Phật Thuyết
Đương Lai Biến Kinh
Giảng Kư
佛說當來變經
講記
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Năm 1992 tại liên xă Đại Giác, Cựu Kim Sơn, Hoa Kỳ
Tâm Huệ ghi, Hàn Anh kiểm giảo
Kinh này
kinh văn không dài, nhưng rất khế cơ, có thể
nói là từ bộ kinh nhỏ này chúng ta có thể nhận ra
từ ba ngàn năm trước đây, đức Phật
đă sớm nh́n thấy t́nh trạng xă hội hiện tại.
Kinh này
mang tựa đề “Phật thuyết Đương
Lai Biến Kinh”. Giải thích đơn giản,“Đương
Lai” chỉ thời đại hiện tại của
chúng ta, “Biến” nghĩa là biến hóa, tức là nói hiện
tại con người biến hóa, thế giới biến
hóa, ngay cả Phật giáo cũng bị biến hóa, sau khi bị
biến hóa là tốt hay xấu? Người tu hành nên thành tựu
đạo nghiệp của chính ḿnh như thế nào
đây? Bản kinh này giảng đúng vào những vấn
đề thiết thân của chúng ta.
Bàn đến
chuyện thế giới biến hóa, phỏng chừng hai
mươi, ba mươi năm nay thật là dữ dội,
khó thể nói là cái thuyết “ngày thế giới tận
cùng” của Cơ Đốc Giáo đă xảy đến
hay chưa?
Bàn về
nhân tâm biến hóa, do hiện đại thông tin phát đạt,
quan sát nhân tâm mọi địa phương chẳng khó
khăn ǵ. Kinh dạy: “Y báo chuyển theo chánh báo”. “Chánh
báo” chỉ thân tâm của con người. “Y báo”
chỉ hoàn cảnh sanh hoạt. Hoàn cảnh xă hội hiện
tại an hay nguy hoàn toàn phụ thuộc vào tâm con người
nhân hậu hay tệ bạc. Từ cổ đến nay,
đă có những việc an hay nguy trong lịch sử làm chứng.
Xưa nay, trong nước, ngoài nước đều lấy
việc quán sát nhân tâm để suy lường cát - hung,
phước - họa; bởi thế, rất coi trọng
quan niệm luân thường, đạo lư. Thế nhưng
con người hiện đại chẳng màng đến những
quan niệm đạo đức đó nữa, mà lấy
chuyện tranh danh đoạt lợi làm chủ, bởi thế
đến nỗi xă hội chẳng an định.
Lại
xem trong Phật giáo, trong hai ngàn năm chẳng biến hóa lớn
lao chi lắm là v́ ǵn giữ được những tiêu chuẩn,
nguyên tắc. Kể từ mấy năm đề cao dân chủ
tự do gần đây, cường điệu tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, Phật giáo phải
đương đầu với những biến hóa chẳng
thể dự liệu trước được. Nếu
như chúng ta chẳng lắng ḷng quán sát và tư duy, sẽ
không có cách nào đối diện với những biến
thiên của xă hội hiện thực, chẳng biết tu
hành như thế nào? Trong bản kinh này, đức Phật
đă chỉ dạy cho chúng ta [nên làm như thế nào].
Chánh
kinh:
Văn
như thị: nhất thời, Phật tại Xá Vệ quốc,
Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ-kheo
chúng câu, tỳ-kheo ngũ bách cập chư Bồ Tát.
(Nghe
như thế này: một thời, đức Phật ở
nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc, cùng các đại tỳ-kheo nhóm họp,
năm trăm tỳ-kheo và các Bồ Tát).
“Văn
như thị” là câu văn được dùng trong giai
đoạn đầu của việc phiên dịch kinh
văn, nó cũng chính là “như thị ngă văn”. Trong
đoạn Tự Phần này, cũng có đủ sáu thứ
thành tựu giống như [các kinh khác]. “Văn như thị”
là Văn Thành Tựu. “Như thị” là Tín Thành Tựu.
“Nhất thời” là Thời Thành Tựu. “Phật”
là Chủ Thành Tựu. “Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc viên” là Xứ Thành Tựu. “Dữ đại
tỳ-kheo chúng câu. Tỳ-kheo ngũ bách cập chư Bồ
Tát” là Chúng Thành Tựu.
Địa
điểm đức Phật giảng kinh này và kinh A Di
Đà giống nhau. Trong lúc ấy có thường tùy chúng (2)
và Bồ Tát chúng hiện diện. Bởi thế, kinh này
không chỉ giảng riêng về pháp Tiểu Thừa mà là giảng
về căn bản tu hành cho cả pháp Đại Thừa
lẫn Tiểu Thừa.
Chánh
kinh:
Nhĩ
thời Thế Tôn cáo chư tỳ-kheo:
-
Đương lai chi thế, đương hữu tỳ-kheo,
nhân hữu nhất pháp bất tùng pháp hóa, linh pháp hủy diệt,
bất đắc trường ích. Hà vị vi nhất? Bất
hộ cấm giới, bất năng thủ tâm, bất tu
trí huệ, phóng dật kỳ ư, duy cầu thiện danh, bất
thuận đạo giáo, bất khẳng cần mộ
độ thế chi nghiệp. Thị vi nhất sự linh
pháp hủy diệt.
(Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn bảo các tỳ-kheo:
- Trong
đời tương lai, sẽ có tỳ-kheo nhân v́ có một
pháp chẳng thuận theo pháp giáo hóa, khiến cho pháp bị
hủy diệt, chẳng được lợi ích lâu dài.
Thế nào là một pháp? Chẳng giữ cấm giới, chẳng
thể giữ tâm, chẳng tu trí huệ, buông lung tâm ư, chỉ
cầu tiếng tốt, chẳng thuận đạo giáo,
chẳng chịu siêng năng, kính mộ sự nghiệp độ
đời. Đó là một sự khiến cho pháp bị hủy
diệt)
Đoạn
kinh này là đoạn thứ nhất của phần Chánh
Tông. Ư nghĩa của toàn bộ đoạn kinh này là lấy
ngay con người hiện đại để thuyết
pháp, cũng có thể nói nó là một loại dự ngôn. Nói
đơn giản, Phật bảo cùng các tỳ-kheo đang
hiện diện, trong tương lai sẽ có một hạng
tỳ-kheo do v́ chẳng tùy thuận giáo pháp của Phật
mà hoằng hóa, làm cho Phật pháp đi vào chỗ hủy diệt,
khiến cho những người y pháp tu học sẽ chẳng
thể đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Phật lại nêu lên sáu sự việc, bất cứ
sự việc nào cũng đủ làm cho chánh pháp bị hủy
diệt.
Thứ
nhất là “chẳng giữ giới cấm”, tức là
chỉ hạng người coi thường Giới Luật,
chẳng thể tŕ giới. Trong kinh nói: “Thiền là tâm Phật,
Giáo là ngôn ngữ của Phật, Giới Luật là hành tŕ
của Phật”. Nếu như vứt bỏ Giới Luật,
Thiền và Giáo thành chuyện bàn suông, Phật pháp chẳng
thể tồn tại trong thế gian. Nói đơn giản:
Một quốc gia phải nhờ vào pháp trị để ổn
định nhân tâm và duy tŕ trật tự xă hội an toàn. Giới
Luật của nhà Phật giống như pháp luật của
quốc gia, Phật giáo dùng Giới Luật để uốn
nắn thân tâm của đệ tử Phật. Giới Luật
lại giống như những lễ tiết do Khổng,
Mạnh đề xướng trong Nho Giáo. Lễ tiết
là căn bản, một khi bỏ lễ tiết đi chính
là đánh mất căn bản, c̣n bàn chi chuyện học
đạo nữa! Giới giống như Lễ, đều
là căn bản. Học Phật mà buông bỏ căn bản,
c̣n bàn chi chuyện khai hoa kết quả?
V́ sao nói
Giới là căn bản của việc học Phật? Phật
pháp bất luận là Tiểu Thừa hay Đại Thừa,
đều kiến lập trên cơ sở ba Vô Lậu Học
Giới - Định - Huệ. Có giữ Giới th́ Định
mới có thể phát sanh, nhân Định mà khai Huệ. Mục
tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ.
Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do
tâm thanh b́nh đẳng mà có, nhưng chỉ có tŕ giới
th́ mới có thể khiến cho tâm thanh tịnh, b́nh đẳng.
Tinh thần của Giới Luật chính là như tổ Ấn
Quang đă dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng
làm các điều thiện”. Thiện hay ác chỉ trong một
niệm tâm; trừ sạch phân biệt, vọng tưởng,
chấp trước, tâm thanh tịnh sẽ tự nhiên hiện
tiền. Cơi ḷng thanh tịnh ắt trí huệ mở rộng.
Đức Phật hoàn toàn do sự việc này mà xuất thế;
bởi thế Giới Luật mang tánh chất trọng yếu
là do đây.
Thứ
hai, “chẳng thể giữ tâm”: hết thảy pháp
đều do tự tâm biến hiện ra, tâm thiện th́ vạn
pháp đều thiện, tâm ác th́ vạn pháp đều ác.
Xă hội hiện tại thoạt nh́n tưởng là tiến
bộ, nhưng thật ra suy thoái rất nhiều. Bởi lẽ,
trước kia mọi người sanh sống an cư lạc
nghiệp, c̣n thế giới hiện tại nơi nào cũng
động loạn, nguyên nhân là do con người hiện tại
tâm chẳng thuần hậu, chẳng màng đạo
nghĩa, chỉ quan tâm đến lợi hại, phải
có lợi cho ḿnh mới thành bè bạn, kẻ nào bất lợi
cho ḿnh liền thành địch nhân. Ai nấy chẳng giữ
lấy cái tâm lành, sao xă hội an ổn cho được?
Bậc thánh nhân thời cổ là Mạnh Tử đă nói: “Học
vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ”
(đạo học vấn không có ǵ khác, cốt sao phóng tâm
mà thôi!). Ư Ngài nói: Cái đạo cầu học chỉ cốt
sao thâu hồi vọng tưởng tạp niệm, cũng
giống như kinh Di Đà dạy “nhất tâm bất loạn”.
Thứ
ba, “chẳng tu trí huệ”: Tương phản của
trí huệ là ngu si. Người ngu si chẳng biết ḿnh
ngu si, suốt ngày điên đảo loạn tưởng;
chân - giả, tà - chánh chẳng phân, thường coi tà pháp là
chánh pháp, tưởng chánh pháp là tà pháp, đáng thương
vô cùng! Có hai phương pháp tu trí huệ: Một là Thiền
Định (tham thiền); hai là như bên Giáo nói “đọc
tụng kinh điển Đại Thừa”. Đọc
tụng kinh điển Đại Thừa th́ cũng phải
hiểu mới lănh hội được; nếu không, vẫn
rớt vào ngu si như cũ. Đọc kinh cũng giống
hệt như Thiền Định, chuyên tu tâm thanh tịnh.
Tụng kinh phải giống như lấy đá đè cỏ,
phải từng chữ phân minh, lúc tụng kinh chẳng
được suy lường lung tung ư nghĩa kinh văn.
Nếu như vọng niệm có hiện tiền, đừng
quan tâm ǵ đến nó, cứ tiếp tục đọc tụng,
trừ khử vọng tưởng, chấp trước,
chẳng nghiên cứu thảo luận, đợi khi nào trí
huệ hiện tiền, tự nhiên bản tánh quang minh hiển
phát.
Thứ
tư là “buông lung tâm ư”: tức là như thế nhân nói “chạy
theo ḷng ham muốn trong tâm”. Nói đơn giản là các vọng
niệm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi khởi lên tác dụng trong
tâm.
Thứ
năm là “chỉ cầu tiếng tốt”: tức là
như người đời thường nói “nâng cao mức
độ người khác biết đến tên ḿnh”. T́nh
h́nh Phật giáo hiện tại cũng có biến chuyển,
hiện thời có Phật giáo mang h́nh thức tôn giáo, Phật
giáo mang tánh chất học thuật, Phật giáo tà giáo, và Phật
giáo mang h́nh thức truyền thống. Trước mắt
c̣n phát hiện một loại Phật giáo phô trương hoa
mỹ, quảng cáo ầm ĩ, có những hoạt động
bon chen cùng thời đại, bày vẽ náo nhiệt, mười
phần săn đón hiện đại hóa, trọn chẳng
có nội dung Phật giáo chân chánh. Đây cũng là một hiện
tượng trong đời loạn vậy.
Thứ
sáu là “chẳng thuận đạo giáo, chẳng siêng
năng, kính mộ sự nghiệp độ đời”:
Câu này chỉ những tỳ-kheo hoằng pháp chẳng tuân lời
Phật dạy dỗ mà tu hành, chỉ là tu hành ngoài cửa miệng,
thân hạnh chẳng tu. “Siêng năng, kính mộ sự
nghiệp độ đời” nghĩa là người
tu hành ngưỡng mộ Phật pháp, thực hiện sự
nghiệp tự lợi, lợi tha. Thế nhưng người
tu hành trong thời Mạt Pháp, đạo tâm tu hành chẳng
kiên định, chẳng tin vào thiện căn của chính
ḿnh, bỏ phế sự nghiệp tự độ và hóa
độ chúng sanh, đáng tiếc vô cùng, khiến cho Phật
pháp càng thêm đọa lạc.
Dưới
đây là đoạn kinh văn thứ hai trong phần Chánh
Tông. Phật bảo các hàng tỳ-kheo, c̣n có hai sự kiện
khiến cho Phật pháp bị hủy diệt.
Chánh
kinh:
Phật
cáo tỳ-kheo:
- Phục
hữu nhị sự, linh pháp hủy diệt, hà vị vi nhị?
Nhất,
bất hộ cấm giới, bất nhiếp kỳ tâm, bất
tu trí huệ, súc thê dưỡng tử, phóng tâm tứ ư, cổ
tác trị sanh, dĩ cộng tương hoạt.
Nhị, bạn
đảng tương trước, tắng phụng pháp
giả, dục linh hăm đọa, cố vi ngôn nghĩa, vị
chi du siểm, nội phạm ác hạnh, ngoại dương
thanh bạch.
Thị
vi nhị sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật
bảo tỳ-kheo:
- Lại
có hai sự khiến pháp hủy diệt, những ǵ là hai?
Một:
chẳng giữ cấm giới, chẳng nhiếp tâm ư, chẳng
tu trí huệ, chứa vợ nuôi con, buông lung tâm ư, buôn bán kiếm
lợi để cùng chung sống)
Hai: đắm
chấp bè đảng, ghét kẻ kính pháp, muốn cho kẻ
ấy bị hăm đọa, cố làm [ra vẻ] nói năng
tốt lành, thật ra là dua dối, siểm nịnh. Trong phạm
ác hạnh, ngoài giả vờ thanh bạch.
Đấy là hai sự
khiến pháp hủy diệt).
Thứ nhất là “chẳng
giữ cấm giới, chẳng nhiếp tâm ư (chẳng thể
giữ tâm), chẳng tu trí huệ”: Ở trên đă giải
thích rồi, ở đây chẳng cần phải nhắc lại
nữa.
“Nuôi con chứa vợ”: trong thời kỳ Mạt Pháp, người
xuất gia bèn nuôi dưỡng vợ con. Trước kia,
trong thời kỳ Duy Tân dưới đời Minh Trị
Thiên Hoàng ở Nhật Bản, v́ chánh sách quốc gia,
người xuất gia nhất định phải lấy
vợ sanh con rồi sau đó mới được phép xuất
gia. Đến nay, ngoại trừ những vị tăng
khổ hạnh trên núi cao, những người xuất gia dưới
đồng bằng của Nhật Bản đại đa
số đều có gia đ́nh.
“Phóng tâm tứ ư” (buông lung tâm ư) giống như câu “phóng
dật kỳ ư” [ở phần trên].
“Buôn bán kiếm lợi
để cùng chung sống”:
chỉ người xuất gia hiện thời tâm chẳng
hướng đến đạo, sanh sống chẳng nhờ
vào hai chúng tại gia cúng dường, bọn họ cũng
có các cách kiếm lợi, hành vi chẳng đúng pháp như
thế đó, tâm chẳng an trụ nơi đạo, nên
càng chẳng thể thanh tịnh.
Thứ hai là “đắm
chấp bè đảng”: chỉ người xuất gia
chia phe, chia đảng, tạo ra những tổ chức nhỏ,
đoàn thể nhỏ, bài xích những con người, những
sự vật xung đột với quyền lợi của
chính ḿnh.
“Ghét người kính
pháp”: phàm những ai tu hành
chân chánh bèn nghĩ cách bài xích họ, chẳng ủng hộ,
tạo đủ mọi chướng ngại.
“Cố làm ra vẻ
nói năng tốt lành, thật ra là dua dối, siểm nịnh”: Những kẻ đó có thể nói lời
tốt lành, chuyên môn săn đón bợ đỡ người,
ngoài miệng nói nghe rất hay. Người chẳng hiểu
rơ, tưởng câu nào cũng tốt lành cả, rốt cuộc
bị họ lừa dối, mắc hại. Thiện tri thức
chân chánh th́ xử thế, đăi người, tiếp vật,
thái độ hoàn toàn chẳng giống với bọn họ.
Phàm những bậc thiện tri thức khuyên đời, những
lời nói ra đều là “trung ngôn nghịch nhĩ” (lời
thật chối tai), thế mà người đời cứ
thích nghe lời dối gạt, chẳng thích nghe khuyên nhủ.
“Trong phạm hạnh,
ngoài giả vờ thanh bạch”: Câu kinh này ư nói có hạng người xuất gia làm
ra vẻ đạo mạo nghiêm nghị, bề ngoài giả
vờ như rất đúng pháp, trang nghiêm hệt như Phật,
như Bồ Tát, c̣n bên trong th́ tư tưởng, kiến
giải, hành vi, thậm chí c̣n kém hơn cả người
ngoài đời. Hai điều nói trên là hai yếu tố
khiến cho Phật pháp hủy diệt.
Chánh kinh:
Phật cáo chư
tỳ-kheo:
- Phục hữu
tam sự linh pháp hủy diệt, hà vị vi tam?
Nhất,
kư bất hộ cấm giới, bất năng nhiếp
tâm, bất tu trí huệ.
Nhị,
tự độc văn tự, bất thức cú đậu,
dĩ thượng trước hạ, dĩ hạ trước
thượng, đầu vĩ điên đảo, bất
năng giải liễu nghĩa chi sở quy, tự dĩ
vi thị.
Tam, minh
giả ha chi, bất tùng kỳ giáo, phản hoài sân hận,
vị tương tật đố, thức nghĩa giả
thiểu, đa bất biệt lư, hàm vân vi thị.
Thị
vi tam sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật
bảo các tỳ-kheo:
- Lại
có ba sự khiến pháp hủy diệt, những ǵ là ba?
Một,
đă chẳng giữ cấm giới th́ chẳng thể
nhiếp tâm, chẳng tu trí huệ.
Hai, tự
đọc văn tự, chẳng biết chấm câu,
đem trên đặt xuống dưới, lấy dưới
đặt lên trên, đầu đuôi điên đảo, chẳng
thể hiểu nghĩa lư trọn vẹn đi về
đâu, tự cho là đúng.
Ba,
người sáng suốt quở trách, chẳng tuân lời dạy,
ngược lại sân hận, bảo là [kẻ ấy] ghen
ghét. Người biết nghĩa th́ ít, đa số chẳng
phân biệt được, đều cho là đúng.
Đó là
ba sự khiến pháp hủy diệt)
Đoạn
kinh này là đoạn thứ ba của phần Chánh Tông. Phật
nói có ba sự việc có thể khiến cho Phật pháp
trong thế gian này dần dần bị hủy diệt mất.
Thứ
nhất là “đă chẳng giữ cấm giới th́ chẳng
thể nhiếp tâm, chẳng tu trí huệ”: ở phần
trên đă giải thích, ở đây chẳng cần phải
nhắc lại.
Thứ
hai, “tự đọc văn tự, chẳng biết chấm
câu, đem trên đặt xuống dưới, lấy
dưới đặt lên trên, đầu đuôi điên
đảo, chẳng thể hiểu nghĩa lư trọn vẹn
đi về đâu, tự cho là đúng”: Câu này ư nói: Đối
với học vấn thế gian, tŕnh độ văn học
chẳng giỏi, bèn đem những dấu chấm, dấu
phẩy… trong văn chương ra sử dụng sai lầm,
khiến câu cú trên dưới chẳng thuận, tự phân
đoạn để hiểu nghĩa, chẳng phù hợp
với ư gốc của nguyên văn.
Nói theo
phương diện học Phật, kinh điển nhà Phật
bất luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều
từ Chân Như Bản Tánh của đức Phật mà
phát huy, lưu xuất. Dù so với cổ văn Trung Quốc,
văn tự của những kinh Phật đă được
phiên dịch dễ đọc hơn nhiều, nhưng những
nghĩa lư sâu thẳm trong ấy tuyệt đối chẳng
dễ ǵ thể hội được. Bởi thế,
chúng sanh thời Mạt Pháp trí huệ cạn mỏng, rất
dễ hiểu sai lệch nghĩa kinh, chẳng thể chấm
câu, ngắt mạch phân minh, thường đọc sai câu
văn, câu trước chẳng phù hợp câu sau, đầu
đuôi điên đảo, chẳng thể hiểu rơ triệt
để ư nghĩa kinh, rồi tự cho ḿnh là đúng, lại
c̣n dạy lầm người khác, hậu quả rất đáng
lo ngại!
Thứ
ba là “người sáng suốt quở trách, chẳng tuân lời
dạy, ngược lại sân hận, bảo là [kẻ ấy]
ghen ghét. Người biết nghĩa th́ ít, đa số chẳng
phân biệt được, đều cho là đúng. Đó
là ba sự khiến pháp hủy diệt”: Trong thời kỳ
Mạt Pháp, có thể thành tựu đạo nghiệp của
chính ḿnh hay không là do có hiểu được một đoạn
kinh văn [hay không?] Đoạn kinh văn này ư nói: Người
minh tâm kiến tánh hoặc là người tâm địa
quang minh, trông thấy hành nhân đi lầm đường,
do hảo ư bèn chỉ dạy cho, nhưng đối
phương chẳng những không nghe, chẳng thể tuân
phục sửa đổi cho đúng, trái lại c̣n ôm ḷng
ghen ghét, căm hận, thậm chí c̣n mưu toan hăm hại
thiện tri thức. Rất nhiều người chẳng
biết nghĩa chân thật của đức Như Lai
đă nói, đối với sai lầm đó chẳng thể
phân biệt, thường lẫn lộn điên đảo
thiện - ác. Người ta nói vậy th́ cũng hùa theo quần
chúng, ngược ngạo thừa nhận những ǵ sai lầm
là đúng, ủng hộ kẻ tri kiến bất chánh, lợt
lạt, xa ĺa thiện tri thức, kết quả là tạo
thành nghiệp nhân ba ác đạo.
Ba điều
trên đây tuy chưa làm cho Phật pháp bị đoạn diệt
trên thế gian này, nhưng làm cho Phật giáo bị biến
chất. Trước đây, thầy Lư Bỉnh
Chánh
kinh:
Phật
cáo chư tỳ-kheo:
- Phục
hữu tứ sự linh pháp hủy diệt, hà vị vi tứ?
Nhất,
tương lai tỳ-kheo dĩ xả gia nghiệp, tại
không nhàn xứ, bất tu đạo nghiệp.
Nhị,
hy du nhân gian, hội náo chi trung, hành lai đàm ngôn, cầu hảo
ca-sa, ngũ sắc chi phục.
Tam, cao
thính viễn thị, dĩ vi ỷ nhă, tự dĩ cao đức,
vô năng cập giả, dĩ tạp toái trí, tỷ nhật
nguyện chi minh súc dă.
Tứ, bất nhiếp
tam sự, bất hộ căn môn, hành phụ nữ gian,
tuyên văn sức từ, đa ngôn ngẫu hợp, dĩ
động nhân tâm, sử thanh biến trược, thân hạnh
hoang loạn, chánh pháp phế tŕ.
Thị
vi tứ sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật
bảo các tỳ-kheo:
- Lại
có bốn sự khiến pháp hủy diệt, những ǵ là
bốn?
Một,
trong tương lai tỳ-kheo đă bỏ gia nghiệp, ở
chỗ nhàn vắng chẳng tu đạo nghiệp.
Hai,
ưa thích dạo chơi những chỗ náo nhiệt trong
nhân gian, qua lại tṛ chuyện, cầu ca-sa tốt, y phục
năm màu.
Ba, nghe
cao nh́n xa, cho là khéo nhă, tự cho là đức độ cao
trọng, không ai bằng được, tự đem cái
trí tạp nhạp sánh cùng ánh sáng mặt trời, mặt
trăng.
Bốn, chẳng nhiếp
ba sự, chẳng giữ căn môn, xen lộn phụ nữ,
nói lời bóng bẩy, hay nói ve vuốt đón ư để lấy
ḷng người, biến trong thành đục, thân hạnh
hoang loạn, bỏ phế chánh pháp.
Đó là bốn sự
khiến pháp hủy diệt)
Đoạn
kinh này quá nửa là phê phán người xuất gia, thuộc
đoạn thứ tư trong phần Chánh Tông. Phật bảo
các tỳ-kheo: “Trong tương lai có bốn sự việc
sẽ khiến cho Phật pháp hủy diệt”.
Thứ
nhất, “trong tương lai tỳ-kheo đă bỏ gia
nghiệp, ở chỗ nhàn vắng chẳng tu đạo
nghiệp”. Điều quan trọng nhất ở đây
là “ở chỗ nhàn vắng”. Câu này không có nghĩa là
phải xa ĺa đô thị, t́m vào núi hoang, chỗ không một
bóng người để tu hành, cũng chẳng có
nghĩa là chơi không nhàn rỗi, mà chính là ngày nay chúng ta sống
trong xă hội làm việc mưu sinh, khi nào xong việc khi
đó là “nhàn vắng”. Người xuất gia v́ bị công
việc tại gia phiền nhiễu, bèn phát tâm xuất gia,
chứ không phải muốn t́m nơi nhàn rỗi. Xuất
gia có công việc của người xuất gia. Bởi thế,
người xuất gia phải dùng những lúc nhàn rỗi
để tu hành tập đạo. Câu này nói đơn giản
có nghĩa là: “Trong tương lai, các tỳ-kheo bỏ những
sự nghiệp kinh doanh kiếm sống của đời
tại gia đi xuất gia, nhưng chẳng tu đạo,
chẳng tu hành, chẳng gánh vác gia nghiệp của Như
Lai, bỏ lỡ quang âm”.
V́ sao nói
chẳng tu đạo nghiệp? Tông chỉ giáo dục của
đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là nhằm làm
cho chúng ta nhận thức được chân tướng của
nhân sanh vũ trụ. “Vũ trụ” chỉ hoàn cảnh sanh
sống của chúng ta; “nhân sanh” chỉ chính ḿnh. Chúng ta tu
hành là tu đến khi tự ḿnh giác ngộ, đó là chân tu
hành; ngược lại là mê hoặc điên đảo. Mục
đích xuất gia tu hành là học theo đức năng,
giác đạo của Phật, chẳng mê hoặc, điên
đảo, thực sự hiểu chân tướng của
nhân sanh, vũ trụ. Ai có thể tự ngộ, ngộ
được Thật Tướng của các pháp, th́ lục
căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần sẽ chẳng
bị cảnh giới xoay chuyển, tâm địa thanh tịnh,
một dạ hướng về đạo, tự nhiên
gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, làm công
tác hoằng pháp lợi sanh. Đấy là đạo nghiệp
người xuất gia nên tu, điều người xuất
gia phải làm là tu hành, hoàn toàn chẳng phải là phế bỏ
sự thế gian, đến chùa viện mong cầu nhàn hạ
thanh tịnh, bỏ uổng quang âm.
Thứ
hai, “ưa thích dạo chơi những chỗ náo nhiệt
trong nhân gian, qua lại tṛ chuyện, cầu ca-sa tốt, y
phục năm màu”: Đây là hiện tượng thứ
năm “Phật giáo phô trương hoa mỹ” trong Phật
giáo hiện tại, hoàn toàn trái nghịch lời Phật
răn dạy. Như các pháp hội giảng kinh, chú tâm bày vẽ
hoa lệ, chưng dọn đạo tràng đẹp đẽ,
choáng lộn, không có chút khí phận thanh tịnh trang nghiêm nào;
thậm chí rải hoa, ca xướng v.v... hội trường
thiết kế giống như sân khấu tŕnh diễn, bày
ra những kiểu chẳng tự nhiên, xem không giống ai
cả. Người xuất gia cầu ca-sa mỹ lệ.
Tác pháp như vậy khiến thế nhân trong tương
lai chẳng c̣n tôn kính người xuất gia nữa.
Thứ
ba, “nghe cao nh́n xa, cho là khéo nhă, tự cho là đức
độ cao trọng, không ai bằng được, tự
đem cái trí tạp nhạp sánh cùng ánh sáng mặt trời,
mặt trăng”. Đây là nói về ngạo mạn, tự
ḿnh ngạo nghễ, coi thường hết thảy,
đem thế trí biện thông sánh với trí huệ chân thật
của chư Phật, Bồ Tát, thậm chí cho rằng
chư Phật, Bồ Tát cũng không bằng được
ḿnh. Có kẻ c̣n nói quá đáng: “Kinh điển đều
chẳng thể nhờ cậy được”, khác nào chính
họ đă thật sự thành tiên, thành Phật rồi; bởi
thế phải soạn kinh mới, cho rằng kinh điển
cũ đều đáng bị đào thải. Đây chẳng
những làm cho pháp bị hủy diệt, mà c̣n là đẩy
nhanh tốc độ hủy diệt pháp.
Thứ
tư, “chẳng nhiếp ba sự, chẳng giữ
căn môn, xen lộn phụ nữ, nói lời bóng bẩy,
hay nói ve vuốt đón ư để lấy ḷng người,
biến trong thành đục, thân hạnh hoang loạn, bỏ
phế chánh pháp. Đấy là bốn sự khiến pháp hủy
diệt”.
“Chẳng nhiếp ba
sự” là chẳng giữ
ǵn ba nghiệp thân, ngữ, ư. “Chẳng giữ ǵn căn
môn” là chẳng giữ ǵn sáu căn. Hai câu trên nói gộp
lại chính là ư “chẳng giữ Giới Luật” đă
nói ở phần trên, chẳng giữ quy củ, thậm chí
ngay đến cả lễ pháp thế gian cũng chẳng
đoái hoài.
“Xen lộn phụ nữ,
nói lời bóng bẩy, hay nói ve vuốt đón ư để lấy
ḷng người, biến trong thành đục, thân hạnh
hoang loạn, bỏ phế chánh pháp”: Trong đoạn này, so ra câu chẳng dễ
hiểu là câu “đa ngôn ngẫu hợp” (hay nói ve vuốt
đón ư). Kinh này được dịch vào thời Nam Bắc
Triều, cách đời Hán không xa lắm. Đương
thời, chữ “ngẫu” là một thuật ngữ rất
phổ thông, có nghĩa là “hoa ngôn xảo ngữ đón
trước ư người”, nghĩa là nói năng rất
khéo. Khéo nói ở đây chẳng giống với “ái ngữ”
trong Tứ Nhiếp Pháp của nhà Phật; Tứ Nhiếp
Pháp lấy trí huệ làm cơ sở. Nói cách khác, người
xuất gia chẳng dạy người khác tu hành chánh pháp, trái
lại, quyến dụ người hành tà đạo, chẳng
phải là chuyện tốt lành ǵ.
Tóm lại, đoạn
kinh này có nghĩa là người xuất gia chẳng tuân thủ
Giới Luật, quy củ; nhất là trong thời đại
ngôn luận tự do xuất bản, kiến giải,
tư tưởng hỗn loạn hiện thời, càng chẳng
thể kiến lập Lục Ḥa Kính, Tăng đoàn chẳng
ḥa mục, đánh mất công năng giáo hóa chúng sanh, b́nh nhật
thường xen tạp với phụ nữ chẳng chút
kiêng dè, nói năng chẳng trung thực, chỉ chuộng
văn từ hoa lệ, đón ư người nghe, chẳng
hoằng dương chánh pháp. Ngược lại c̣n làm những
sự việc hoang loạn thân tâm như thế đó, trái
nghịch pháp thanh tịnh, đi vào chỗ hỗn độn,
ô trược. Nếu như có bốn sự việc đó
th́ Phật pháp trong thế gian dù c̣n giữ được
h́nh thức, đă chẳng c̣n thực chất hoặc
đă bị biến chất rồi.
Chánh kinh:
Phật cáo tỳ-kheo:
- Phục hữu
ngũ sự, linh pháp hủy diệt, hà vị vi ngũ?
Nhất, hoặc hữu
tỳ-kheo, bổn dĩ pháp cố, xuất gia tu đạo,
phế thâm kinh giáo, thập nhị nhân duyên, tam thập thất
phẩm, Phương Đẳng thâm diệu huyền
hư trí huệ, trí độ vô cực, thiện quyền
phương tiện, không, vô tướng nguyện, chí hóa
chi tiết.
Nhị, phản tập
tạp cú thiển mạt tiểu kinh, thế tục hạnh
cố, vương giả kinh điển loạn đạo
chi nguyên, háo giảng thử nghiệp, dị giải thế
sự, thú đắc nhân tâm, linh kỳ hoan hỷ, nhân trí
danh văn.
Tam, tân văn pháp
nhân, thiển giải chi sĩ, ư dụng diệu quyết,
thâm đạt chi sĩ, bất dụng vi giai.
Tứ, thiên long quỷ
thần bất dĩ vi hỷ, tâm hoài ấp thích, khẩu
phát tư ngôn: “Đại pháp dục diệt, cố sử
kỳ nhiên, xả diệu pháp hóa, phản tuyên tạp cú”.
Chư thiên lưu lệ, tốc thệ nhi khứ.
Ngũ, do thị
chánh pháp sảo sảo kiến xả, vô tinh tu giả.
Thị vi ngũ sự,
linh pháp hủy diệt.
(Phật bảo tỳ-kheo:
- Lại có năm sự
khiến pháp hủy diệt. Những ǵ là năm?
Một, hoặc là có
tỳ-kheo vốn v́ pháp nên xuất gia tu đạo, bỏ
kinh giáo sâu, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm,
trí huệ huyền hư thâm diệu của Phương
Đẳng, trí độ vô cực, thiện quyền
phương tiện, không, vô tướng nguyện, ngay đến cả lễ
tiết giáo hóa.
Hai, trái lại tu tập
những kinh nhỏ nhoi, nhánh lá, nông cạn, những câu tạp
nhạp, những hạnh thế tục, nên để kinh
điển của hàng Vương Giả làm loạn nguồn
đạo, thích giảng những sự nghiệp, những
việc đời dễ hiểu đó cốt lấy ḷng
người khiến họ hoan hỷ, nhân đó có
được danh văn.
Ba, người mới
nghe pháp, kẻ hiểu biết kém, tưởng đó là bí
quyết mầu nhiệm, bậc thông đạt sâu xa chẳng
cho là hay.
Bốn, trời, rồng,
quỷ thần chẳng coi đó là vui, trong ḷng buồn bực,
miệng nói như thế này: “Đại pháp sắp diệt
nên đến nỗi như thế, bỏ việc giáo hóa
diệu pháp, trái lại tuyên nói những câu tạp nhạp”.
Chư thiên đẫm nước mắt, nhanh chóng bỏ
đi.
Năm, do vậy pháp
dần dần thấy bị bỏ phế, không người
tinh ṛng tu tập.
Đó là năm sự
khiến pháp hủy diệt)
Đây là đoạn cuối
cùng trong phần Chánh Tông. Phật bảo các tỳ-kheo lại
có năm sự khiến pháp bị hủy diệt.
Thứ nhất, “hoặc
là có tỳ-kheo vốn v́ pháp nên xuất gia tu đạo, bỏ
kinh giáo sâu, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm,
trí huệ huyền hư thâm diệu của Phương
Đẳng, trí độ vô cực, thiện quyền
phương tiện, không, vô tướng nguyện, ngay
đến cả lễ tiết giáo hóa”. Đoạn này
ư nói có những tỳ-kheo phát tâm chân chánh xuất gia, khó có
vô cùng, nhưng bọn họ vứt bỏ những kinh
điển sâu rộng chẳng học, chỉ xem những
văn tự thô thiển, hoặc là những cuốn Phật
Học Khái Luận, Phật Học Nhập Môn… do người
hiện thời biên soạn, càng xem càng thích học văn Bạch
Thoại, c̣n kinh điển nguyên văn xem chẳng hiểu
th́ chẳng chịu tích cực thâm nhập, t́m hiểu. Ngược
lại, đối với Thập Nhị Nhân Duyên, Ba
Mươi Bảy Đạo Phẩm, kinh điển
Phương Đẳng v.v… là những pháp điển trí
huệ cao sâu, thiện xảo tột bậc, thiện quyền
phương tiện, họ chẳng thèm nghiên cứu kỹ,
chẳng phát nguyện học tập, để thành người
xuất gia thật sự thông đạt Phật pháp.
Thứ hai, “trái lại
tu tập những kinh nhỏ nhoi, nhánh ngọn, nông cạn,
những câu tạp nhạp, những hạnh thế tục,
nên để kinh điển của hàng vương giả
làm loạn nguồn đạo, thích giảng những sự
nghiệp, những việc đời dễ hiểu đó,
cốt lấy ḷng người khiến họ hoan hỷ,
nhân đó có được danh văn”. Câu này ư nói người
xuất gia chẳng học kinh giáo, hoàn toàn dùng văn
chương, tạp chí, báo chí v.v… của người hiện
tại làm tài liệu giảng dạy. Ở đây, chữ
“vương giả” chẳng chỉ nhân vương
mà là chỉ Ma Vương. Ma Vương muốn phá hoại
Phật pháp, nhân vương dạy người tu Thập
Thiện, duy tŕ xă hội an toàn. Văn chương do
người hiện tại soạn ra chính là phá hoại Phật
pháp, chỉ nhằm mục đích cầu danh văn, lợi
dưỡng, chẳng nhằm hoằng pháp lợi sanh. Bởi
thế, nội dung toàn là bàn nói chuyện thế gian, cốt
sao vừa ḷng người, ve vuốt đại chúng để
được yêu thích, không ǵ chẳng phải là gây tạo
nghiệp nhân ba ác đạo, sao sánh nổi với nghĩa
thú chân thật của kinh Phật cho được?
Thứ ba, “người
mới nghe pháp, kẻ hiểu biết kém, tưởng
đó là bí quyết mầu nhiệm, bậc thông đạt
sâu xa chẳng cho là hay”. Có những người theo
đuổi sự nghiệp giáo dục, tŕnh độ giáo
dục hơn mức cao đẳng, văn chương chủ
yếu dùng những câu dễ hiểu, nông cạn, rơ ràng;
người hiện thời xem đến những văn
chương trước tác đó có thể lănh hội
được ngay. Nhưng những ngôn luận, văn tự
ấy đều là tác dụng của tâm ư thức, chuyên vận
dụng khéo léo những chuyện nhân - ngă, thị - phi cốt
sao người đọc khoái ư, so với kinh Phật khác
biệt một trời một vực. Hễ càng đọc
nhiều những truyền thuyết văn tự chẳng
chánh đáng, càng thêm dễ mê hoặc, điên đảo. Nếu
đọc tụng kinh điển Đại Thừa, ắt
sẽ hỗ trợ khai ngộ. Tuy vậy, kinh điển
thâm áo khó hiểu, khi đọc thuần thục sẽ tự
nhiên chứng nhập cảnh giới. Như thường
nói: “Kinh thư bất yếm bách hồi độc”
(kinh sách chẳng ngại đọc lại trăm lần),
đọc kinh có thể tu Tam Học Giới - Định
- Huệ, trừ khử chấp trước, phân biệt, vọng
tưởng. Hễ là bậc thông đạt đều hiểu
sâu sa đạo lư này, đương nhiên đối với
những sách tạp nhạp, văn chương thiển cận,
họ chẳng xem là hay.
Thứ tư, “trời,
rồng, quỷ thần chẳng coi đó là vui, trong ḷng buồn
bực, miệng nói như thế này: “Đại pháp sắp
diệt nên đến nỗi như thế, bỏ việc
giáo hóa diệu pháp, trái lại tuyên nói những câu tạp nhạp”.
Chư thiên đẫm nước mắt, nhanh chóng bỏ
đi”. Các vị trời, rồng hộ pháp quỷ thần,
Bồ Tát v.v…đều giống đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, trông thấy hiện tượng này, đều vô
cùng đau khổ, ứa nước mắt, chẳng ai
không than thở. Tà tri tà kiến nhiễu loạn sự
thanh tịnh của thế nhân, nhiễu loạn thế
gian, hủy diệt Phật pháp. Thánh nhân có nói: “Quốc
chi tương vong, tất xuất yêu nghiệt” (nước
nhà sắp mất, yêu nghiệt ắt hiện); Phật pháp
sắp diệt cũng vậy, tà tri tà kiến, yêu ma quỷ
quái nhất định xuất hiện nhiễu loạn thế
gian, hủy diệt Phật pháp. Nếu chúng ta là những kẻ
hộ pháp nơi cửa Phật, chẳng thể đại
lực hộ tŕ hoằng dương chánh pháp; trái lại vứt
bỏ sự nghiệp hoằng pháp giáo hóa chúng sanh, tán đồng
những ngôn luận, tạp chí thô thiển ấy, khiến
chánh pháp diệt vong nhanh hơn, khiến cho thiên long hộ
pháp đều đẫm nước mắt rời bỏ
chúng ta.
Thứ năm, “do vậy
pháp dần dần thấy bị bỏ phế, không người
tinh ṛng tu tập”. Do chúng ta chẳng biết thị - phi,
thiện - ác, tà - chánh, điên đảo lầm loạn đến
nỗi những hiện tượng ấy dần dần
khuếch tán toàn thế giới, do sai lâu ngày chất chứa,
đại chúng coi đó là đúng, cũng không cách nào nhận
biết Phật pháp chân chánh, rất khó kiếm được
người thật sự tinh ṛng tu tập.
Đoạn kinh văn
tiếp theo đây vô cùng trọng yếu, phần trên là Phật
dạy chúng ta nhận thức hoàn cảnh, phần dưới
Phật dạy các tỳ-kheo nên tu hành như thế nào mới
chẳng đến nỗi phạm lỗi khiến chúng
sanh bị lầm lạc. Nếu chúng ta có thể nghe theo lời
Phật dạy dỗ, thật sự sửa đổi những
lỗi lầm trước kia, th́ cũng có thể gọi
là “tu tŕ”. Biết lỗi liền sửa là một biểu
hiện của trí huệ trong nhà Phật. Giờ đây
chúng ta hăy nghe những lời Phật răn dạy, đó
cũng là lời tổng kết cho phần Chánh Tông.
Chánh kinh:
Phật cáo tỳ-kheo:
- Ngô diệt độ
hậu, hữu thử tà sự thập ngũ chi loại,
linh pháp hủy diệt, nhất hà thống tai.
(Phật bảo tỳ-kheo:
- Sau khi ta diệt
độ, có mười lăm loại tà sự như thế
khiến pháp bị hủy diệt, đáng đau buồn
thay!)
Phần trên, Phật
nói một pháp, hai pháp, ba pháp, bốn pháp, năm pháp, tổng
cộng đă nêu lên mười lăm tà sự tỳ-kheo sẽ
mắc phải trong thời Mạt Pháp, đó cũng là những
hiện tượng trong đời loạn. Thế
nhưng, thật ra những sự việc chẳng đúng
pháp rất nhiều, chẳng thể kể trọn, há nào
chỉ có những sự như vừa mới nói ư! Trong
tương lai, những tà pháp đó một khi xuất hiện
trong thế gian này nhất định sẽ dẫn Phật
pháp đi vào con đường hủy diệt. Bởi thế,
Phật nói đến đây, đau ḷng vô cùng, bèn cảm
thán. Giờ đây, đức Phật lại nói tiếp:
Chánh kinh:
Nhược hữu
tỳ-kheo dục đế học đạo, khí quyên ỷ
sức, bất cầu danh văn, chất phác thủ chân,
tuyên truyền chánh pháp.
(Nếu có tỳ-kheo
chân thật muốn học đạo, hăy vứt bỏ những
thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh
văn, chất phác, giữ ḷng chân thành, tuyên truyền chánh
pháp)
“Đế” nghĩa là chân thật. Ở đây
đức Phật răn dạy chúng ta: Nếu các vị
muốn đạt được thành tựu trên con
đường tu học Phật đạo, th́ phải chú
ư mấy nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, “hăy
vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn”
(khí quyên ỷ sức). Ỷ nghĩa là mỹ lệ, Sức
là trang sức. Phật khuyến cáo các tỳ-kheo hăy nên từ
bỏ hưởng thụ vật chất. Bởi lẽ,
người hiện tại t́m ṭi hoa lệ, sanh hoạt xa
xỉ, chẳng hạn như đạo tràng phải xây dựng
sao cho giàu có, hoa lệ, đường bệ, y phục màu
sắc phải diêm dúa, choáng lộn, lúc giảng kinh thuyết
pháp cũng phải có lễ đài, trên lễ đài bày biện
rực rỡ, diêm dúa như sân khấu. Đấy đều
là những điều trái nghịch đạo giác, chẳng
phải là điều người tu hành nên có.
Thứ hai, “chẳng
cầu danh văn”: Chữ “danh văn” bao gồm
ngũ dục lục trần, thất t́nh ngũ dục, là
căn nguyên chướng đạo, người tu đạo
phải từ bỏ cho thiệt sạch, chớ để
nhiễm trước th́ đạo tâm mới khỏi bị
hao ṃn.
Thứ ba, “chất
phác, giữ ḷng chân thành”: Đây chính là thái độ cần
phải có. Phần trên đă có nói đến đạo lư “chúng
ta tu hành chuộng thực chất chứ không chuộng h́nh
thức”. “Chất phác” nghĩa là đơn giản, thô
phác. “Thủ chân” là chân tâm thành ư, nghĩa là người
học Phật chúng ta từ cuộc sống cho đến
đạo tràng càng giản dị, đơn sơ càng hay,
chớ thực hành kiểu Phật sự chạy theo thói
đời, phải chân thật niệm Phật tu tập,
giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, chẳng cần phải tiếp
xúc với thế sự phiền năo. Có một câu nói rất
hay: “Tri sự đa thời thị phi đa” (càng biết
nhiều việc, thị phi càng nhiều), những việc
chẳng liên quan đến ḿnh càng ít tiếp xúc, học Phật
càng đơn thuần càng hay. Có tu học như vậy mới
là tinh thần “chất phác, thủ chân”, mới là thái
độ tu hành cần nên có.
Thứ tư, “tuyên
truyền chánh pháp”: Các tỳ-kheo giảng kinh giới thiệu
Phật pháp cho đại chúng, nhất định phải
căn cứ vào kinh điển, kinh Phật thuần chánh. “Chánh
kinh” c̣n gọi là Chánh Pháp. Nói ở mức cao hơn, cái
gọi là “tuyên dương chánh kinh” cần phải dựa
vào yếu tốt thời gian, địa phương mà quyết
định. Chẳng hạn như tại chùa Đại
Giác ở Cựu Kim Sơn, chỉ có thời gian chừng
hai giờ, v́ vậy, tôi chọn trong Đại Tạng
Kinh bộ Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh. Lại có lần,
có thời gian chừng sáu tiếng đồng hồ, tôi chọn
bộ kinh này cũng là một bộ kinh nhỏ. Một
phương thức khác là chọn lấy một phẩm của
Đại Kinh, hoặc trích lấy một đoạn, hoặc
chỉ chọn mấy câu kinh, xem thời gian mà định.
Đương nhiên những kinh điển ấy đều
phải có quan hệ mật thiết đối với những
vấn đề sanh hoạt, tu tŕ và tu dưỡng thường
nhật của chúng ta.
Chánh kinh:
Phật chi nhă
điển, thâm pháp chi hóa, bất dụng đa ngôn, án bổn
thuyết kinh, bất xả chánh cú, hy ngôn lũ trúng, bất
thất Phật ư.
(Giảng giải
kinh điển hay đẹp và giáo pháp sâu xa của Phật,
chớ có nhiều lời, căn cứ theo những ǵ kinh
nói, đừng bỏ chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng
mất ư Phật)
Trong đoạn khai thị
này, đức Phật dạy chúng ta lúc tuyên dương Phật
pháp, cần phải có thái độ như thế nào. Kinh
Kim Cang nói: “Phật là bậc Chân Ngữ, là bậc Thật
Ngữ, là bậc Như Ngữ, là bậc Bất Cuống
Ngữ, là bậc Bất Dị Ngữ”. Phật dạy
chúng ta lúc v́ người khác giảng giải những Phật
lư sâu nhiệm, “chớ có nhiều lời, căn cứ
vào những ǵ kinh nói”: chẳng cần thêm nhành, thêm lá, cứ
chân thật dựa vào những ǵ kinh điển đă nói
là tốt rồi, tự nhiên chẳng bị lầm lạc.
Sợ nhất là tự ḿnh tùy tiện phát huy nghĩa luận,
lầm lạc trăm bề. Đặc biệt là đối
với kẻ sơ học, chọn lựa kinh điển,
tối trọng yếu là phải chú ư đến tŕnh độ
hiểu biết của ḿnh. Nếu chính ḿnh đọc chẳng
hiểu kinh điển, ra ngoài giảng giải cho người
khác rất dễ mắc sai lầm. Đồng thời, giảng
kinh cần phải “khế lư, khế cơ”. Thật
sự hiểu rơ nghĩa kinh gọi là “khế lư”, thuận
theo nhu cầu của chúng sanh mà giảng th́ gọi là “khế
cơ” th́ mới ḥng làm cho chúng sanh đạt được
lợi ích chân thật.
Bởi vậy nói: Khi
chúng tôi chọn ra bản kinh nào, bất luận là một bộ
hay một đoạn kinh văn, chỉ toàn là căn cứ
theo ư Phật mà nói, thật sự bổn phận của
chúng tôi chỉ là nói sao cho kinh điển ấy trở
thành hoạt bát sinh động, thêm vào công phu tu học của
chính ḿnh và những thể nghiệm trong sanh hoạt thường
nhật, khiến cho chúng sanh thật sự hiểu rơ tinh
thần Phật pháp. Nói cách khác, tự ḿnh làm vậy th́ mới
đạt được lợi ích chân thật nơi lời
dạy dỗ của Phật Đà, đem những điều
ḿnh tâm đắc, quá tŕnh nghiên cứu thưa tŕnh chi tiết
cùng đại chúng th́ mới kể là viên măn.
“Đừng bỏ
chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng mất ư Phật”: Câu này ư nói người tu hành có thành tựu,
chẳng những y chiếu bổn ư của kinh Phật
để giảng giải, mà c̣n có thể đoán nhận
căn cơ của thính chúng, nói ra những điều tâm
Phật muốn nói nhưng chưa nói, khiến cho chúng sanh
hiểu rơ ư Phật, đây chẳng phải là điều
đơn giản chi! Chẳng hạn như cuốn Di
Đà Kinh Yếu Giải của đại sư Ngẫu
Ích đời Thanh là một thuyết minh cụ thể cho “đừng
bỏ chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng mất ư Phật”.
Trong cuốn Di Đà Kinh Yếu Giải, đại sư
Ngẫu Ích giải thích chữ “phát Bồ Đề tâm”
tự xưa đến nay chưa có ai có thể xiển
phát hay hơn được nữa. Hết thảy kinh luận
chú giải câu “phát Bồ Đề tâm” đều khác
với cách thuyết pháp của đại sư Ngẫu
Ích. Những bản chú giải của cổ đức
chưa có ai xem hiểu được ư nghĩa, nhưng
đến khi đại sư Ngẫu Ích vừa chú giải
câu này, ai nấy đều đột nhiên đại ngộ.
Ngài nói: “Nếu tâm có thể phát nguyện cầu sanh Tây
Phương Tịnh Độ, đó chính là tâm Vô Thượng
Bồ Đề”. Đại sư c̣n nói: “Thích Ca Mâu
Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật”,
thật là những câu trước đây chưa từng
có. Nếu chúng ta suy tưởng kỹ càng, không sai một
chút nào, viên diệu vô cùng.
Lại c̣n có những vị
cao tăng đời Đường, v́ chúng ta nói những
lời “hy ngôn” (lời hiếm có) như nói kinh Vô Lượng
Thọ là chân thật nhất trong những sự chân thật,
viên măn nhất trong các viên măn, đốn nhất trong các
pháp đốn, hoặc nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa dẫn đường
cho kinh Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là Tự
Phần, kinh Vô Lượng Thọ là Chánh Tông Phần, đều
là những lời khuyến dụ khéo léo, nhưng chẳng
sai chân nghĩa của Phật. Đại sư Liên Tŕ
đời Minh từng nói kinh Vô Lượng Thọ và kinh A
Di Đà cùng là một bộ kinh, Ngài gọi là Đại Bổn
và Tiểu Bổn, kinh Vô Lượng Thọ tức là kinh A
Di Đà Đại Bổn, kinh A Di Đà là kinh Vô Lượng
Thọ Tiểu Bổn; chỉ là kinh văn dài ngắn sai
khác, chứ nội dung hoàn toàn chẳng sai biệt. Cư
sĩ Bành Tế Thanh triều Thanh cũng nói ra hy ngôn, ông
nói: “Vô Lượng Thọ kinh là Trung Bổn Hoa
Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm bản tám mươi cuốn là Đại
Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm), bởi
lẽ, cuối kinh Hoa Nghiêm là mười đại nguyện
vương dẫn quay về Cực Lạc th́ mới kể
là viên măn”. Ba bộ kinh hoàn toàn tương đồng. “Hy
ngôn lũ trúng” (lời hiếm có trúng nhiều) là v́
người chân chánh tu học thường phát hiện những
ư nghĩa chân thật, tức là tứ đẳng, tứ
đồng: tâm đồng tâm Phật, nguyện đồng
Phật nguyện, hạnh đồng Phật hạnh, giải
đồng Phật giải. Nói đơn giản là thân, ngữ,
ư giống với Phật. Đấy là những danh ngôn hay
nhất của cổ đức.
Tiếp theo đây là mấy
câu Phật dạy chúng ta những điều cần phải
tuân thủ trên phương diện sanh hoạt.
Chánh kinh:
Thô y thú thực,
đắc mỹ bất cam, đắc thô bất ố, y
thực hảo xú, tùy thí giả ư, bất dĩ sân hỷ.
(Áo thô, cơm dở,
được tốt chẳng mừng, được xấu
chẳng ghét, cơm áo tốt xấu tùy ḷng người
thí, chẳng v́ đó mà mừng hay giận)
Phật bảo các tỳ-kheo:
Y phục chỉ cần giữ ấm, che thân là được
rồi, chẳng cần phải hoa lệ, hợp thời
trang; ăn uống chỉ cần no bụng, trà thô cơm
nhạt, chẳng phải t́m ṭi vị ngon. Đồ ăn
đi xin mỗi ngày đều chẳng giống nhau, nếu
xin được cơm, thức ăn rất ngon, chẳng
sanh tâm hoan hỷ; gặp thứ chẳng hợp bụng,
miệng, cũng đừng khởi phiền năo. Tất cả
hết thảy vật chất được cúng dường
phải tùy theo tâm ư người bố thí, tùy duyên, không phan
duyên, đừng phân biệt tốt xấu, tu tâm thanh tịnh
trong hoàn cảnh ấy. Quán sát kỹ những tỳ-kheo
trong thời hiện đại thường được
hàng cư sĩ tại gia cúng dường trọng hậu
vượt quá số lượng tỳ-kheo cần dùng,
thường dễ khiến cho người xuất gia khởi
tâm thoái đọa, chẳng nỗ lực dụng công.
Hiện tại, người
ngoại quốc khảo sát nhận thấy người sống
ở Đại Lục Trung Quốc khỏe mạnh,
trường thọ đứng đầu thế giới.
Họ nghiên cứu nguyên nhân, sau khi so sánh, nhận thấy về
phương diện ẩm thực, những người
đó chẳng quan tâm lắm đến vấn đề
dinh dưỡng, vệ sinh cũng chẳng màng, sanh sống
thanh đạm, thế mà mạnh khỏe, sống lâu. C̣n
người có tiền ở Đài Loan, khảo cứu vệ
sinh này nọ, ngày ngày t́m ṭi những món ngon lạ, mỗi bữa
chẳng giống nhau, ruột, bao tử phải làm việc
quá tải, kết quả sanh ra những chứng bệnh kỳ
quái. Hăy xem trâu, dê ăn cỏ xanh, thế mà chúng vừa mập
vừa khỏe. Người ngoại quốc ăn uống
cũng rất đơn giản. Đủ thấy thức
ăn tốt nhất cho sức khỏe là thức ăn
đơn giản. Tục ngữ có câu:
Thanh thái, đậu
hủ trường thọ bách tuế,
Kê, áp, ngư, nhục
bách bệnh họa nhân.
(Rau xanh, đậu phụ
sống thọ trăm năm,
Gà, vịt, thịt, cá
cội nguồn trăm bệnh)
Chánh kinh:
Nhiếp thân khẩu
ư, thủ chư căn môn, bất vi Phật giáo.
(Thâu tóm thân miệng
ư, giữ các căn môn, chẳng trái lời Phật dạy)
Mấy câu này và yếu
lănh tu học “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối” trong chương Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm ư
nghĩa tương đồng, tức là giữ ǵn chẳng
cho ba nghiệp thân, khẩu, ư tạo tác. “Chư căn
môn” chỉ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ư. Thâu nhiếp sáu căn, chẳng rong ruổi theo sáu
trần, một dạ hướng về Phật, niệm
niệm là Phật, niệm đến mức "phản
văn tự tánh" (xoay trở lại nghe nơi tự
tánh), nghịch trần hiệp giác, đạt được
Nhất Tâm, chẳng trái nghịch đạo giác ngộ. Trái
lại, nếu chẳng giữ được sáu căn, tạo
tác ác nghiệp nơi thân, khẩu, ư, chẳng biết giác
ngộ hồi đầu, chẳng những tham Thiền chẳng
thể đắc lực, học Giáo chẳng thể đại
khai viên giải, niệm Phật cũng chẳng thể
đạt Nhất Tâm.
Đoạn kinh này ư nói
những lời răn dạy, giáo hóa của đức Phật,
ta nhất định phải tuân thủ, nhất định
chẳng được trái nghịch. Nhưng nếu dựa
trên mấu chốt của những điều răn dạy,
giáo huấn ấy là “nhiếp thân khẩu ư, giữ các
căn môn” mà tu tập th́ sẽ tự nhiên y giáo phụng
hành, chẳng trái nghịch lời Phật dạy.
Chánh kinh:
Niệm mạng thậm
cự, hoảng hốt dĩ quá, như mộng sở kiến,
giác bất tri xứ, tam đồ chi nạn, bất khả
xưng kế, cẩn tu Phật pháp, do cứu đầu
nhiên.
(Nghĩ mạng rất
giống bó đuốc, lờ mờ thoáng qua giống
như trong mộng thấy, tỉnh giấc chẳng biết
về đâu, cái nạn tam đồ chẳng thể tính kể,
siêng tu Phật pháp giống như cứu đầu cháy)
Đoạn này là lời
Phật cảnh tỉnh chúng ta:
“Niệm mạng thậm
cự”, Cự là cây đuốc,
tỷ dụ thời gian bó đuốc thắp sáng rất
ngắn, sanh mạng chúng ta cũng ngắn ngủi, tạm
bợ như bó đuốc, cháy hết rất nhanh. “Lờ
mờ thoáng qua, giống như trong mộng thấy, tỉnh
giấc chẳng biết về đâu”: Chữ “giác”
có nghĩa là tỉnh giấc mộng. Đoạn kinh
văn này tỷ dụ đời người rất ngắn
ngủi, tạm bợ, giống hệt một giấc mộng,
lờ mờ, loáng thoáng vụt qua mất, đến lúc tỉnh
mộng, nghĩ lại những cảnh trong mộng chẳng
biết là ở đâu cả!
“Cái nạn tam đồ
chẳng thể tính kể”:
Tam Đồ là ba ác đạo địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. “Xưng” là nói kể, “Kế” là
tính toán, đo lường. Phật dạy “thân người
khó được”, mất thân người dễ dàng,
nhưng đọa lạc tam đồ lại càng dễ
dàng hơn. Tam đồ khổ nạn vô số, không cách ǵ
tính lường được, cũng chẳng thể nói
rơ ràng được. Theo như kinh nói, một ngày trong quỷ
đạo bằng một tháng trong nhân gian. Chúng ta mồng
Một, ngày Rằm cúng bái quỷ thần cũng giống
như mời họ ăn bữa trưa, bữa chiều.
Một năm trong nhân gian chỉ là mười hai ngày trong
quỷ đạo, bởi thế tuổi thọ của họ
ít nhất cũng là ngàn năm, ngàn ngàn năm. Địa ngục
càng khổ hơn, một ngày trong địa ngục dài
hơn hai ngàn bảy trăm năm của nhân gian. Trung Quốc
được gọi là nước cổ có nền
văn minh năm ngàn năm, chưa đến hai ngày trong
địa ngục! Tính toán như thế, tính ra thọ mạng
trong địa ngục phải là vạn năm, vạn vạn
năm, thật rất đáng sợ! Tạo tội nghiệp
ba ác đạo, vào đó th́ dễ, thoát ra th́ khó, chẳng
thể không dè chừng. Bởi thế, tiếp theo đó,
Phật nói: “Siêng tu Phật pháp giống như cứu
đầu cháy”. Chữ “đầu cháy” chỉ nỗi
khổ phải chịu trong tam ác đạo khác nào lửa
cháy đầu tóc. Nếu như nhận biết tam đồ
đáng sợ, ắt sẽ mau chóng siêng tu học Phật
pháp, khác nào gấp rút dập lửa đang cháy ngay trên
đầu tóc.
Chánh kinh:
Ngũ Giới, Thập
Thiện, Lục Độ vô cực, Tứ Đẳng Tứ
Ân, trí huệ thiện quyền, hàm khả tinh hành, tuy bất
trị Phật thế, xuất gia vi đạo, học bất
đường quyên, b́nh kỳ bổn tâm, mẫn niệm
nhất thiết, thập phương mông ân, Phật thuyết
như thị.
(Ngũ Giới, Thập
Thiện, Lục Độ tột bậc, Tứ Đẳng,
Tứ Ân, trí huệ thiện quyền đều có thể
chuyên ṛng tu tập, tuy Phật chẳng ở đời, xuất
gia tu đạo, chẳng uổng phí cái học, b́nh cái tâm
ḿnh, nghĩ thương hết thảy, mười
phương nhờ ơn, Phật nói như thế)
“Ngũ Giới Thập
Thiện” là cơ sở căn
bản của việc học Phật.
“Lục Độ vô
cực”: Lục Độ là
đại hạnh của Bồ Tát Đại Thừa gồm
Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền
Định, Bát Nhă. Bố Thí nói đơn giản là buông xuống,
Tŕ Giới là giữ pháp, Nhẫn Nhục là tâm nhẫn nại,
Tinh Tấn là nỗ lực, Thiền Định là tâm thanh
tịnh, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ Bát
Nhă. Nếu Bồ Tát tu đến khi trí huệ Bát Nhă hiện
tiền sẽ hành Lục Độ viên măn vô lượng,
nên gọi là “Lục Độ vô cực”.
“Tứ Đẳng,
Tứ Ân”: Tứ Đẳng
xuất pháp từ kinh Lăng Nghiêm.
1) Danh tự
tương đẳng:
Danh hiệu của
chư Phật tương đồng, b́nh đẳng, danh
hiệu kiến lập từ trí huệ đức năng
của Phật. Chẳng hạn như Thích Ca Mâu Ni Phật
nghĩa là Năng Nhân Tịch Mặc, chỉ Phật tu hành
thành tựu trong thế giới Sa Bà Kham Nhẫn, cho nên có
danh hiệu ấy. A Di Đà Phật nghĩa là Vô Lượng
Quang, Vô Lượng Thọ, là do nguyện lực thành tựu.
Danh hiệu tuy bất đồng, nhưng trí huệ đức
năng của hết thảy chư Phật tương
đồng, căn cứ vào nhân duyên của chúng sanh mà
định, người tu hành chẳng được khởi
phân biệt, chấp trước vào đó, hoặc là có
tư tưởng môn hộ.
2) Ngữ đẳng:
Ư nói ngôn ngữ của
hết thảy chư Phật tương đồng, chẳng
có sai biệt.
3) Thân đẳng:
Ư nói Pháp Thân của
chư Phật hoàn toàn tương đồng, cùng có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy h́nh hảo.
4) Pháp đẳng:
Hết thảy pháp của chư
Phật nói ra đều tương đồng, b́nh đẳng.
Nay chúng ta y chiếu lời một đức Phật dạy,
cũng giống như y chiếu hết thảy chư Phật
giáo hóa, không hai, không khác. Niệm A Di Đà Phật có thể
thành tựu, niệm Quán Âm Bồ Tát cũng có thể thành tựu,
niệm Dược Sư Như Lai cũng có thể thành tựu,
hoặc là niệm Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể
thành tựu; nhưng cần phải có nguyên tắc: phải
học triệt để một pháp môn, suốt đời
chẳng biến cải, nhất định sẽ thành tựu.
Như hiện tại chúng ta một bề chuyên niệm A
Di Đà Phật, hồi hướng phát nguyện cầu
sanh Tây Phương, tu đến mức tâm địa thanh
tịnh, khi lâm chung nhất định Phật, Bồ Tát
đến tiếp dẫn.
“Tứ Ân” là ân cha mẹ, ân Phật, ân quốc gia,
ân chúng sanh.
“Trí huệ thiện
quyền đều có thể chuyên ṛng tu tập, tuy Phật
chẳng ở đời, xuất gia tu đạo, chẳng
uổng phí cái học, b́nh cái tâm ḿnh, nghĩ thương hết
thảy, mười phương nhờ ơn, Phật nói
như thế”: Phật
khuyên răn chúng ta, tu hành phải lấy lư trí làm cơ sở,
đừng xử sự theo cảm t́nh. Theo nguyên tắc
này th́ chính ḿnh mới đến nỗi chẳng bị
chướng ngại, tiếp xúc đại chúng cũng chẳng
chướng ngại người khác. Tiến hơn lên là
tự hành, độ người, lại càng tinh tấn tu
hành. Dẫu hiện tại Phật không hiện hữu
trong thế gian, nhưng ḿnh đă xuất gia tu đạo,
th́ phải tuân thủ những điều Phật dạy
răn, hệt như Phật c̣n tại thế chẳng
khác, y giáo phụng hành, những giáo pháp đă học nhất
định chẳng bị lăng phí, nhất quyết thành tựu.
“B́nh cái tâm ḿnh” tức là tâm địa thường giữ
thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi đăi người,
chính là như thường nói: “Tâm b́nh thường là
đạo”, b́nh tâm tu đạo, công ắt tự nhiên
thành, chẳng những tự ḿnh được lợi,
mười phương chúng sanh cũng học theo
gương ấy, cũng được nhờ ân huệ,
đạt được điều tốt. Dẫu chẳng
có ư tưởng hoằng hóa, Phật pháp chân thật đă
tự hoằng dương đến mười
phương.
Tự Phần, Chánh
Tông Phần của kinh văn đến đây là hết.
Trên đây đều là những điều do chính miệng
Phật nói ra. Câu cuối cùng là do ngài A Nan nói khi kết tập
kinh điển.
Chánh kinh:
(Các tỳ-kheo vừa
buồn vừa mừng, đến trước Phật,
quy y, làm lễ mà đi)
Câu sau cùng của kinh
này là phần Lưu Thông. Do kinh này được dịch
vào giai đoạn sơ khởi, cho nên phần Lưu Thông
giống với Tự Phần, câu ngắn gọn,
đơn giản. Những kinh dịch trong giai đoạn
sau (từ thời Tùy, Đường trở đi), công
tác dịch kinh so ra hoàn bị hơn, văn tự dài, câu
văn cũng rơ ràng hơn.
Đoạn Lưu Thông
này tuy giản khiết, nhưng ư nghĩa vẫn viên măn, nói
rơ ràng: đại chúng khi ấy nghe những lời Phật
nói xong, vừa bi vừa hỷ. Bi là buồn thương
cho những tướng suy sụp thời Mạt, cảm
thấy đau buồn thống khổ, Hỷ là mừng
ḿnh may mắn được gặp Thế Tôn, được
nghe chánh pháp. Ngay đó, mọi người đến
trước đức Phật, thỉnh cầu thọ tŕ
Tam Quy, làm lễ, lui ra.
Chúng ta đọc đến
bộ kinh này, tuy chẳng gặp Phật nơi đời,
nhưng tâm t́nh vẫn tương đồng với đại
chúng trong hội, chúng ta cũng có thể đến trước
Phật, quy y Tự Tánh Tam Bảo, y giáo phụng hành, chẳng
cô phụ những lời giáo hối của đức Phật.
Phật Thuyết Đương Lai Biến
Kinh Giảng Kư hết
(hoàn tất ngày 11 tháng 09 năm 2004)
(1) Bộ kinh này là kinh
số 395, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh cuốn
12, thuộc bộ Niết Bàn, do ngài Trúc Pháp Hộ, người
xứ Nhục Chi dịch vào thời Tây Tấn.
(2) Các vị
tỳ-kheo thường theo hầu đức Phật nên gọi
là “thường tùy chúng”.