư rất giống với kinh Hoa Nghiêm.
Điểm đặc sắc lớn nhất của kinh
Hoa Nghiêm là có lư luận, có phương pháp, lại c̣n có cả
biểu diễn nữa. Năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài đồng tử là biểu diễn, ứng
dụng lư luận vào sanh hoạt thường nhật.
Kết cấu của
Tứ Thư cũng giống như vậy, Trung Dung là lư luận,
Đại Học là phương pháp, Luận Ngữ và Mạnh
Tử là biểu diễn, thuyết minh thánh hiền vận
dụng cái đạo Trung Dung trong sanh hoạt thường
nhật như thế nào. Khổng Tử đăi người
tiếp vật cả một đời đều tuân thủ
cái đạo Trung Dung. Thời xưa, đế
vương đều lấy lẽ trung ḥa để trị
thiên hạ. Ba ngôi đền lớn trong hoàng cung Bắc
Kinh có tên là Thái Ḥa điện, Trung Ḥa điện và Bảo
Ḥa điện.
Chánh kinh:
Kim ư thử giới,
nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ.
(Nay trong cơi này, nhiếp
người niệm Phật quay về Tịnh Độ)
Ba câu này
nêu rơ nhiệm vụ của Bồ Tát khi vào trong thế giới
này: Chỉ dạy chúng sanh y giáo phụng hành, ai nấy
đều có cơ hội giác ngộ chân tướng của
nhân sanh vũ trụ, viên thành Phật đạo. Việc
giáo hóa chúng sanh này cũng có thể gọi là gia nghiệp của
Như Lai. Thế giới này là thế giới ngũ
trược ác khổ, kinh Vô Lượng Thọ mô tả
là “ngũ thống, ngũ thiêu” (năm điều
đau đớn, năm điều thiêu đốt). Sống
trong thời đại này, mức độ ác trược
càng sâu càng mạnh, chẳng luận trong nước hay
ngoài nước, tánh t́nh con người tham, sân, si mạn
tăng trưởng không ngừng. Ở những nơi tôi
đi đến và có dịp quan sát, lại càng thấy
đáng sợ vô cùng. Ác trược đă đạt đến
mức độ tương ứng th́ hậu quả là
khó tránh tai nạn phát sanh, con người hiện tại phải
nên cảnh tỉnh.
Chữ “Tịnh
Độ” chỉ Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chẳng thuộc vào địa cầu này, chẳng
thuộc trong Thái Dương Hệ, cũng chẳng thuộc
trong Ngân Hà Hệ. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho rằng
Ngân Hà Hệ bất quá chỉ là một đơn vị thế
giới mà thôi. Khu vực giáo hóa của một đức
Phật gồm một trăm ức Ngân Hà Hệ. Bài
văn này của cụ được in trong phần phụ
lục cuốn chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Ở
phương Tây bên ngoài đại thiên thế giới của
chúng ta, cách xa mười vạn ức cơi Phật, có một
thế giới Cực Lạc rộng lớn, là khu vực
giáo hóa của đức Phật A Di Đà, khoảng cách giữa
thế giới Cực Lạc và địa cầu của
chúng ta là một con số thiên văn (ư nói rất lớn)
làm sao có thể đến được nổi? Quư vị
đọc kinh Đại Thừa liền biết: Muốn
đến được Cực Lạc chẳng phải
là chuyện khó. Bởi lẽ, cùng tận hư không khắp
pháp giới đều là vật do tâm tánh ta biến hiện,
chẳng cần biết khoảng cách xa hay gần, đều
chẳng thể vượt khỏi phạm vi của tâm
ta. Đă thuộc trong tâm th́ trong một niệm bèn có thể
đến đó được.
Tốc độ của
niệm lực cùng khắp, không có vật chất ǵ có thể
so sánh được. Trong mỗi giây, ánh sáng có thể
đạt đến tốc độ ba mươi vạn
dặm, nhưng niệm lực nơi tâm trong khoảng sát
na, chưa đến một giây, đă có thể trọn khắp
vô tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta
biết bản năng này của nhân loại; Phật chỉ
dạy chúng ta cách khôi phục bản năng của chính
ḿnh. Nếu nói đức Phật có thể ban cho chúng bất
cứ vật ǵ, nói như vậy là lừa người, bởi
thế mới nói trong Phật pháp không có mảy may mê tín nào
cả!
Trong
hư không, địa cầu vô cùng nhỏ bé, các tôn giáo khác
tin kính Nước Trời, trời phải đâu chỉ
có một, đức Phật nói có hai mươi tám cơi trời,
mỗi tầng trời đều có hoàn cảnh sanh hoạt
riêng, kinh Phật mô tả cực tường tận. Không
gian hoạt động thật sự của chúng ta có phạm
vi cực rộng, mỗi một tinh cầu trong hư không
đều liên quan đến ta. Có vị đồng học
bảo tôi, các nhà khoa học Tây Phương dùng
phương pháp khoa học, truy t́m quá khứ của một
người, chứng minh con người thực sự có
chuyển thế, có người đời trước là
người ở địa phương nào đó, có
người từ trong đường súc sanh mà đến,
lại c̣n có người từ tinh cầu khác sanh về
đây. Không gian lớn vô hạn, lẽ tự nhiên là
người trên địa cầu có thể từ tinh cầu
khác sanh vào đây.
Nói trên mặt
Sự, cơi này là quán trọ, Tịnh Độ là quê nhà. Quán
trọ và quê nhà phải dùng thời gian mà luận, người
sống trong thế giới này mang tánh cách tạm thời,
sau khi đến Tây Phương, thọ mạng vô hạn,
thời gian dài lâu mới là quê nhà. Mê th́ đánh mất
phương hướng, giác ngộ rồi không ai là chẳng
hồi đầu, thảy đều muốn trở về
Tây Phương cả.
Đại Thế Chí
dùng sức bổn nguyện oai thần gia tŕ người
niệm Phật, nhưng người niệm Phật vẫn
cứ phiền năo, vẫn có thoái chuyển, vẫn có tâm
tham luyến. Đây chẳng phải là nguyện lực của
Bồ Tát có vấn đề, mà là do nghiệp chướng
tập khí của chính ḿnh quá nặng. Phật, Bồ Tát
không có ư niệm cưỡng bách một cá nhân nào phải
làm như thế này, như thế nọ. Nếu các Ngài có
ư niệm như thế, tâm các Ngài chẳng thanh tịnh. Phật,
Bồ Tát là thầy, chúng ta phải thành khẩn tiếp nhận
lời dạy răn của các Ngài, làm theo.
Chương kinh văn
này chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ,
nhưng nếu hiểu rơ ư nghĩa, y theo phương pháp
lư luận kinh dạy để tu học th́ chính là
được Đại Thế Chí Bồ Tát gia tŕ. Y theo
đây tu học ắt chẳng bị thoái chuyển, công
phu tự nhiên đắc lực, lâm chung các Ngài ắt đến
tiếp dẫn.
Có năm
pháp môn thấy được đức Phật trong
năm cơi, cổ đức có nói như vậy, riêng nêu tại
đây để mọi người cùng tham khảo,
nhưng bất tất phải học theo, chỉ để
sau này có ai nhắc đến, chúng ta khỏi bỡ ngỡ,
việc tu hành của chính ḿnh đương nhiên phải lấy
lời Phật làm chuẩn mực. Năm pháp môn đó là:
- Nhớ
tưởng ngoại cảnh niệm Phật.
- Nhiếp
cảnh quy tâm niệm Phật.
- Tâm cảnh
dung thông niệm Phật.
- Tâm cảnh
cùng mất niệm Phật.
- Viên dung
vô tận niệm Phật.
Đầy đủ ba
tư lương Tín - Nguyện - Hạnh, ba diệu huệ
Văn - Tư - Tu, mới gọi là người niệm Phật.
Nếu chỉ là miệng niệm Phật suông, trong tâm suy
nghĩ lung tung, Đại Thế Chí chẳng biết làm
cách nào! Tu Tịnh Độ phải có đủ điều
kiện Tịnh Độ, tức là ba tư lương.
Thật sự tin có Phật A Di Đà, ḷng tin hoàn toàn thành khẩn;
nguyện học theo A Di Đà Phật, thật sự nguyện
sanh về Tây Phương Tịnh Độ; Hạnh là niệm
một câu thánh hiệu A Di Đà Phật này. Trong sanh hoạt
thường ngày tuân theo mỗi điều Phật dạy
răn thành nề nếp. Đó là Chánh Trợ Song Tu.
Lại c̣n phải có ba
diệu huệ Văn - Tư - Tu. Văn ngụ ư tiếp
xúc, tai nghe âm, mắt thấy sắc, lấy một chữ
Văn làm tiêu biểu cho tất cả nên gọi là Văn.
Tư ngụ ư hiểu rơ, chứ không phải là suy xét, suy
xét là thuộc về thức thứ sáu. Một phen tiếp
xúc bèn hiểu rơ, hiểu rơ xong, tu hành quyết định
chẳng mê. Văn - Tư - Tu đồng thời. Đấy
là cách tu hành của Bồ Tát, khi văng sanh, quá nửa sẽ
sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ, thuộc về Lư Nhất
Tâm Bất Loạn. Ngẫu Ích đại sư nói: “Niệm
Phật dù hữu niệm th́ rốt cuộc cũng nhất
định đạt đến vô niệm; từ Sự
niệm rốt cuộc cũng nhất định đạt
đến Lư Niệm”.
Tịnh Tông Học Hội
đ̣i hỏi người niệm Phật phải có đủ
năm đức, ba phước, lục ḥa, tam học, lục
độ, thập nguyện, một bề chuyên niệm cầu
sanh Tịnh Độ. Lấy Phật làm cảnh, tâm nguyện
giải hạnh, mỗi mỗi đều giống như
Phật mới là người niệm Phật chân chánh.
Đấy là những điều chúng tôi đề xướng
bao năm qua. Trong thế giới ác trược này, khởi
tâm động niệm, xử thế đăi người,
tiếp vật như thế nào, sao cho cơi ḷng chúng ta vẫn
thanh tịnh vô nhiễm, thành tựu trí huệ công đức
th́ những điều kiện vừa nói ở phần
trên rất trọng yếu.
Thứ nhất là
năm đức, đó là căn bản lớn lao để
làm người. Đó chính là thái độ xử thế
đăi người cả một đời của vị
Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử. Mọi
đệ tử cửa Khổng đều công nhận thầy
ḿnh có năm đức, tức là Ôn, Lương, Cung, Kiệm,
Nhượng (ôn ḥa, hiền lương, cung kính, tiết kiệm,
khiêm nhượng), lấy tư tưởng Nho Gia làm
cơ sở ḥng kiến lập vô thượng Đại
Thừa Phật pháp, rồi mới học những thứ
khác.
Ba phước:
học Phật chẳng thể không có phước báo, Phật
là đấng Lưỡng Túc Tôn, phước lẫn huệ
đầy đủ. Túc có nghĩa là viên măn. Tam phước
xuất phát từ Quán Kinh, tổng cộng gồm ba điều
kiện, tất cả hết thảy Đại Thừa
Phật pháp đều chẳng thể không có ba thứ
phước này.
1) Hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất
sát, tu thập thiệp nghiệp
Phật pháp truyền
đến Trung Quốc, v́ sao được tiếp nhận
rộng khắp trong triều ngoài nội, được
phát dương quang đại không ngừng là phải có lư
do: Cơ sở của Phật pháp là hiếu với cha mẹ,
tôn trọng thầy, Nho gia cũng thế. Nhiều điều
Nho Gia đề xướng chỉ là nguyên tắc khá giản
lược, kinh điển Phật giáo phong phú có thể bổ
sung những điểm thiếu sót của Nho Gia. Đế
vương các đời chẳng cần biết hành vi
như thế nào, đều phải lấy Hiếu để
trị thiên hạ.
Trên thế giới,
trong bốn nước có nền văn minh lớn lao từ
thời cổ, ba nước đă diệt vong, chỉ c̣n
ḿnh Trung Quốc tồn tại hơn năm ngàn năm,
nguyên nhân là do quan niệm hiếu thuận cha mẹ, tôn phụng
sư trưởng vậy. Cơ sở để duy tŕ nguồn
mạch đạo lư này là kiến lập từ đường.
Thời cổ cúng giỗ là nhằm mục đích suốt
cả đời kính nhớ nguồn gốc, hiệu quả
là vun bồi dân đức sâu xa. Tổ tiên cách xa hơn ngàn
năm c̣n chẳng quên, lẽ nào bất hiếu với cha
mẹ hiện tại. [Văn minh Trung Hoa] hơn năm ngàn
năm chưa bị đào thải là do dùng hiếu đạo
để duy tŕ. Chẳng có cha mẹ, chẳng hy vọng
ǵ con cái tốt lành; chẳng có thầy dạy chẳng hy vọng
học tṛ giỏi giang. Con cái, học tṛ tiếp nhận lời
chỉ dạy, nỗ lực tiến lên, kế sách công tác
giáo dục trăm năm bèn thành tựu. Bởi thế, gia
đ́nh ḥa thuận, xă hội yên ổn, quốc gia giàu mạnh,
thế giới đại đồng, đều tạo dựng
từ hiếu đạo.
Xem trong lịch sử,
nếu tuân thủ lời dạy của Khổng Phu Tử
để trị quốc, chỉ tuân hành được
hai ba phần, quốc gia đă đại trị; những
lúc trái nghịch lời dạy của Khổng Tử, quốc
gia ắt bị loạn lạc. Lại c̣n mở rộng
hiếu kính ra hơn nữa, mở rộng cái tâm hiếu
thuận cha mẹ thành cái tâm hiếu thuận đối với
hết thảy chúng sanh, mở rộng cái tâm kính trọng
sư trưởng thành tâm kính trọng hết thảy chúng
sanh, đó gọi là đại hiếu. Tâm lượng rộng
mở, có hiếu kính th́ mới có thể sanh tâm đại
từ bi.
2) Thọ tŕ Tam Quy,
đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi
Tam Quy là quy y Tam Bảo.
Ba đại cương lănh của Phật giáo là: Giác chẳng
mê; chánh không tà, tịnh chẳng nhiễm. Về
phương pháp tu học, chúng ta chọn pháp môn Niệm Phật,
nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối.
Giới luật là khuôn phép sanh hoạt, là lễ tiết oai
nghi.
3) Phát Bồ Đề
tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa,
khuyến khích sách tấn người tu học
Tam phước là luận
trên phương diện tu học của chính ḿnh. Lục
Ḥa là luận trên phương diện đoàn thể, là
nguyên tắc đối xử giữa mọi người
với nhau.
Thứ nhất là Kiến
Ḥa Đồng Giải: ư kiến tương đồng,
giảm thiểu tranh chấp, tức là như thường
nói là hiểu biết lẫn nhau. Trước kia, đến
già, đến chết không qua lại với nhau cũng chẳng
thấy quan hệ ǵ lắm. Cận đại, khoa học
kỹ thuật đột nhiên phát triển mạnh mẽ,
tin tức giao thông thuận tiện, nhanh chóng, làm thế nào
để hiểu biết lẫn nhau ngơ hầu giữ cho
nhân loại đối xử ḥa b́nh với nhau thật là
trọng yếu. Sử gia kiêm triết học gia Anh Quốc
là Thang Ân Tỉ đă nói trong hội nghị Nhật Nội
Ngơa như sau: “Muốn xây dựng sự hiểu biết
lẫn nhau một cách ḥa b́nh trên thế giới hiện tại
và mai sau, th́ rốt cục phải dùng đến học
thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật
pháp”.
Chủ giáo (10) Vu Bân Khu
Cơ của Trung Quốc tham gia hội nghị ấy, sau
khi về nước bèn đề xướng thờ cúng
tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên trong Thiên Chúa Giáo do
đấy được bắt đầu. Bởi lẽ
tư tưởng Khổng Mạnh ôn ḥa nên hiếu dưỡng
cha mẹ, tôn kính sư trưởng không ai phản đối,
bất cứ tư tưởng trong nước, ngoài
nước nào đều có thể xây dựng sự hiểu
biết lẫn nhau. Bởi thế, sau đại hội
tôn giáo chung, giáo hội Công Giáo thông tri những người
có trách nhiệm ở các nơi chủ động đối
thoại với Phật giáo ḥng hấp thụ những kinh
nghiệm của Phật giáo.
Khéo sao, tôi gặp dịp
Chủ Giáo Vu Bân dự trù thành lập Sở Nghiên Cứu
Đời Sống Tinh Thần Á Đông cho thần học
viện Đa Mă Tư ở Phụ Đại Hậu Biên,
những nghiên cứu viên của sở là những linh mục,
nữ tu, tối thiểu phải tốt nghiệp đại
học hoặc tốt nghiệp môn Thần Học, phục
vụ ba năm; ông ta mời tôi đến dạy. Bọn
họ chủ yếu là muốn nghiên cứu Phật giáo, học
viên không đông, nhưng người dự thính lên đến
tám, chín chục người. Thứ hai là giới ḥa đồng
tu (cùng ḥa kính ǵn giữ giới luật), thứ ba là thân
ḥa đồng trụ (ḥa kính cùng ở chung với nhau), thứ
tư là khẩu ḥa vô tránh (lời lẽ ḥa kính, không tranh
căi), thứ năm là ư ḥa đồng duyệt (ư kiến ḥa
đồng, cùng vui vẻ chia xẻ quan điểm), thứ
sáu là lợi ḥa đồng quân (vui vẻ chia xẻ quyền
lợi với nhau).
Tam Học là Giới -
Định - Huệ, cho đến Lục Độ, Thập
Nguyện, học đến mười nguyện Phổ
Hiền chính là đăng phong tạo cực, tâm lượng
rộng lớn, nguyện hạnh cũng rộng lớn vô
biên. Chẳng hạn như nguyện thứ nhất là “lễ
kính chư Phật”, hết thảy chúng sanh đều
là Phật, chúng sanh đều có Phật tánh, đă có Phật
tánh th́ sớm muộn ǵ cũng đều có thể thành Phật.
Vô t́nh chúng sanh cũng là Phật, thực vật hay khoáng vật
đều có Phật tánh. Kinh Hoa Nghiêm chép: “T́nh và vô t́nh,
cùng viên măn chủng trí”. Đối với hết thảy
mọi người, hết thảy sự vụ đều
phải tận tâm, tận lực, tận trách nhiệm.
Các bạn đồng
học khi học Phật nhất định phải vận
dụng Phật pháp vào sanh hoạt thường nhật. Ví
như cái bàn là vật, phải lau chùi cho thật sạch,
phải sắp cho ngay ngắn chỉnh tề, tức là
ḿnh cung kính nó. Với bất cứ sự việc nào chịu
trách nhiệm đều nghiêm cẩn thực hiện,
đó chính là lễ kính. Một bề chuyên niệm cầu
sanh Tịnh Độ. Nương vào Phật làm cảnh,
tâm nguyện, hạnh giải, mỗi mỗi đều giống
như Phật mới là người thật sự niệm
Phật. Tâm mong mỏi hiểu rơ các pháp, mọi hành vi tạo
tác trong cuộc sống thường ngày luôn lấy Phật
làm chuẩn, hành theo đúng như kinh Vô Lượng Thọ
đă dạy đó là người thật sự niệm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm, trong cuốn
thứ năm, đức Phật hỏi các đệ tử
lúc ban sơ phát tâm, đối với mười tám cảnh
giới ai viên thông cảnh giới nào, từ phương
tiện nào mà nhập tam-ma-địa, bảo các đồ
đệ trả lời. Có tất cả hai mươi
lăm vị Bồ Tát đáp lời, đem vô lượng
vô biên pháp môn quy nạp thành hai mươi lăm loại lớn,
mỗi một loại có một người làm đại
biểu. Đại Thế Chí Bồ Tát đại biểu
pháp môn Niệm Phật, Ngài thưa cùng đức Phật:
Chánh kinh:
Phật vấn
viên thông, ngă vô tuyển trạch, đô nhiếp lục
căn, tịnh niệm tương kế, đắc
tam-ma-địa, tư vi đệ nhất.
(Phật hỏi viên
thông, con không chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, ấy
là bậc nhất)
Hai mươi lăm
môn Viên Thông, môn nào cũng là bậc nhất. Pháp môn trọn
chẳng cao thấp, ví như người bệnh, mỗi
người căn bệnh khác nhau, tự nhiên uống thuốc
khác nhau, thuốc nào trị được chứng ấy
th́ là bậc nhất. Bất luận pháp môn nào, đối
với sự tu học của chính ḿnh vô cùng thích hợp,
khế cơ, pháp môn ấy là bậc nhất. Viên Thông nghĩa
là viên dung, Thông là thông đạt vô ngại, viên măn thông
đạt tức là đại triệt đại ngộ,
chẳng luận là đă học hay chưa học đều
có thể hiểu rơ, biết được quá khứ, vị
lai, lại c̣n biết được cảnh giới của
người khác. Bởi lẽ, tâm ḿnh và tâm người
khác chỉ là một, đạt đến mức độ
ấy bèn gọi là đắc thần thông.
Thần thông có sáu thứ,
một trong sáu thứ đó là Tha Tâm Thông, bởi lẽ tâm
đă là một. Hiện tại, chúng ta chẳng biết tâm
cảnh của người khác là v́ có chướng ngại;
ví như nước có sóng gợn, chẳng soi tỏ h́nh ảnh
bên ngoài. Nếu cơi ḷng b́nh tịnh, bản năng sẽ tự
khôi phục, chứ chẳng phải là do tu hay học mà có,
nếu bổn tánh quư vị chẳng có, có muốn làm thế
cũng không được.
V́ sao ngài Đại Thế
Chí nói “không chọn lựa?” Là v́ Ngài ngoài chẳng chọn
tướng sáu căn, trong chẳng chọn tánh của sáu
căn. Tướng lục căn và tánh lục căn bao
trùm tất cả hết thảy pháp môn, Ngài trọn không
tuyển chọn, chỉ là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”. Mắt chẳng hướng
ngoại vin nắm, cho đến ư chẳng vin theo pháp, chỉ
nương vào một cái tâm tinh thuần, trong sáng, chẳng
dùng đến lực dụng của sáu căn. Phần
đầu là xả ĺa tướng, chúng ta c̣n có thể làm
được, phần sau là bỏ nơi tánh, chúng ta khó thể
làm nổi.
“Một niệm chẳng
sanh” là Tịnh, niệm mà vô
niệm vậy. Muốn cầu tịnh niệm thành tựu
th́ “nhiếp trọn sáu căn” sẽ được
viên măn. Hai câu này hỗ trợ sau, thành lập nhau, có thể
coi là nhân quả của nhau. Chỉ có một câu A Di Đà
Phật, niệm lâu ngày đến nỗi câu A Di Đà Phật
ấy cũng chẳng chấp trước, niệm không ngừng,
chẳng c̣n hữu niệm lẫn vô niệm. Hữu niệm
lẫn vô niệm đều không c̣n th́ gọi là “vô niệm”,
hữu niệm lẫn vô niệm đều chẳng chấp
trước. Phàm phu chấp Hữu, Nhị Thừa chấp
Không, Bồ Tát chẳng chấp trước cả hai, nên gọi
là Trung Đạo. “Nhất tâm hệ Phật” (một
ḷng khăng khắng nơi Phật) gọi là “niệm”,
thường thường nghĩ đến lời dạy
dỗ, phương pháp, lư luận, cảnh giới của
Phật, giữ măi trong tâm, chẳng nghĩ đến
điều ǵ khác, gọi là “nhất tâm hệ Phật”.
Tiếng Phạn Tam Ma
Địa, Hán dịch là Đẳng Tŕ. Phàm phu có nhân ngă, thị
phi, cao thấp. Ly khai hết thảy phân biệt, chấp
trước chính là b́nh đẳng, tâm ta b́nh đẳng
chính là giống với chư Phật, Bồ Tát b́nh đẳng,
dùng tâm thanh tịnh b́nh đẳng có thể soi rơ vạn
pháp, đấy chính là trí huệ chân thật. Tâm b́nh đẳng
c̣n gọi là thiền định, cũng giống như
kinh Vô Lượng Thọ bảo là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Nói trên mặt Sự th́ gọi là Niệm Phật Tam
Muội, nói trên mặt Lư th́ gọi là Tự Tánh Phật.
Ngẫu Ích đại
sư nói: “Pháp môn niệm Phật, trọn chẳng có ǵ
là lạ lùng, đặc biệt cả, chỉ có tin tưởng
sâu xa, tận lực hành tŕ là cốt yếu mà thôi”. Phật
dạy: “Nhược nhân đản niệm Di Đà Phật,
thị danh vô thượng thâm diệu thiền” (Nếu
ai chỉ niệm đức Phật A Di Đà, đó gọi
môn thiền định sâu xa, mầu nhiệm vô thượng). Câu này lấy từ kinh Đại Tập.
Niệm Phật với tham thiền, xét về thành tựu
chẳng hai, chẳng khác. Ngài Thiên Thai nói: “Bốn thứ
tam-muội cùng có tên là Niệm Phật, nhưng Niệm Phật
Tam Muội là vua trong các tam-muội”, [những câu nói
như thế] đều là khen ngợi niệm Phật.
Liên Tŕ đại
sư nói: “Một câu Di Đà bao trùm tám giáo, thâu trọn
năm tông, cốt sao tin tới nơi, giữ cho ổn, thẳng
thừng mà niệm, thề chẳng biến đổi, sẽ
quyết định được văng sanh. Một khi
được văng sanh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển,
các thứ pháp môn đều được hiện tiền”.
Đại sư Liên Tŕ sống trong khoảng niên hiệu Vạn
Lịch đời Minh, thoạt đầu học Giáo, sau
đó tham Thiền, căn cơ Nho Gia lẫn Đạo Gia
đều thâm hậu, tuổi già chuyên tâm niệm Phật,
là tổ sư thứ tám của Tịnh tông. Liên Tŕ đại
sư nói: “Có thể thật sự niệm Phật, buông
thân tâm, thế giới xuống, chính là đại bố
thí. Chẳng khởi tham, sân, si nữa chính là đại tŕ
giới. Chẳng kể thị phi nhân ngă, chính là đại
nhẫn nhục. Chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp
chính là đại tinh tấn. Chẳng c̣n vọng tưởng
rong ruổi chính là đại thiền định. Chẳng
bị những ngă rẽ khác làm lầm lạc chính là đại
trí huệ”.
Luận đến Bố
Thí th́ Bố Thí rất trọng yếu đối với
việc tu hành. Tôi nghĩ nhân duyên học Phật của
chính ḿnh thật là tốt đẹp, toàn gặp gỡ những
bậc giỏi giang. Tôi học Phật năm hai
mươi sáu tuổi, trước tiên theo học với
thầy Phương Đông Mỹ, khi đă tiếp xúc với
kinh điển bèn bái phỏng Chương Gia đại
sư để thỉnh giáo. Lần gặp Ngài đầu
tiên, tôi chẳng biết lễ mạo ra sao, vừa chạm
mặt bèn hỏi ngay: “Đại Thừa Phật pháp rất
hay, có phương pháp nào hay ho để tôi mau chóng tấn
nhập chăng?” Ngài nh́n tôi, không nói một câu. Ngài nh́n
tôi, tôi cũng nh́n trả. Nh́n tôi độ chừng nửa
tiếng, Ngài buông một chữ: “Có”. Nói xong, không nói
thêm ǵ nữa.
Ước chừng
năm phút sau, Ngài lại nói: “Thấy rỗng toang, buông
xuống”. Toàn thể thân h́nh, thái độ của Ngài
đang ở trong Định. Tôi lại hỏi: “Bắt
đầu từ đâu để thực hiện?” Lại
đợi thật lâu sau, Ngài mới buông hai chữ “bố
thí”. Ngày đầu tiên gặp mặt, bấy nhiêu thời
gian chỉ nói có mấy câu. Sau cùng từ biệt, Ngài
đưa ra tận cửa, Ngài nói: “Hôm nay tôi nói cho ông sáu
chữ, hy vọng ông thực hiện trong sáu năm cho tốt”.
Về sau, thật sự tôi làm theo đúng lời Ngài nói.
Trong Lục Độ của Bồ Tát, Bố Thí đứng
đầu. Ǵ cũng buông xuống hết, Bồ Tát từ
sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, chỉ có mỗi
việc “Bố Thí” mà thôi.
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông Chương lược giảng hết
(Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa dịch xong ngày 07 tháng 08 năm 2004)
(1) Lục phàm: chỉ sáu cơi phàm trong mười pháp giới, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời.
(2) Tứ thánh: bốn bậc thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Hiểu theo nghĩa hẹp là bốn quả vị Thanh Văn: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
(3) Ở đây Ḥa Thượng mượn thuật ngữ “truy tầm long mạch” của thuật Địa Lư Phong Thủy để diễn tả ư: nắm chắc, truy t́m tận gốc, biết rành rẽ mọi hiện tượng, thấy được bản thể, hiểu thấu mọi hiện tượng lưu xuất từ bản thể.
(4) Tứ Gia Hạnh: tức là Noăn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn pháp, Thế Đệ Nhất pháp (theo từ điển Phật học của Đoàn Trung C̣n).
(5) Thất t́nh: bảy thứ t́nh cảm của con người: Hỷ (mừng), nộ (giận), ai (đau buồn), cụ (sợ), ái (yêu thích), ố (ghét), dục (muốn). Cũng có sách giảng là hỷ, nộ, ưu (lo lắng), tư (nghĩ ngợi), bi (thương xót), khủng (sợ sệt), kinh (hoảng hốt, sợ hăi).
(6) Tam Không: Ngă không (c̣n gọi là Nhân Không), Pháp Không, và Câu Không (ngă và pháp đều không). Duy Thức học c̣n lập ra ba thứ không khác, đó là: vô tánh không, dị tánh không và tự tánh không. Luận Hiển Dương Thánh Giáo lại đề xướng ba thứ không khác: vô thể không, viễn ly không và trừ khiển không. Thông thường, khi nói đến tam không, ta thường hiểu theo cách định nghĩa đầu tiên.
(7) Tam luân không tịch (c̣n gọi là tam luân thể không), tức là “thí không” (người thí thấy thân ḿnh vốn là không, đă biết là vô ngă nên không có tâm mong cầu phước báo), “thọ không” (không thấy có người nhận của bố thí, nên không khởi tâm kiêu mạn), và “thí vật không” (thể nhận bản chất các pháp là không, nên vật được dùng để bố thí cũng là không, không khởi tâm tham). Bố thí tam luân không tịch chính là nội dung của Bố Thí Ba-la-mật.
(8) Tướng Phần: thuật ngữ Duy Thức học chỉ ảnh tượng do các sự vật hữu vi và vô vi từ thế giới bên ngoài ảnh hiện vào tâm.
(9) Hưng cừ: Có người cho hưng cừ chính là củ nén bên ta, củ nhỏ có mùi hăng như tỏi, nhưng có sách lại bảo hưng cừ không phải là nén. Ngài Tịnh Không lại ghi chú là hành tây.
(10) Chức vụ Hồng Y Giáo Chủ (cardinal) bên Công Giáo, Tàu gọi là Chủ Giáo.