GIÁO NGHĨA
PHẨM PHỔ
HIỀN HẠNH NGUYỆN
(NGUYÊN
TÁC: PHỔ HIỀN ĐẠI SĨ
HẠNH
NGUYỆN ĐÍCH KHẢI THỊ)
普賢大士行願的啟示
CHỦ GIẢNG: H̉A
THƯỢNG TỊNH KHÔNG
CHUYỂN NGỮ: BỬU
QUANG TỰ ĐỆ TỬ NHƯ H̉A
THAY LỜI TỰA
Nhờ
công sức dịch thuật và hoằng truyền của ḥa
thượng Trí Tịnh, phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện được tŕ tụng rất phổ biến
trong giới Phật Tử Việt Nam, tiếc là từ
trước đến nay, ít có vị tôn túc nào dành thời
gian giảng giải tỉ mỉ cho hàng Phật tử
sơ cơ được thấu hiểu phần nào huyền
nghĩa bao la của kinh Hoa Nghiêm được cô đọng
trong phẩm kinh này.
Do vị
trí đặc biệt của phẩm kinh này đối với
pháp môn Tịnh Độ (cư sĩ Ngụy Mặc Thâm xếp
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện vào Tịnh Độ
Ngũ Kinh), chúng tôi luôn mong mỏi được đọc
một bản chú giải hay giảng kư nào xiển
dương thật rơ giáo nghĩa phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện. Trong Đại Tạng Kinh không thiếu các bản
chú giải, sớ giải phẩm này, nhưng đa phần
văn nghĩa quá rộng, chú trọng nhiều về mặt
Lư nên hầu như chỉ thích hợp cho những hành giả
thượng căn thuộc Hoa Nghiêm Tông hay dành riêng cho các vị
đại tri thức, học giả nghiên cứu. Khi thử
đọc tác phẩm chú giải lừng danh Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao (bản chú
giải ấy được coi là bản chú giải đặc
sắc nhất, tinh vi nhất của phẩm kinh này), chúng
tôi hoàn toàn choáng ngộp và buồn tủi nhận thấy
ḿnh khó thể lănh hội được chút phần. Những
lời Sao của ngài Khuê Phong Tông Mật và lời Sớ của
ngài Thanh Lương Trừng Quán quá cao siêu, tinh vi, uyên áo, câu
văn quá súc tích, nếu chúng tôi không lượng sức, cứ
dịch bừa ra, chắc chắn sẽ không tránh khỏi
t́nh trạng diễn dịch sai lạc ư kinh, ư Tổ, tự
ḿnh lầm, khiến người lầm, gây tội nghiệt
nặng nề khó thể cứu văn.
Thử
t́m đọc những trước tác của các tôn đức
Trung Hoa cận đại, chúng tôi thấy tác phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Tập Yếu Sớ của
ngài Đế Nhàn rất uyên áo, nhưng quá thiên trọng về
Lư, câu văn lại quá súc tích, khó ḷng chuyển ngữ đầy
đủ, găy gọn sang tiếng Việt được.
Thêm nữa, để hiểu được lời Sớ
của Ngài, nếu không hiểu biết đôi chút về
giáo nghĩa Hoa Nghiêm và giáo nghĩa Thiên Thai, hành nhân sơ
cơ không dễ ǵ lănh hội được. Những bản
giảng kư của các vị như trưởng lăo Từ
Châu, pháp sư Từ Hàng, pháp sư Viên Anh, pháp sư Văn
Châu cũng thiên trọng luận giải giáo nghĩa của
kinh văn theo quan điểm của tông Hoa Nghiêm hơn là
chú ư đến khía cạnh ứng dụng tu tập các hạnh
nguyện ấy một cách cụ thể; cũng như
chưa hiển thị rơ ràng mối quan hệ thân thiết
giữa phẩm kinh này với ba kinh Tịnh Độ.
Riêng bản
Phổ Hiền Đại Sĩ Hạnh Nguyện Đích
Khải Thị của lăo pháp sư Tịnh Không rất
đặc biệt. Ngài chỉ chú trọng đến những
ư chính của kinh văn, dùng những ngôn từ mộc mạc
rất dễ hiểu khiến người đọc hiểu
ngay cốt tủy từng lời nguyện và làm thế nào
để vận dụng tu tập những hạnh nguyện
ấy trong cuộc sống thường nhật. Điểm
đặc sắc là từng lời nguyện, từng lời
kệ được lăo pháp sư giải thích dưới
lăng kính Tịnh Độ nên rất khế cơ đối
với hành giả Tịnh Độ. Những lời lăo
ḥa thượng giảng giải sẽ giúp họ củng
cố niềm tin, nhất tâm chuyên tu, tránh khỏi cảnh
đứng núi này trông núi nọ. V́ thế, trong ba bản giảng
kư về Bồ Tát Phổ Hiền của Ngài, chúng tôi chọn
dịch bản này v́ tính cách giản dị, thiết yếu
và hỗ trợ hoằng dương Tịnh Tông của nó.
Ngoài ra,
để giúp cho những hành nhân Tịnh nghiệp sơ
cơ như chúng tôi có dịp hiểu sâu hơn kinh văn
và học thêm những thuật ngữ đặc thù của
Hoa Nghiêm hay kinh điển Đại Thừa nói chung, chúng
tôi chọn dịch những lời giải thích của lăo
cư sĩ Hoàng Trí Hải trong tác phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm Bạch Thoại Giải Thích để
làm cước chú cho những từ ngữ trong kinh không
được Ḥa Thượng Tịnh Không nhắc đến
trong bài giảng này. Trân trọng cảm tạ đạo hữu
Minh Tiến và Huệ Trang đă bỏ công sức giảo
chánh, sửa lỗi và góp ư hoàn thiện bản dịch nháp
này. Cũng xin trân trọng cảm tạ Hoa Tạng Tịnh
Tông Học Hội đă cho mạt nhân có cơ hội
được đọc nguyên tác pháp bảo này, cũng
như Tịnh Tông Học Hội Úc Châu, nhất là pháp
sư Thích Ngộ Sanh và đạo hữu Tuệ Tâm đă
khuyến tấn, hỗ trợ và đổ công ấn hành
bản dịch này.
Ngưỡng
nguyện dịch phẩm thô lậu này sẽ giúp cho các
đồng tu củng cố niềm tin nơi pháp môn Tịnh
Độ và ngày càng tinh tấn dũng mănh chuyên tu. Nếu
như việc làm mạo muội này có công đức ǵ kính
xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều
được văng sanh Cực Lạc, cùng chứng đại
Bồ Đề.
Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa kính bạch
A. DẪN NHẬP
Chư vị đồng tu!
Hôm nay chúng tôi có nhân duyên thù thắng phi thường được báo cáo cùng quư vị những lời khải thị trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm. Tuy vậy, do thời gian không đủ, chẳng thể giảng chi tiết, nhưng bằng phương thức nghiên cứu, học tập rồi báo cáo này, tôi tin tưởng các đồng tu nhất định sẽ thâu hoạch nhiều hơn là nghe giảng kinh b́nh thường. Hiện tại, con người bận rộn công việc, dù kinh điển nhà Phật rất hay, rốt cuộc vẫn chẳng thể hoàn toàn phù hợp nhu cầu con người hiện đại. Bởi thế, nghiên cứu, học tập để báo cáo có mối quan hệ thân thiết đối với cuộc sống, đức hạnh, tu tŕ, gia đ́nh mỹ măn, xă hội yên ổn, tốt đẹp. Nêu ra cách nghiên cứu, tu tập, gạn lấy những tinh hoa, khiến cho những ư nghĩa trọng yếu trong kinh được phô bày rơ ràng, chúng ta nghe xong chắc chắn sẽ đạt được lợi ích chân thật.
Trước khi báo cáo, trước hết hăy giới
thiệu kinh Hoa Nghiêm.
Đại Tạng Kinh là hết thảy những
pháp Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín
năm; rốt cục, đức Phật giảng cho chúng
ta những ǵ? Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật
nói đến ba thứ chân thật:
1) Chân thật tế.
2) Chân thật
trí huệ.
3) Chân thật
lợi ích.
Trong bốn
mươi chín năm, đức Phật giảng cho chúng
ta hết thảy kinh là giảng “Thật Tướng của
các pháp”. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Thật
Tướng của các pháp chính là chân tướng của
nhân sanh vũ trụ. Nhân sanh chính là bản thân con người
chúng ta; vũ trụ là hoàn cảnh sanh sống của chúng
ta. Đức Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, những
điều Ngài giảng trong bốn mươi chín năm
chính là chân tướng và hoàn cảnh chúng ta đang sống.
Phật giáo về bản chất chính là những điều
răn dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với
hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới; Phật
giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật
giáo cứu cánh viên măn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui. Phá mê khai ngộ là chân thật trí huệ,
ĺa khổ được vui là chân thật lợi ích. Lăo
ḥa thượng Hư Vân dạy chúng ta: “Học Phật
phải tin sâu nhân quả, nghiêm tŕ giới luật, tín tâm
kiên cố, quyết định hành môn”.
Giáo dục
Phật giáo bác đại tinh thâm, bất cứ học thuật
hay tôn giáo nào cũng đều chẳng thể sánh bằng
được. Chúng ta thời gian, tinh lực một đời
hữu hạn, làm sao tu học được? V́ thế phải
tinh tuyển (chọn lấy những tinh hoa). Phải chọn
lựa, phải hiểu nghĩa. Những đạo lư Phật
dạy, những phương pháp đức Phật đă
trao, chúng ta phải hiểu rơ ràng để ứng dụng
vào cuộc sống thường nhật. Nền giáo học
nhà Phật nhằm đem lại cho chúng ta lợi ích chân thật,
nói cụ thể là cả một đời hạnh phúc,
sung sướng, gia đ́nh mỹ măn, sự nghiệp thuận
lợi, xă hội yên ổn, tốt đẹp, quốc gia
giàu mạnh, thế giới ḥa b́nh, nền giáo dục của
Phật Đà đều thực hiện được hết.
Đó chỉ là Hoa Báo, tức là quả báo trong đời
này; quả trong đời sau gọi là Quả Báo, càng thù thắng
hơn nữa. Đặc biệt là Hoa Nghiêm quả báo thù
thắng, chúng ta không cách ǵ tưởng tượng nổi
đâu!
Kinh Hoa
Nghiêm là kinh bậc nhất trong nhà Phật, là pháp luân viên măn
của đức Phật. Bộ kinh này chính là cương
lănh của toàn bộ Phật pháp, là khái luận của toàn
bộ Phật học. Hết thảy các kinh đều là
quyến thuộc của kinh Hoa Nghiêm, đều là một
bộ phận nào đó của kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh này giảng
toàn thể nhân sanh vũ trụ; kinh này viên măn như thế
nào? Đến tối hậu, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc th́ kinh này mới là viên măn rốt ráo.
Cổ nhân
nói: “So trong hết thảy kinh, kinh Hoa Nghiêm là bậc nhất.
Đem kinh Hoa Nghiêm so với Vô Lượng Thọ, kinh Vô
Lượng Thọ bậc nhất. Hoa Nghiêm đến tối
hậu, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười nguyện
dẫn về Cực Lạc mới là viên măn, kinh Vô Lượng
Thọ từ đầu đến cuối chữ nào câu
nào cũng giảng về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Bởi thế, kinh Vô Lượng Thọ là chỗ
quy túc của kinh Hoa Nghiêm”.
Đại
sư Thiện Đạo đời Đường nói: “Hết
thảy chư Phật Như Lai thị hiện trong nhân
gian thuyết pháp chỉ nhằm giới thiệu công đức
lợi ích của Tây Phương Cực Lạc thế giới
cho mọi người”.
Kinh Hoa
Nghiêm có ba bản dịch[1]: bản
dịch đời Tấn gồm sáu mươi quyển, bản
dịch đời Đường gồm tám mươi
quyển, bản dịch bốn mươi quyển thuộc
niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức
Tông (thường gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm). Tứ
Thập Hoa Nghiêm bao gồm toàn văn phẩm Phổ Hiền
Bồ Tát Hạnh Nguyện. Đại sư Thanh
Lương phán định kinh Hoa Nghiêm gồm “thất xứ
cửu hội” (chín pháp hội giảng kinh ở bảy
nơi)[2].
Nội dung
kinh này theo đại sư Thanh Lương phán định
gồm bốn khoa lớn “tín, giải, hạnh, chứng”[3],
chúng ta cần phải hiểu rơ. Nội dung kinh này ngoài bốn
phần trên ra, c̣n có năm tầng nhân quả (ngũ châu
nhân quả): Mười một quyển đầu là Sở
Tín Nhân Quả; bốn mươi mốt quyển giữa
trước hết giảng về Nhân Quả Sai Biệt,
phần sau giảng về Nhân Quả B́nh Đẳng; bảy
quyển giảng về Thành Hạnh Nhân Quả, tức là
phẩm Ly Thế Gian, hoàn toàn giảng về phương
pháp tu hành; hai mươi mốt quyển sau cùng giảng về
Chứng Nhập Nhân Quả (trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, phần
này thuộc quyển bốn mươi).
Ngoài ra, c̣n
nói đến Lục Tướng, Thập Huyền Môn, Tứ
Pháp Giới[4], đấy chính là
chân tướng nhân sanh vũ trụ, tức là chân tướng
của chúng ta và hoàn cảnh sanh hoạt. Nói đến
đại thế giới, nói đến vũ trụ th́ trong
kinh này đức Phật giảng hai mươi tầng
Hoa Tạng thế giới; nói như bây giờ là Vũ Trụ
Quan. Về phương diện hành môn, kinh này đặc biệt
chú trọng “trải sự để luyện tâm”. Tu hành từ
đâu? Tu hành ngay trong sanh hoạt thường nhật, ngay
trong những lúc mặc áo, ăn cơm, xử sự,
đăi người, tiếp vật mà luyện tập cái
tâm thanh tịnh, tâm quảng đại, tâm b́nh đẳng,
tâm đại từ đại bi của chính ḿnh th́ mới
là thọ dụng chân thật.
Thiện
Tài đồng tử tham phỏng năm mươi ba lần
là điểm đặc sắc của kinh Hoa Nghiêm. Hoa
Nghiêm chẳng những có lư luận viên măn, phương pháp
châu đáo tường tận mà c̣n có Thiện Tài và Văn
Thù, Phổ Hiền…năm mươi ba vị đại Bồ
Tát biểu diễn cho chúng ta, dạy chúng ta tu hành như thế
nào. Năm mươi ba vị thiện tri thức đại
diện nam, nữ, già, trẻ, các hạng, các nghiệp
trong xă hội hiện tại. Đại Thừa Phật
pháp ai cũng học được, ai cũng tu được,
ai cũng thành tựu được. Hễ chân chánh phát tâm
học Phật th́ chỉ có mỗi một ḿnh ta là học
tṛ. Thiện Tài đồng tử không có đồng bạn,
không có đồng học, gặp ai cũng đều là
thiện tri thức; nói như bây giờ: “Ai cũng là thầy
ḿnh cả!” Khổng Tử nói: “Ba người cùng đi,
ắt có người là thầy ta”. Người tốt
lẫn kẻ xấu đều là thầy ḿnh.
Người
tốt làm chuyện tốt, chúng ta phải học theo; họ
là thầy của ḿnh. Kẻ ác làm chuyện ǵ chúng ta phải
cảnh tỉnh, chẳng được học theo; họ
cũng là thầy của ta. Khi tham phỏng bậc Bồ
Tát Cửu Trụ là Thắng Nhiệt Bà La Môn, ông ta ngu si,
Thiện Tài chẳng học theo cái ngu si đó. Khi tham phỏng
Đệ Thất Hạnh Vị Bồ Tát là Cam Lộ Hỏa
Vương, tâm sân khuể nặng nề; bậc Đệ
Ngũ Hồi Hướng Bồ Tát là Phạt Tô Mật
Đa nữ là một cô gái điếm, đại biểu
cho tham ái. Ba vị đại Bồ Tát tượng
trưng cho ba độc phiền năo Tham - Sân - Si. Trong xă hội
hiện thời, bậc tri thức có đủ Tham - Sân -
Si chẳng ít, nếu chúng ta có được trí huệ
như Thiện Tài, có bản lănh như Thiện Tài, chúng ta
hành xử giống như Ngài th́ sẽ thành được
Vô Thượng Đạo chẳng trở ngại ǵ.
Kinh này cho
thấy hành Bố Thí chẳng trở ngại viên dung, viên
dung chẳng trở ngại việc hành Bố Thí. Đại
Thừa Phật pháp tu học siêu việt quốc giới,
chủng tộc, tôn giáo, c̣n siêu việt cả thiện ác,
siêu việt mười pháp giới; đó là những điều
chúng ta phải nhận thức, thể hội từ kinh
Hoa Nghiêm. Mỗi một địa vị, giai cấp có một
thiện hữu đại biểu, chỉ ḿnh Đức
Sanh đồng tử và Hữu Đức đồng nữ
là cùng hiện diện trong một hội: Đức Sanh
đồng tử đại biểu trí huệ, Hữu
Đức đồng nữ đại biểu từ bi.
Bi - Trí song vận mới ḥng mau chóng đạt đến
cảnh giới rốt ráo viên măn. Đây là dạy chúng ta
trong cuộc sống, đối người xử vật
phải có trí huệ, phải có phương tiện thiện
xảo.
Thiện
Tài đồng tử tham phỏng Di Lặc Bồ Tát,
thăm viếng lầu gác của ngài Di Lặc - [lầu
gác ấy] nói như bây giờ là thư viện - chẳng
những chứa sách phong phú mà băng ghi âm, băng ghi h́nh
cũng rất phong phú. V́ sao vậy? V́ trong lầu gác đó
có thể nh́n thấy vô lượng vô biên các cơi nước
Phật giống như h́nh ảnh xuất hiện trên màn bạc.
Bởi thế, thư viện đó chính là “thị thính
đồ thư quán” (thư viện có đủ
phương tiện, tài liệu âm thanh lẫn h́nh ảnh).
Thiện Tài đến đó đại khai viên giải, hiểu
viên măn. Cuối cùng, vị thiện tri thức thứ
năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát, dạy
đồng tử mười đại nguyện, mười
đại nguyện tiêu biểu cho hạnh môn viên măn.
Thư viện của ngài Di Lặc là học vấn viên
măn, mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền đại sĩ là đức hạnh viên măn. Học
vấn và đức hạnh đều viên măn là thành Phật,
đạt đến đó là thành tựu vô thượng
Phật đạo. Đấy chính là điều khải
thị viên măn rốt ráo vĩ đại của kinh Hoa
Nghiêm.
Trong kinh
này, đức Phật dạy chúng ta: Chẳng học theo hạnh
nguyện Phổ Hiền sẽ chẳng thể viên thành Phật
đạo. Sau khi tham phỏng Di Lặc Bồ Tát, Thiện
Tài đồng tử bèn tiếp nhận lời Phổ Hiền
Bồ Tát dạy răn. Do đây ta biết rằng: hạnh
nguyện Phổ Hiền là những việc phải tu tập
của bậc Đẳng Giác Bồ Tát, chẳng phải
là chuyện để người tầm thường tu tập.
Nói rộng ra, hạnh nguyện ấy là chuyện phải
tu của bốn mươi mốt địa vị Pháp
Thân đại sĩ. Trong bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, địa vị thấp
nhất là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo; trước
khi đạt đến Sơ Trụ vẫn có thể phát
tâm tu học hạnh nguyện Phổ Hiền nhưng nhất
định chưa thể làm được. “Phổ Hiền
Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới th́ mười đại nguyện mới viên măn”.
Câu này rất đáng để chúng ta suy nghĩ. Văn Thù
và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, Phổ Hiền
là Pháp Vương Tử của đức Tỳ Lô Giá Na Phật
trong Hoa Tạng thế giới, là bậc Đẳng Giác Bồ
Tát trong Viên Giáo, Ngài sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới để làm ǵ? Do câu này ta t́m được
đáp án, Ngài về đó để tu cho viên măn mười
đại nguyện vương.
Mục
đích duy nhất của Tịnh tông học nhân là cầu
sanh Tịnh Độ. Sanh về Tịnh Độ bất
thoái thành Phật là lợi ích chân thật của Tịnh
tông. Giải môn (mặt lư luận, giáo nghĩa) của Tịnh
tông y vào năm kinh một luận, hạnh môn (mặt tu tập,
thực hành, phương pháp tu tập cụ thể) là một
câu A Di Đà Phật. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối là Chánh Hạnh. Ngoài Chánh Hạnh, c̣n cần
phải có Trợ Hạnh, Chánh Trợ Song Tu. Trợ Hạnh
của Tịnh Tông gồm năm khoa mục: Ba Phước,
Sáu Ḥa Kính, Tam Học, Lục Độ, Phổ Hiền Thập
Đại Nguyện Vương.
Cơ sở
của Phổ Hiền hạnh là Ba Phước. Phước
thứ nhất trong ba phước là tu phước báo nhân
thiên. Muốn được thành Phật, thành Bồ Tát th́
trước hết phải làm người cho tốt. Bắt
đầu học từ đâu? Phước thứ nhất
là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư
trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp”,
học Phật bắt đầu từ đó. Toàn bộ
Phật pháp chỉ là dạy hai chữ Hiếu Kính mà thôi!
“Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”: Chỉ có thành Phật mới có thể
hiếu với cha mẹ, tôn kính sư trưởng viên măn
được. Chẳng kính cha mẹ là bất hiếu, chẳng
kính sư trưởng cũng là bất hiếu. Anh em bất
ḥa khiến cha mẹ đau ḷng cũng là bất hiếu.
Làm việc không tṛn trách nhiệm, chẳng có ḷng thành đối
với người khác, làm việc chẳng nỗ lực,
thân thể không khỏe thường sanh bệnh, tự
ḿnh ngày ngày phiền năo, một câu A Di Đà Phật niệm
không tṛn, đều là bất hiếu. Không có chuyện ǵ ra
ngoài hiếu kính cả, bởi thế Phật cặn kẽ
dạy chúng ta đại căn đại bản là “hiếu thân tôn sư” (hiếu
với cha mẹ, tôn kính thầy). Chúng ta tự ḿnh thành Phật
chẳng những độ được cha mẹ trong
đời này mà c̣n độ được cha mẹ trong
đời đời kiếp kiếp quá khứ, đấy
mới là tận hết đại hiếu.
“Từ
bi bất sát”: Từ cơ sở
hiếu kính, phát triển thành đại từ đại
bi, từ tâm đối với hết thảy chúng sanh. Bất
sát là Từ, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng
nói dối, chẳng uống rượu cũng là Từ. Từ
tâm ấy bao gồm hết thảy Tam Học Giới -
Định - Huệ. Mở rộng ra, toàn bộ pháp giới
đều bao gồm trong ấy; Bất Sát chỉ là nêu lên
một thí dụ. Phàm hễ làm cho chúng sanh sanh phiền năo
th́ tâm địa chúng ta chẳng Từ, chính ḿnh sanh phiền
năo cũng là chẳng Từ.
“Tu Thập
Thiện nghiệp”: Thập
Thiện chẳng phải là Giới mà là thiện nghiệp.
Ba điều thiện nơi thân: chẳng sát sanh, chẳng
trộm cắp, chẳng tà dâm; bốn điều thiện
nơi miệng: không vọng ngữ (chẳng dối
người), không lưỡng thiệt (chẳng khêu gợi
thị phi), không ỷ ngữ (chẳng hoa ngôn xảo ngữ),
không ác khẩu (chẳng nói năng thô lỗ); ba điều
thiện nơi ư: chẳng tham, chẳng sân, chẳng si.
Đức Phật dạy chúng ta tu học mười loại
thiện hạnh lớn nơi thân - ngữ - ư. Ai thực
hiện tốt những điều ấy mới gọi
là hảo nhân.
Phước
thứ nhất là cơ sở, có hiếu thân, tôn sư, từ
tâm, thập thiện th́ mới có tư cách vào cửa Phật
học Phật, làm học tṛ của Phật Thích Ca.
Phước
thứ hai: “Thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới,
chẳng phạm oai nghi”. Phước thứ hai là chuyện
phải tu của người tu Nhị Thừa, chân chánh
bước vào cửa Phật. Người Nhị Thừa
tu Tam Học Giới - Định - Huệ.
“Thọ
tŕ Tam Quy”: Quư vị bước
vào cửa Phật, trước hết đem phương
pháp, lư luận tu học nhà Phật truyền cho quư vị,
đó gọi là “truyền thọ Tam Quy”. Tam Quy Y: Quy là quay
đầu, Y là nương tựa. Quy y Tam Bảo (Phật,
Pháp, Tăng); Tam Bảo trong tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào
ngờ tự tánh vốn sẵn có đủ”. Tự
tánh vốn sẵn đủ Tam Bảo, nay ta quy y là quy y Tự
Tánh Tam Bảo. Tam Quy:
1) Quy y Phật:
Phật là Tự Tánh Giác, giác chứ không mê. Từ hết
thảy mê hoặc điên đảo quay trở về
nương dựa vào Tự Tánh Giác, nên gọi là “quy y Phật”.
2) Quy y
Pháp: Pháp là chánh tri chánh kiến nơi tự tánh. Kinh Pháp
Hoa nói: “Nhập Phật tri kiến”; Phật tri Phật
kiến là tư tưởng chánh xác, kiến giải chánh
xác, hoàn toàn hiểu rơ chân tướng nhân sanh vũ trụ,
chẳng hiểu sai lầm một điểm ǵ. Từ chỗ
suy nghĩ lầm lạc, kiến giải lầm lạc
trước kia, nay quay lưng với những lầm lạc
ấy, về nương dựa nơi chánh tri chánh kiến
của tự giác th́ gọi là “quy y Pháp”.
3) Quy y
Tăng: Tăng là tự tánh thanh tịnh, sáu căn thanh
tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Lục Tổ
nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh”.
Từ hết thảy nhiễm ô quay đầu trở lại,
nương vào tâm thanh tịnh sẵn có, th́ gọi là “quy y
Tăng”.
Quy y Phật
giác chứ không mê, quy y Pháp chánh chứ chẳng tà, quy y
Tăng tịnh chứ chẳng nhiễm. Tu học Phật
là Giác - Chánh - Tịnh. Tựa đề kinh Vô Lượng
Thọ là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh. Tam
Bảo cũng nằm trong tựa đề kinh. Giác là Phật
Bảo, B́nh Đẳng là Pháp Bảo, Thanh Tịnh là
Tăng Bảo. Năm chữ “Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác” chính là Tự Tánh Tam Bảo. Chúng ta nương vào
năm chữ này tu hành mới là thọ tŕ Tam Quy chân chánh, mới
thật là đệ tử Phật. Sau khi hiểu rơ
cương lănh tu hành rồi, đối trước tượng
Phật, Bồ Tát, phát thệ nguyện sâu nặng: “Mong trở
thành học tṛ đức Phật, xin được tiếp
nhận lời Phật răn dạy, từ nay trở
đi, con nhất định tu hành thanh tịnh”. Thỉnh
một vị pháp sư chứng minh, cử hành nghi thức
Tam Quy. Thật sự trọng yếu là phải quy y Tự
Tánh Tam Bảo. Tam Quy xong, đức Phật dạy chúng ta
phải có đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.
“Đầy
đủ các giới”: Tŕ giới
là giữ pháp. Chẳng riêng ǵ những giới điều
đức Phật đă nói như Ngũ Giới, Thập
Giới, Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới, mà phàm hết
thảy những răn dạy trong hết thảy các kinh
luận, mỗi mỗi đều là giáo giới cả. Hiến
pháp, pháp luật, quy định, hiến chương đều
thuộc phạm vi của giới luật, đều phải
tuân thủ; phong tục, tập quán và quan niệm đạo
đức mỗi nước cũng phải tuân thủ.
“Chẳng
phạm oai nghi”: Oai nghi là lễ
tiết, lễ mạo. Chúng ta không những giữ pháp mà
c̣n phải hiểu lễ th́ mới được đại
chúng hoan nghênh, mới có thể làm cho Phật pháp được
lưu truyền rộng răi các nơi. Phước thứ
hai là việc thiện của Nhị Thừa.
Phước
thứ ba: “Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả,
đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn
hành giả” là việc thiện của Đại Thừa
Bồ Tát.
“Phát Bồ
Đề tâm”: Bồ Đề
là tiếng Phạn, có nghĩa là Giác, chân chánh giác ngộ.
Chân chánh giác ngộ lục đạo luân hồi rất khổ,
chẳng được tự tại. Chân chánh giác ngộ
sự giáo dục của đức Phật giúp chúng ta giải
quyết hết thảy vấn đề, vấn đề
hiện tại, vấn đề tương lai, vấn
đề tự thân, vấn đề gia đ́nh, vấn
đề sự nghiệp, vấn đề xă hội, cho
đến vấn đề sau khi chết đi sẽ sanh
trong thế giới nào, thảy đều giải quyết
hết. Chân chánh giác ngộ đạt đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới ngay trong lúc c̣n sống
là chuyện nhất định chúng ta có thể làm
được. Sau khi giác ngộ như vậy mới gọi
là “phát Bồ Đề tâm”. Chân chánh giác ngộ mới
có hy vọng xuất ly luân hồi.
“Tin sâu
nhân quả”: Nhân quả ở
đây chẳng phải là nhân quả kiểu việc lành có
quả lành, việc ác có ác quả, đức Phật dạy
hàng Bồ Tát tin sâu nhân quả là ngụ ư “niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả”. Loại nhân quả này rất
nhiều vị Bồ Tát chẳng biết, cũng chẳng
tin tưởng. Niệm A Di Đà Phật, văng sanh bất
thoái thành Phật là quả báo, là phương pháp tu học
thù thắng. Nếu chúng ta tin sâu chẳng nghi, quyết
định thọ tŕ, trong một đời này sẽ nhất
định thành Phật. Pháp môn Niệm Phật vạn người
tu vạn người đạt, cốt sao quư vị tin thật
nguyện thiết, lấy một câu Phật hiệu làm sự
việc trọng đại nhất của cả một
đời, trong mười hai thời từ sáng đến
tối trong tâm chẳng buông bỏ Phật hiệu, chân
chánh thực hiện chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn,
chẳng xen tạp, không một ai chẳng thành công. Đó gọi
là “tin sâu nhân quả”.
“Tụng
đọc Đại Thừa”: Tôi khuyên các đồng tu chỉ đọc một bộ
Vô Lượng Thọ là nhằm dụng ư đoạn phiền
năo. Lúc chẳng niệm kinh bèn suy nghĩ bậy bạ, sanh
ra phiền năo. Phật nói chúng sanh có hai thứ Chướng:
Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Hai
Chướng này do đâu mà có? Phẩm Xuất Hiện trong
kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí
huệ đức tướng của Như Lai, chỉ v́
vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể
chứng đắc”. Một lời đức Phật
vạch trần gốc bệnh của chúng ta.
Vọng
tưởng phát triển thành Sở Tri Chướng; chấp
trước phát triển thành Phiền Năo Chướng. Mục
đích của đọc kinh là phá hai Chướng đó,
khôi phục tâm địa thanh tịnh, rồi mới dùng
cái tâm thanh tịnh, tâm chân thành, tâm cung kính, tâm từ bi chấp
tŕ danh hiệu th́ danh hiệu ấy mới có cảm ứng.
Kẻ lợi căn trong ṿng năm mười năm đắc
thanh tịnh tâm, sau đấy mới có thể thực hiện
“pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, mới
có thể ngao du trong kinh luận Đại Thừa. Kẻ
căn tánh trung hạ, nếu mười năm tâm vẫn
chưa thanh tịnh, th́ phải phát nguyện suốt đời
niệm một bộ kinh, pháp môn vô lượng thệ nguyện
học đợi đến lúc sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới mới học cũng chẳng
muộn. Tập trung tinh lực trong thời gian một
đời chuyên cầu Tây Phương Tịnh Độ,
hoàn toàn chẳng phân tâm. Tây Phương Cực Lạc thế
giới thọ mạng vô lượng, hết thảy kinh
điển viên măn đầy đủ giống hệt
như của mười phương chư Phật đă
nói chẳng thiếu ǵ. Lúc đó, A Di Đà Phật là thầy
ḿnh, Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là đồng
học, là bầu bạn, quư vị nhất định phải
thành tựu. Nếu thật sự có tâm từ bi th́ cũng
phải đảm bảo ḿnh được văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới rồi mới
ngao du trong các kinh luận Đại Thừa khác.
Nếu
chưa nắm chắc chuyện văng sanh, th́ phải bớt
làm chuyện hoằng pháp lợi sanh, nếu không sẽ bị
uổng mất chuyện văng sanh. Kinh Vô Lượng Thọ
dạy: “Giả linh cúng dường hằng sa thánh, bất
như kiên dũng cầu Chánh Giác” (Ví như cúng dường
hằng hà sa số bậc thánh, cũng chẳng bằng
kiên định, dũng mănh cầu đắc Chánh Giác), ư
nói: Tự độ cầu văng sanh là chuyện trọng yếu.
Tự ḿnh đă nắm chắc chuyện văng sanh mới có
thể phát tâm rộng độ chúng sanh; văng sanh chưa nắm
chắc th́ niệm Phật nhiều phải là chuyện khẩn
yếu hơn. Độ chúng sanh phải có duyên phận và
năng lực. Có Ba Phước, Sáu Ḥa Kính, Tam Học (Giới
- Định - Huệ), Lục Độ làm cơ sở,
tu học mười nguyện Phổ Hiền mới ḥng
đạt lợi ích.
Thế nào
là hạnh nguyện Phổ Hiền? Nơi quả đức
Như Lai viên măn, nhất định phải tu đại
hạnh th́ phước đức mới ḥng viên măn. Mỗi
một hạnh môn đều tương ứng với tự
tánh, nhưng mỗi một hạnh môn lại trọn khắp
pháp giới. Đă thế, mỗi một hạnh môn lại
bao trùm hết thảy hạnh; hết thảy hạnh
cũng đều bao gồm trong một hạnh. Đấy
chính là bản thể của Phổ Hiền hạnh, mà
cũng là hạnh Phổ Hiền Bồ Tát thực hành. Nói
cách khác, do phương pháp tu hành này mà thành tựu Phổ Hiền
Bồ Tát. Cổ đức quy nạp thành mười
điều:
1) Sở
cầu phổ: Cầu được chứng đắc
b́nh đẳng với hết thảy Như Lai. Chúng ta
tương lai thành Phật phải b́nh đẳng với
hết thảy chư Phật trong mười phương
ba đời, chẳng sai biệt mảy may. Đấy là
điều chúng ta mong cầu.
2) Sở
hóa phổ: Hóa là giáo hóa chúng sanh, Chư Phật Như Lai
giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh trong pháp giới, chúng ta
cũng phải phát nguyện như vậy.
3) Sở
đoạn phổ: Đoạn phiền năo. Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Vô Minh phiền năo
đều phải đoạn, chẳng thể c̣n lại
mảy may phiền năo nào.
4) Sự
hành phổ: Trong sanh hoạt thường nhật, bất
luận chuyện lớn việc nhỏ, mảy may tơ
tóc cũng đều nên xứng với pháp giới, giống
hệt như Bồ Tát.
5) Lư hành
phổ: Mỗi một việc làm nào cũng đều
tương ứng với tự tánh.
6) Vô ngại
hành phổ: lư sự vô ngại.
7) Dung
thông hạnh phổ: sự sự
vô ngại.
8) Sở
khởi đại dụng phổ: đức dụng
trọn khắp pháp giới.
9) Sở
hành xứ phổ: theo chiều ngang th́ cùng khắp pháp giới,
hết thảy các cơi nước Phật và thân tâm của
ḿnh không hai, không khác.
10) Tu hành
thời phổ: Nói trên phương diện thời gian
th́ một niệm và cả kiếp dung thông. Mỗi một
nguyện Phổ Hiền đều “hư không giới tận,
chúng sanh giới tận, nguyện tôi mới tận”.
Nhưng hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp
chẳng có cùng tận, hạnh nguyện của Phổ Hiền
Bồ Tát cũng chẳng có cùng tận; chẳng mệt, chẳng
chán!
Đấy
là Phổ Hiền hạnh, hạnh môn đạt đến
mức độ đăng phong tạo cực.
Duyên do của
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện: Xưa kia, lúc
đức Thế Tôn thị hiện thành Phật; lúc ban
sơ, nhập định dưới cội Bồ Đề,
giảng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm; giảng thuyết lư sự vô ngại, sự sự
vô ngại, cảnh giới một niệm và cả kiếp
viên dung. Nói cách khác, siêu việt cả thời gian lẫn
không gian, chẳng có thời gian dài hay ngắn, chẳng có
không gian xa hay gần. Đây chính là cảnh giới giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ
Tát chứng đắc.
Phật giảng
bộ kinh này, nếu dịch theo nguyên văn tiếng Phạn
th́ tựa đề kinh là “Đại Phương Quảng
Giác Giả Tạp Hoa Trang Nghiêm kinh”. Người Trung Quốc
thích đơn giản, đổi chữ Giác Giả thành
Phật, bỏ bớt chữ Tạp, lược bớt
chữ Trang, thành ra tựa đề kinh hiện thời là
“Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm kinh”. Nh́n từ ư nghĩa của tựa
đề kinh, bộ kinh do đức Phật nói đây thật
ra chính là hết thảy kinh chúng ta thường giảng:
“Đại
Phương Quảng”[5] là Pháp, cũng như kinh Đại Thừa
thường nói là Thể, Tướng, Đức Dụng
của Chân Như Tự Tánh.
“Phật” là người chứng đắc;
người viên măn công đức thể, tướng, tác
dụng của tự tánh th́ gọi là “thành Phật”, ta gọi
người ấy là Phật Đà.
“Hoa
Nghiêm” là tỷ dụ. Tạp
Hoa: Tạp là nhiều màu, có các thứ phẩm lượng,
giống như một đại hoa viên, hết thảy
các loài hoa đều có mặt hết, cũng chẳng thiếu
khuyết ǵ cả. Trang Nghiêm nghĩa là đẹp đẽ.
Hết thảy các pháp đức Phật chứng giống
như hoa nhiều màu trang nghiêm. Do đây biết rằng: tựa
đề kinh này chẳng phải là tựa đề của
riêng một bộ kinh mà là đề mục chung của hết
thảy kinh.
Đức
Thế Tôn sau khi thành Phật, trong mười bốn ngày[6],
đem toàn bộ cảnh giới Ngài chứng đắc
viên măn giảng cho Bồ Tát nghe. Hàng Bồ Tát nghe kinh trong hội
Hoa Nghiêm thuộc bốn mươi địa vị Pháp
Thân đại sĩ, chẳng phải kẻ tầm thường.
Hạng người tầm thường há có năng lực
vào trong Định của đức Thế Tôn để
nghe kinh ư? Chẳng có Định công (công tu tập thiền
định) th́ chẳng có duyên phận. Phật nói kinh này,
Quyền Giáo Bồ Tát và Thanh Văn, Duyên Giác như đui,
như điếc, thấy chẳng được, nghe
cũng chẳng được.
Giảng
kinh xong, Đại Long Bồ Tát đem kinh này cất giấu
dưới Long Cung. Trong ṿng sáu trăm năm sau khi Phật
diệt độ, thế gian chẳng có ai thấy
được kinh này. Long Thọ Bồ Tát thông minh tuyệt
đỉnh, xem khắp kinh luận thế gian và kinh điển
của chín mươi sáu thứ ngoại đạo ở Ấn
Độ, sanh tâm ngạo mạn. Lúc ấy, Đại Long
Bồ Tát hóa thân độ Long Thọ, bảo Long Thọ:
“Long cung c̣n có rất nhiều kinh điển khác ông chưa
từng thấy qua”. Khi đến Long cung, Long Thọ thấy
Đại Long Bồ Tát cất giữ Đại Bản
Hoa Nghiêm, có mười tam thiên đại thiên thế giới
vi trần bài kệ (mỗi một bài kệ có bốn câu)[7], một
tứ thiên hạ vi trần phẩm. Long Thọ Bồ Tát sững
sờ, tập khí ngạo mạn tan tành.
Tam thiên
đại thiên thế giới thật ra là một đại
thiên thế giới, đại thiên thế giới là khu vực
hóa độ của một đức Phật. Địa
cầu xoay quanh Thái Dương, lấy Thái Dương làm
trung tâm, gọi là Thái Dương Hệ. Thái Dương Hệ
lại xoay quanh Ngân Hà hệ. Trong quá khứ, có nhiều
người cho rằng Thái Dương Hệ là một
đơn vị thế giới. Một đại thiên thế
giới có một trăm ức đơn vị thế giới
như thế. Gần đây, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
nêu lên quan điểm, cho rằng: “Mỗi một hệ
Ngân Hà là một đơn vị thế giới. Đơn
vị thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, núi Tu Di chẳng
thuộc địa cầu, cũng chẳng nằm trong
Thái Dương Hệ, mà là do nhiều hằng tinh xoay tṛn
[tạo thành]. Núi Tu Di chính là lỗ đen (black hole) do các nhà
thiên văn phát hiện, là trung tâm của một Ngân Hà hệ”.
Nếu nói
như vậy th́ một đại thiên thế giới do một
trăm ức Ngân Hà hệ tạo thành. Phật nói: Trong
vũ trụ có vô lượng vô biên đại thiên thế
giới. Nhưng bây giờ, giả sử đem các tinh cầu
trong một trăm ức Ngân Hà Hệ mài nát thành vi trần,
mỗi một vi trần tượng trưng cho một bài
kệ, th́ bộ kinh này có mười đại thiên thế
giới vi trần kệ. Phân lượng quá lớn, địa
cầu không chứa nổi. Phật chỉ cần hai tuần
giảng xong kinh này, Phật trí thần thông vĩ đại,
khiến chúng ta năm vóc sát đất bội phục.
Trung Bổn
Hoa Nghiêm có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm
bài kệ, một ngàn hai trăm phẩm. Trung Bổn là phần
trích yếu của Đại Bổn, phân lượng
cũng quá nhiều. Hạ Bổn Hoa Nghiêm là mục lục
đại cương trích yếu, tổng cộng mười
vạn bài kệ (bốn mươi vạn câu), bốn
mươi tám phẩm. Long Thọ Bồ Tát đem Hạ Bổn
Hoa Nghiêm ra khỏi Long cung. Từ đó, thế gian mới
có kinh Hoa Nghiêm. Cho đến thời đại Đông Tấn,
tức là sau khi Long Thọ Bồ Tát viên tịch ba, bốn
trăm năm, bộ kinh này được truyền đến
Trung Quốc.
Thời cổ,
kinh điển chép trên lá Bối, dễ bị thất lạc.
Kinh Hoa Nghiêm truyền đến Trung Quốc, kinh văn bị
thiếu sót, chỉ c̣n ba vạn sáu ngàn bài tụng (kệ).
Đời Tấn, ngài Phật Đà Bạt Đà La[8] dịch
sang Hán văn, chia làm sáu mươi quyển, gọi là Lục
Thập Hoa Nghiêm. Đời Đường, bà Vơ Tắc
Thiên phái người sang Ấn Độ t́m bản kinh này,
thỉnh ngài Thật Xoa Nan Đà[9]
sang Trung Quốc dịch kinh Hoa Nghiêm, so với bản sáu
mươi quyển tăng thêm chín ngàn bài tụng, tổng
cộng có bốn vạn năm ngàn bài tụng, gọi là
Bát Thập Hoa Nghiêm. Trong niên hiệu Trinh Nguyên đời
Đường Đức Tông, Ô Đồ[10]
quốc vương tấn cống hoàng đế Trung Quốc
một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm[11],
là phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm này vô cùng
hoàn chỉnh, chẳng bị khiếm khuyết, dịch sang tiếng Hán, tổng cộng bốn
mươi quyển, gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm.
Tứ Thập
Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, toàn bộ
kinh văn là bốn mươi quyển. Khi Tứ Thập
Hoa Nghiêm được phiên dịch, Thanh Lương đại
sư[12]
tham gia dịch trường. Dịch xong, hoàng đế thỉnh
đại sư Thanh Lương viết chú giải. Ngài
Thanh Lương chuyên chú nơi kinh Hoa Nghiêm, cả một
đời giảng kinh Hoa Nghiêm năm mươi lượt.
Tứ Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm gộp lại,
trừ khử những phần trùng lập, tổng cộng
gồm chín mươi sáu quyển.
Cổ nhân
nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết nhà Phật
phú quư”. Nói cách khác, chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng
hiểu được cái hay của việc thành Phật.
Biết được cái hay của việc thành Phật
th́ không thành Phật không xong. Đối với việc tu học
Phật pháp, kinh này là một bộ kinh vô cùng trọng yếu.
Tôi có được ḷng tín ngưỡng nơi Tịnh
Độ Tông là do từ kinh Hoa Nghiêm mà có. Trước kia,
thầy tôi là cư sĩ Lư Bỉnh Nam chuyên hoằng Tịnh
Độ, đối với việc giảng kinh tôi vô cùng
thích thú, c̣n đối với việc Niệm Phật chẳng
mặn ṃi cho lắm. Thầy khuyến khích tôi:
- Từ
xưa đến nay, không ít tổ sư đại đức
đều tu học pháp môn Niệm Phật, chẳng ngại
ǵ ông không thử thực hành xem. Nếu chẳng thể
thành tựu th́ từ trước đến giờ nhiều
người bị mắc lừa, chúng ta bị lừa một
phen cũng không sao!
Thầy nói
câu này đúng là rát miệng xót ḷng. Khi đó, tôi chẳng hiểu
triệt để Tịnh Độ Tông, tín tâm chưa sanh
khởi. Măi đến năm Dân Quốc sáu mươi
(1971), tôi mới bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng
suốt mười bảy năm. Đột nhiên có một
ngày, tôi nghĩ đến một vấn đề: trong hội
Hoa Nghiêm, Phổ Hiền là trưởng tử, Văn Thù là
con trai thứ, hai vị Đẳng Giác Bồ Tát là trợ
thủ của Tỳ Lô Giá Na, các Ngài tu pháp môn ǵ? Nguyên lai các
vị Bồ Tát này niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Nhận ra
như vậy, tôi vô cùng kinh ngạc; hơn nữa, Thiện
Tài đồng tử cũng tu pháp môn Niệm Phật. Hoa
Nghiêm đến cuối cùng, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc. Hiểu rơ điều này trong hội Hoa
Nghiêm rồi tôi mới phát sanh tín tâm chân chánh đối với
Tịnh Độ tông. Đối với tôi, kinh Hoa Nghiêm có
ân sâu rất lớn.
[Phần kinh văn
được] báo cáo lần này là quyển cuối cùng của
Tứ Thập Hoa Nghiêm. Trong toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, quyển
này trọng yếu vô cùng, Thanh Lương đại sư
gọi nó là “Hoa Nghiêm quan kiện” (mấu chốt của
kinh Hoa Nghiêm); cương lănh tu học Hoa Nghiêm hoàn toàn nằm
trong quyển này. Nó cũng là tổng kết luận của
toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Thanh Lương đại sư
đem quyển này lưu hành riêng; niệm một quyển
giống như niệm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Bản chú giải
quyển kinh này tốt nhất là cuốn Hoa Nghiêm Kinh Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao, Sớ
là Thanh Lương đại sư chú giải lời kinh;
Sao là do Tông Mật đại sư[13]
chú giải lời Sớ. Thanh Lương đại sư
chú giải đơn giản nhưng sâu xa, học tṛ Ngài
là Tông Mật sợ hậu học nghiên cứu, xem đọc
gặp khó khăn, nên lại chú thích tường tận một
lần nữa. Đề tài lần giảng này là “Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện đích khải thị”,
không giải thích theo từng câu văn mà chỉ báo cáo
tường tận đại ư từng đoạn mà thôi.
B. GIẢI
THÍCH KINH VĂN
1. Mười
đại nguyện vương
Chánh kinh:
Nhĩ
thời, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát xưng thán Như
Lai thắng công đức dĩ, cáo chư Bồ Tát cập
Thiện Tài ngôn:
- Thiện
nam tử! Như Lai công đức, giả sử thập
phương nhất thiết chư Phật, kinh bất khả
thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần
số kiếp, tương tục diễn thuyết, bất
khả cùng tận. Nhược dục thành tựu thử
công đức môn, ưng tu thập chủng quảng đại
hạnh nguyện. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả, lễ kính chư Phật.
Nhị giả, xưng tán Như Lai.
Tam giả, quảng tu cúng dường.
Tứ giả, sám hối nghiệp
chướng.
Ngũ giả, tùy hỷ công đức.
Lục giả, thỉnh chuyển pháp
luân.
Thất giả, thỉnh Phật trụ
thế.
Bát giả, thường tùy Phật học.
Cửu giả, hằng thuận chúng sanh.
Thập giả, phổ giai hồi hướng.
(Lúc bấy
giờ, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát khen ngợi công
đức thù thắng của đức Như Lai xong, bảo
các Bồ Tát và Thiện Tài[14] rằng:
- Này thiện
nam tử! Công đức của Như Lai giả sử
mười phương hết thảy chư Phật trong
các số kiếp[15] nhiều như
số cực vi trần[16] trong bất khả
thuyết bất khả thuyết[17] Phật sát[18], diễn nói liên
tục, cũng chẳng thể nói cùng tận. Nếu muốn
thành tựu môn công đức này, hăy nên tu mười thứ
hạnh nguyện rộng lớn. Những ǵ là mười?
Một
là lễ kính chư Phật.
Hai là
xưng tán Như Lai.
Ba là rộng
tu cúng dường.
Bốn
là sám hối nghiệp chướng.
Năm là
tùy hỷ công đức.
Sáu là thỉnh
đức Phật chuyển pháp luân.
Bảy
là thỉnh đức Phật ở lại nơi đời.
Tám là
thường học theo đức Phật.
Chín là hằng
thuận chúng sanh.
Mười là hồi
hướng khắp tất cả).
“Phổ
Hiền Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của
Như Lai xong”: đây là câu
để tiếp ư quyển trước. Phẩm này thuộc
quyển thứ bốn mươi. Nửa phần sau quyển
thứ ba mươi chín là bài kệ tụng rất dài của
Phổ Hiền Bồ Tát ca ngợi công đức thù thắng
của Như Lai. Chữ “Như
Lai” ở đây chỉ chân tâm tự tánh của mỗi
người chúng ta, công đức của chân tâm mỗi
người chúng ta là vô lượng vô biên; lời ca tụng
của Phổ Hiền Bồ Tát chỉ là một giọt
nước trong biển cả đó thôi. Phổ Hiền Bồ
Tát nói nhiều như vậy cũng nói không hết, mới
chuyển đề tài, bảo cùng các Bồ Tát trong hội
và Thiện Tài rằng: “Công đức của Như Lai
giả sử mười phương hết thảy
chư Phật trong các số kiếp như số cực
vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết
Phật sát, diễn nói liên tục, cũng chẳng thể
nói cùng tận”.
Một câu
nói của Phổ Hiền Bồ Tát đă vạch trần
chỗ hay của việc thành Phật. Công đức của
tự tánh chúng ta, mười phương hết thảy
chư Phật trải vô lượng kiếp cùng xưng
nói cũng chẳng thể nói hết được. Học
Phật là để minh tâm kiến tánh, kiến tánh bèn thành
Phật; phải làm sao cho vô lượng vô biên công đức
trong tự tánh chúng ta đều hiện tiền, đều
hưởng được tác dụng của những công
đức đó. Tự tánh khởi tác dụng th́ có ích lợi
ǵ? Khiến cho chúng ta ngay trong một đời này đạt
được hạnh phúc, khoái lạc chân chánh, vĩnh viễn
chẳng có phiền năo, chẳng khởi vọng tưởng,
gia đ́nh mỹ măn, sự nghiệp thuận lợi, xă hội
yên ổn, tốt đẹp, thế giới ḥa b́nh; những
lợi ích nhỏ nhặt như thế đều có thể
đạt được. Lợi ích lớn nhất là
trường sanh bất lăo, vĩnh viễn chẳng chết.
Đấy đều là những lợi ích công đức
sẵn có nơi tự tánh. Chẳng thể không học Phật
pháp là do lư do này, v́ thế nhất định phải nỗ
lực tu học. Câu nói này của Phổ Hiền Bồ Tát
khiến chúng ta nhận thức rơ: Công đức của tự
tánh chẳng thể nghĩ bàn.
Phổ Hiền Bồ
Tát lại bảo cùng chúng ta: Muốn chứng đắc
công đức của tự tánh th́ phải tu mười
thứ hạnh nguyện rộng lớn, công đức của
tự tánh mới hiện tiền viên măn. Trong năm khoa mục
Tịnh Tông Học Hội thực hành th́ khoa mục cuối
cùng là mười đại nguyện vương. Mười
đại nguyện vương là tầng lầu thứ
năm, là tột đỉnh viên măn. Tầng thứ năm
cất dựa trên tầng thứ tư; tầng thứ
tư là Bồ Tát Lục Độ. Tầng thứ ba là Tam
Học Giới - Định - Huệ. Tầng thứ hai là
Lục Ḥa Kính. Tầng thứ nhất là ba phước. Ba
phước là cơ sở. Cứ y chiếu theo
phương pháp này mà nỗ lực tu học th́ ngay trong một
đời sẽ đạt đến cảnh giới
viên măn.
1.1. Nguyện thứ
nhất: Lễ kính chư Phật
Chánh kinh:
Thiện Tài bạch ngôn:
- Đại
Thánh! Vân hà lễ kính, năi chí hồi hướng?
Phổ Hiền Bồ Tát cáo Thiện Tài
ngôn:
- Thiện
nam tử! Ngôn lễ kính chư Phật giả: Sở hữu
tận pháp giới, hư không giới, thập
phương tam thế, nhất thiết Phật sát, cực
vi trần số chư Phật Thế Tôn, ngă dĩ Phổ
Hiền hạnh nguyện lực cố, thâm tâm tín giải,
như đối mục tiền, tất dĩ thanh tịnh
thân ngữ ư nghiệp, thường tu lễ kính. Nhất
nhất Phật sở, giai hiện bất khả thuyết
bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số
thân; nhất nhất thân biến lễ bất khả thuyết
bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số
Phật.
Hư
không giới tận, ngă lễ năi tận. Dĩ hư không
giới bất khả tận cố, ngă thử lễ kính
vô hữu cùng tận. Như thị năi chí chúng sanh giới tận,
chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă lễ
năi tận, nhi chúng sanh giới năi chí phiền năo vô hữu tận
cố, ngă thử lễ kính vô hữu cùng tận. Niệm niệm
tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ư
nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Thiện
Tài bạch rằng:
- Thưa
đại thánh! Thế nào là lễ kính cho đến hồi
hướng?
Phổ
Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng:
- Này thiện
nam tử! Nói “lễ kính[19] chư Phật”
là: [Đối với ] chư Phật Thế Tôn nhiều
như số cực vi trần trong tất cả hết thảy
cơi Phật tột cùng pháp giới, hư không giới[20], mười
phương ba đời, tôi do sức hạnh nguyện Phổ
Hiền, thâm tâm tín giải[21] , như đối
trước mắt, đều dùng thân ngữ ư nghiệp
thanh tịnh, thường tu tập sự lễ kính. Nơi
mỗi một đức Phật, đều hiện thân
như số cực vi trần trong bất khả thuyết
bất khả thuyết cơi Phật, mỗi một thân lễ
khắp chư Phật nhiều như số cực vi trần
trong bất khả thuyết bất khả thuyết cơi Phật.
Hư không có tận, sự lễ kính của tôi mới tận. V́ hư không chẳng thể tận nên sự lễ kính này của tôi chẳng có cùng tận. Như thế cho đến chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, sự lễ kính của tôi mới tận. Nhưng chúng sanh giới cho đến phiền năo chẳng có cùng tận, nên sự lễ kính này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng hề gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp chẳng hề mệt chán).
Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng
là hiếu kính; hiếu kính đến mức viên măn rốt
ráo là lễ kính chư Phật. Trong Đại Thừa Giới
Kinh, đức Phật khai thị rơ ràng: “Hiếu thuận
phụ mẫu, sư tăng, hiếu thuận với hết
thảy chúng sanh. Hiếu gọi là Giới”. Giới luật
Đại Thừa tạo dựng trên cơ sở hiếu
đạo. Chữ Hiếu thuộc loại Hội Ư: phía
trên là chữ Lăo, phía dưới là chữ Tử, ghép thành
chữ Hiếu. Trong chữ Hiếu, các đời
tương thông, đời chữ Lăo và một đời
sau cùng một thể. Một đời trên (Lăo) c̣n có một
đời trên nữa, quá khứ vô thỉ; một đời
dưới lại có một đời dưới nữa,
vị lai vô chung. Vô thỉ vô chung là một chỉnh thể.
Nh́n theo chiều dọc, tổ tiên và con cháu đời sau là
một thể; nh́n theo chiều ngang là anh em, thân thích, bè bạn;
anh em của anh em, thân thích của thân thích, bè bạn của
bè bạn, ngang khắp mười phương. Dọc suốt
ba đời, ngang cùng mười phương là toàn thể
của pháp giới. Chữ Hiếu là một phù hiệu
tiêu biểu toàn thể pháp giới. Chỉ có thành Phật mới
có thể tột cùng viên măn đạo Hiếu.
V́ sao chúng
ta phải học Phật? V́ chúng ta muốn viên măn tột
cùng đạo Hiếu, v́ biết tận hư không, khắp
pháp giới chỉ là chính ḿnh mà thôi! Bởi thế, chính Phổ
Hiền Bồ Tát tự nói: Muốn “lễ kính chư Phật”
th́ phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới mới có thể viên măn được nguyện ấy.
Phổ Hiền Bồ Tát là một nhân vật đại biểu
cho những người văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới trong mười phương thế giới.
Phổ Hiền Bồ Tát c̣n như thế, huống ǵ chúng
ta? Chúng ta muốn viên măn tột cùng đạo Hiếu, chỉ
c̣n cách noi theo Phổ Hiền Bồ Tát; không noi theo Ngài mà
toan thành Phật, chẳng có hy vọng ǵ đâu!
Trong kinh Phật
dạy, từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật là
ba đại A Tăng Kỳ kiếp, trong quá khứ chúng ta
đă tu cả vô lượng A Tăng Kỳ kiếp, cớ
sao chẳng thành Phật? Là v́ phiền năo không đoạn,
đời đời luân hồi lục đạo. Nhận
thức Tịnh Độ từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết
kinh Hoa Nghiêm cuối cùng là niệm Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, v́ thế ta mới
chết một ḷng khăng khắng niệm Phật cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phổ
Hiền Bồ Tát độ chúng ta vậy.
Lễ kính
chư Phật, chư Phật là ai? Phật dạy minh bạch:
“Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”; phàm các hiện
tượng do các duyên ḥa hợp mà sanh khởi th́ gọi là
“chúng sanh”. Chúng ta nghĩ coi: Có pháp nào chẳng phải là do
các duyên ḥa hợp sanh ra hay không? Chỉ có hư không mới
chẳng phải là do các duyên ḥa hợp sanh ra. Thân thể của
chúng ta, khăn mặt, giảng đường đều
là do các duyên ḥa hợp sanh ra, đều gọi là chúng sanh.
Kinh Hoa Nghiêm có một câu rất trọng yếu như sau: “T́nh
dữ vô t́nh, đồng viên chủng trí”. T́nh là hữu
t́nh chúng sanh, chỉ động vật, hữu t́nh chúng sanh
trong mười pháp giới. Vô T́nh là vô t́nh chúng sanh, chỉ
thực vật, khoáng vật. “Đồng viên chủng
trí” là thành Phật. Hữu t́nh chúng sanh có thể tu hành,
có thể niệm Phật, có thể thành Phật, c̣n vô t́nh
chúng sanh làm sao thành Phật được? Khăn mặt,
bàn ghế, khi nào chúng mới thành Phật?
Giờ
đây nhờ phẩm Hạnh Nguyện này chúng ta mới vỡ
lẽ: hữu t́nh chúng sanh là chư Phật, vô t́nh chúng sanh
cũng là chư Phật. Khi nào vô t́nh thành Phật vậy? Y
báo chuyển theo chánh báo. Ngày nào chúng ta thành Phật, liền
nhận thấy sơn hà đại địa, hết thảy
cỏ cây, vi trần thảy đều thành Phật cả,
đó là hiện tượng thành Phật. Nếu ngày nào tự
thấy ḿnh thành Phật, thấy người khác vẫn
chưa thành Phật, th́ nói thật ra, quư vị đang nằm
mộng, quư vị khởi vọng tưởng, chắc chắn
chẳng phải là thành Phật. Những điều kinh
Hoa Nghiêm dạy hoàn toàn là cảnh giới hiện lượng[22] của
Phật, Bồ Tát, là những điều các Ngài chính mắt
thấy, chính tai nghe, hoàn toàn là chân tướng sự thật,
chẳng phải là cảnh giới của phàm phu.
Làm thế
nào để học tập pháp môn này? Pháp môn ấy là pháp của
Pháp Thân đại sĩ tu tập; chúng ta là phàm phu, một
phẩm phiền năo chưa đoạn, chúng ta có thể tu
được chăng? Được chứ! Sách giáo khoa
thuộc phân ban tiến sĩ trong nhà Phật, chúng ta là học
tṛ mẫu giáo cũng áp dụng được, rất kỳ
diệu! Kinh điển Phật giáo chẳng thể
nghĩ bàn, là kinh điển viên dung. Sách giáo khoa cho kẻ
sơ học chính là kinh điển để thành Phật,
pháp môn bắt đầu từ việc học cung kính. Dùng
tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm cung kính
đối đăi hết thảy mọi người,
đó là lễ kính chư Phật. Chúng ta đối với
Phật, Bồ Tát cung kính phi thường, nhưng đối
với người khác kém hơn một tí, th́ chẳng phải
là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là hạnh
b́nh đẳng.
Mỗi khóa
kinh sáng chúng ta dùng tâm kiền thành cung kính nhất để
lễ Phật, sau đấy, dùng cái tâm đó đối
đăi người khác. Bất luận đối đăi
cha mẹ, người nhà, quyến thuộc, bằng hữu,
đồng sự, hết thảy người thiện kẻ
ác trong xă hội, đều dùng một tấm ḷng chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, cung kính để đối
đăi, đó là hạnh Phổ Hiền. Ngoài con người
ra, cũng phải dùng cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm
b́nh đẳng, tâm cung kính để đối đăi hết
thảy vạn vật. Khăn mặt là chư Phật,
dùng khăn xong đừng vo thành một cục vứt lung
tung, phải xả sạch, phơi khô, xếp ngay ngắn,
đó là thể hiện ḷng cung kính đối với nó. Bàn
ghế cũng là chư Phật, phải chùi sạch, xếp
ngay ngắn đó là ḷng cung kính đối với nó. Đối
với sự, bất cứ sự việc nào ḿnh đảm
trách cũng phải tận tâm tận lực làm cho viên măn,
đó là cung kính đối với sự, chẳng thể
qua loa tắc trách, đừng đùn đẩy lẫn
nhau.
Pháp môn này
khó, chẳng dễ tu, nó vốn là pháp tu của Đẳng
Giác Bồ Tát; chúng ta học lớp mẫu giáo, phải gắng
hết sức ḿnh dẫu chưa thể thực hiện
viên măn. Học được một phần là được
một phần lợi ích; lợi ích lớn lao chẳng thể
nghĩ bàn. Nêu một thí dụ: Nếu có thể dùng cái tâm chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, cung kính để đối
đăi người và sự vật th́ quư vị vĩnh viễn
chẳng sanh phiền năo, trong tâm khoái lạc khôn sánh, ngay lập
tức đạt được hạnh phúc, khoái lạc.
Hiện tại v́ sao quư vị chẳng hạnh phúc, sung
sướng? Là v́ trong tâm quư vị phân biệt kẻ này tốt,
người kia xấu, suốt một ngày từ sáng đến
tối phân biệt, chấp trước, phiền năo vọng
tưởng chẳng ngừng, làm sao quư vị hạnh phúc,
sung sướng cho được? Nếu muốn tu hạnh
phúc, sung sướng th́ hạnh Phổ Hiền là nhanh chóng
hữu hiệu nhất. Quư vị cứ thử mở rộng
tâm lượng đi. Chỉ cần quư vị chân chánh phát
tâm, Phổ Hiền Bồ Tát bèn gia tŕ quư vị. Kinh dạy:
“Tôi do sức hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín
giải, như đối trước mắt”. Thần
lực Phổ Hiền Bồ Tát gia tŕ, chúng ta nỗ lực
đôi chút, gắng sức đôi chút, cũng có thể
đạt được mấy phần.
“Đều
dùng thân ngữ ư nghiệp thanh tịnh, thường tu tập
sự lễ kính”: Lễ là
lễ mạo, lễ tiết. Chẳng những đối
với người phải có lễ, mà đối với
vật cũng phải có lễ. Nếu tâm chí thành cung kính,
biểu hiện bên ngoài sẽ hợp với lễ tiết.
Tâm thanh tịnh là chân tâm, trong tâm thanh tịnh chẳng có thị
phi nhân ngă, phân biệt, chấp trước. Bồ Tát dùng
tâm thanh tịnh để tu tập lễ kính thường
chẳng gián đoạn. Tu học Phật pháp thành hay bại
cốt ở tâm nhẫn nại. Có nhiều người lúc
mới phát tâm rất dũng mănh, được mấy
ngày bèn ngă ḷng. Nếu có thể giữ được cái
tâm ban đầu chẳng thoái chuyển th́ không có một ai
chẳng thành Phật chỉ trong một đời. Ở
đây, Phổ Hiền Bồ Tát làm gương, khuyến
khích chúng ta phải ǵn giữ cái tâm ban đầu. Ngài nói: “Hư
không giới tận, sự lễ kính của tôi mới tận”.
Hư không giới chẳng thể tận, chúng ta phát nguyện
tu đại hạnh Phổ Hiền, cũng chẳng thể
thoái chuyển. Ngài lại nói: “Chúng sanh giới tận,
chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, sự
lễ kính của tôi mới tận”. Thế giới nhân
khẩu ngày càng tăng trưởng, chúng sanh giới chẳng
tận. Phiền năo của chúng sanh cũng mỗi ngày một
nhiều hơn. Chỉ có học Phật đắc lực,
phiền năo mới giảm thiểu. Phiền năo ít đi,
trí huệ bèn tăng trưởng. Phiền năo của chúng
sanh chẳng thể tận, chúng ta bắt chước Phổ
Hiền Bồ Tát lễ kính, đương nhiên cũng chẳng
có ngày cùng tận.
Phổ Hiền
Bồ Tát lại khuyên lơn chúng ta: “Niệm niệm tiếp
nối, chẳng có gián đoạn”. Đấy là bí quyết
công phu. Người niệm Phật thực hiện
được hai câu này trong ṿng từ ba tháng đến nửa
năm, công phu niệm Phật đắc lực, quyết
định đạt được công phu thành phiến.
Hai câu này ư nghĩa hoàn toàn tương đồng với
câu “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”
của Đại Thế Chí Bồ Tát trong hội Lăng
Nghiêm.
“Thân ngữ
ư nghiệp chẳng hề chán mệt”: Thân phải thực hiện; chúng ta thấy
ai cũng phải lễ kính; ngôn ngữ phải cân nhắc,
tâm phải thật sự thanh tịnh, b́nh đẳng, cung
kính. Phổ Hiền Bồ Tát dụng tâm thanh tịnh cho nên
chẳng mệt mỏi, chẳng buồn phiền. Chúng ta dụng
tâm phân biệt, tâm nhiễm ô, nên trong một thời gian dài
sẽ mệt mỏi. Trong công việc hằng ngày dùng tâm
thanh tịnh, tâm hoan hỷ, tâm lợi ích chúng sanh mà làm, dù
công việc vừa nhiều vừa nặng nề, cũng
chẳng thấy mệt mỏi, chán nản. Đó là
được mấy phần lợi ích do công phu tu học
Phổ Hiền hạnh.
Cảnh giới của
Phổ Hiền Bồ Tát rộng lớn, đấy chính là
điểm khác biệt so với hạnh của các Bồ
Tát khác. Phổ Hiền hạnh là hạnh xứng tánh. Bản
tánh Chân Như rộng lớn phi thường, Phật
thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”
(tâm gồm khắp hư không, lượng trọn các
cơi nước nhiều như cát). Mỗi một hạnh
nguyện của Phổ Hiền hạnh đều
tương ứng với tự tánh; bởi thế, mỗi
một hạnh nguyện đều bao trùm hư không pháp giới.
Chẳng những tâm địa Phổ Hiền Bồ Tát
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi, mà c̣n rộng
lớn vô lượng. Dùng cái tâm như vậy để tu
hành th́ hạnh môn ấy mới gọi là Phổ Hiền Hạnh!
1.2. Nguyện thứ
hai: Xưng tán Như Lai
Chánh kinh:
Phục
thứ, thiện nam tử! Ngôn xưng tán Như Lai giả,
sở hữu tận pháp giới, hư không giới, thập
phương tam thế, nhất thiết sát độ, sở
hữu cực vi, nhất nhất trần trung, giai hữu
nhất thiết thế gian cực vi trần số Phật.
Nhất nhất Phật sở, giai hữu Bồ Tát hải
hội vi nhiễu. Ngă đương tất dĩ thậm
thâm thắng giải, hiện tiền tri kiến, các dĩ
xuất quá Biện Tài thiên nữ vi diệu thiệt
căn. Nhất nhất thiệt căn xuất vô tận âm
thanh hải. Nhất nhất âm thanh, xuất nhất thiết
ngôn từ hải, xưng dương tán thán nhất thiết
Như Lai chư công đức hải, cùng vị lai tế,
tương tục bất đoạn, tận ư pháp giới
vô bất châu biến.
Như
thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận,
chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă
tán năi tận, nhi hư không giới năi chí phiền năo vô hữu
tận cố, ngă thử tán thán vô hữu cùng tận. Niệm
niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân
ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Lại
nữa thiện nam tử! Nói “xưng tán Như Lai” là: Tất
cả cực vi trần trong tất cả hết thảy
cơi nước cùng tận pháp giới, hư không giới,
mười phương ba đời. Trong mỗi một
vi trần đều có chư Phật nhiều như số
cực vi trần trong hết thảy thế gian, nơi mỗi
đức Phật đều có hải hội[23] Bồ Tát vây
quanh. Tôi sẽ đều dùng sự hiểu biết thù thắng[24] rất sâu, tri kiến
hiện tiền[25], [trước mỗi
đức Phật] đều hiện lưỡi vi diệu
hơn lưỡi của Biện Tài thiên nữ[26]. Mỗi một
lưỡi phát xuất vô tận biển âm thanh. Mỗi một
âm thanh phát xuất hết thảy biển ngôn từ,
xưng dương tán thán biển công đức của hết
thảy Như Lai đến cùng tận đời vị
lai liên tục chẳng ngừng, tột cùng pháp giới
không đâu chẳng trọn khắp.
Như thế
hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh
nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, tôi khen ngợi
mới tận. Nhưng v́ hư không giới cho đến
phiền năo chẳng có cùng tận, sự tán thán này của
tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối,
chẳng có gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp chẳng
hề mệt chán)
Như Lai
khác với chư Phật như thế nào? V́ sao không nói
“xưng tán chư Phật”? Chư Phật và Như Lai có sai
khác. Kinh nói Phật, nói đến chư Phật là nói từ
mặt Tướng, nói trên mặt Sự. Nói đến
Như Lai là nói từ Tánh (bản tánh). Trên mặt sự
tướng chúng ta phải b́nh đẳng cung kính, chẳng
phân biệt, chấp trước. Chúng ta tôn kính Phật, Bồ
Tát; phàm phu, quỷ thần chúng ta cũng phải tôn kính. Tâm
tôn kính và lễ mạo [phàm phu, quỷ thần] và tâm tôn kính
chư Phật chẳng sai khác, cho đến kính sự,
kính vật cũng chẳng sai biệt. Đó gọi là “lễ
kính chư Phật”.
Xưng tán
không giống như thế. Lễ kính là vô điều kiện,
xưng tán có điều kiện. Kẻ ác làm chuyện ác,
chẳng thể khen ngợi việc họ làm là rất tốt.
Sát sanh và trộm cắp cũng chẳng thể khen ngợi.
Kẻ sát sanh và trộm cắp chúng ta phải lễ kính,
nhưng việc họ làm chúng ta chẳng thể khen ngợi
được. Xưng tán là có điều kiện, phải
là thiện hạnh và tương ứng với tự tánh
th́ mới xưng tán. Chẳng tương ứng tự
tánh th́ chúng ta lễ kính nhưng không xưng tán.
Phương
pháp tu hành này có thể thấy từ năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài đồng tử. Năm
mươi ba vị thiện tri thức thị hiện các
hạnh, các nghiệp, có những hạnh nghiệp đáng
nên tán thán, có những hạnh nghiệp chẳng thể tán
thán. Thiện Tài đồng tử lễ kính năm
mươi ba vị thiện tri thức, đảnh lễ
ba lạy, hữu nhiễu ba ṿng, thái độ cung kính hoàn
toàn tương đồng như kính Phật và tán thán bọn
họ. Thế nhưng, đối với ba người,
Thiện Tài chỉ b́nh đẳng đảnh lễ
nhưng không tán thán: Thắng Nhiệt Bà La Môn đại diện
cho ngu si, Cam Lộ Hỏa Vương nóng tánh, đại diện
cho sân khuể; Phạt Tô Mật Đa nữ là kỹ nữ,
đại diện tham ái. Tham - Sân - Si là ba độc phiền
năo, Thiện Tài chẳng xưng tán.
Xưng tán
là khen ngợi cái hay, ngôn hạnh của người đó
rất đáng học theo, đáng làm gương cho chúng ta
th́ mới được đại chúng tán thán. Ngôn hạnh
chẳng đáng cho mọi người bắt chước
theo th́ chẳng thể tán thán. Sự xưng tán của Phổ
Hiền Bồ Tát là xứng tánh, chẳng giống với
việc khen ngợi b́nh thường, bởi lẽ dụng
tâm chẳng tương đồng, mục đích chẳng
tương đồng, cảnh giới cũng chẳng
tương đồng, giống như chư Phật khen
ngợi nhau. Chủ - bạn chứa đựng lẫn
nhau, hết thảy chư Phật cũng khen ngợi lẫn
nhau. Kinh A Di Đà vốn là kinh “được hết thảy
chư Phật hộ niệm”. Không vị Phật nào chẳng
giảng kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ. Giảng
kinh là tán thán A Di Đà Phật, tán thán y chánh trang nghiêm của
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cùng một
đạo lư đó, A Di Đà Phật cũng tán thán mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai.
Trong Phật
pháp thường nói đến pháp môn Tổng Tŕ, Tổng
Tŕ là nắm giữ vững tổng cương lănh. Tổng
tŕ tán thán th́ ngôn ngữ rất đơn giản nhưng ư
nghĩa sẽ viên măn như giảng kinh. Tổng tŕ tán thán
là chấp tŕ danh hiệu. Hết thảy các kinh do Thích Ca
Mâu Ni Phật giảng trong bốn mươi chín năm
đều nằm trong một câu Phật hiệu “A Di
Đà Phật”. Niệm câu Phật hiệu này là niệm hết
tất cả hết thảy kinh đức Thế Tôn
đă giảng trong bốn mươi chín năm,
phương tiện đơn giản, mới biết danh
hiệu có công đức to lớn như thế. Niệm A
Di Đà Phật là xưng tán Như Lai.
Xưng tán
Như Lai lại c̣n có một tầng ư nghĩa sâu phi thường.
Như Lai là Chân Như bản tánh. Chân Như bản tánh của
hết thảy chư Phật và Chân Như bản tánh của
chính chúng ta là một, chẳng phải hai. Xưng tán Như
Lai là xưng tán tánh đức của Chân Như bản tánh
của chính ḿnh. A Di Đà Phật chính là chúng ta, Tây Phương
Cực Lạc thế giới cũng là chính chúng ta, nên nói: “Tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Tự tánh là
Như Lai, duy tâm cũng là Như Lai. Niệm Phật là khuôn
phép xưng tán Như Lai cao nhất. Niệm kinh Vô Lượng
Thọ, kinh A Di Đà cho đến đọc tụng hết
thảy kinh điển Đại Thừa đều là
xưng tán Như Lai. Chúng ta dùng cái tâm thanh tịnh chân thành rộng
lớn khôn sánh để xưng niệm, đọc tụng
sẽ tương ứng với nguyện này.
Muốn
xưng tán đến mức viên măn chẳng dễ dàng ǵ. Dẫu
chẳng dễ dàng chúng ta vẫn phải nỗ lực, làm
được một phần là tốt một phần.
Chân chánh phát tâm tu học sẽ được Phổ Hiền
Bồ Tát, A Di Đà Như Lai, hết thảy chư Phật
gia tŕ. Học Phật chẳng những nhằm để
chính ḿnh tu học đạt được lợi ích chân
thật, mà c̣n là để báo ân Phật, ân cha mẹ, ân
sư trưởng, ân hết thảy chúng sanh, phải
đem những điều hay chân thật phổ biến,
đề cao, giới thiệu cho mọi người.
Đề cao, giới thiệu là xưng tán Như Lai. Tổ
chức pháp hội diễn giảng kinh điển là
xưng tán, khuyên người niệm Phật là xưng tán,
cho đến tại bất cứ thời gian, địa
điểm nào, chúng ta chắp tay niệm một câu A Di
Đà Phật đều là xưng tán cả. Xưng tán
như thế được oai thần của Phật gia
tŕ, được cảm ứng hiện tiền là biện
tài. Trước kia chẳng khéo ăn nói, nay nói rất khéo,
đó là Phật lực gia tŕ. C̣n có một sự thật
do chính tôi thể nghiệm: Kinh điển Phật pháp (thiện
pháp) tôi nói rất dễ, ác pháp một câu nói không được.
Với thiện pháp có biện tài, với ác pháp không có vậy!
Cảnh giới
của nguyện này cũng rộng lớn giống như
nguyện trước. Phổ Hiền Bồ Tát nói: “Xưng
dương tán thán biển công đức của hết thảy
Như Lai đến tận cùng đời vị lai, liên tục
chẳng đoạn, tột cùng pháp giới, không đâu chẳng
trọn khắp”. Chúng ta có làm được như thế
hay không? Điều này thật sự tùy thuộc tâm lượng
của chúng ta. Giống như sóng vô tuyến điện,
chỉ cần chẳng bị núi cao ngăn trở, sóng
điện phát xạ truyền xa vô lượng vô biên; nếu
trong khoảng đó bị chướng ngại th́ sóng
điện bị gián cách. Tâm của chúng ta cũng giống
như thế: Trong tâm có phân biệt, có chấp trước,
có phiền năo như núi cao, âm ba xưng dương liền
bị chướng ngại, bèn có phạm vi, chẳng thể
trọn khắp pháp giới tột cùng hư không. Nếu
tâm quư vị rất thanh tịnh, chẳng có phân biệt, chấp
trước, chẳng có vọng tưởng, công đức
xưng dương đúng là trọn khắp pháp giới, tột
cùng hư không. Do đây biết rằng: mấu chốt thật
sự là Nhất Tâm, dùng ba tâm (tức tâm vọng tưởng,
chấp trước, phân biệt) th́ chướng ngại
trùng trùng, chẳng thể trọn khắp.
Phật dạy
chúng ta: Quyền Giáo Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, lục
đạo phàm phu đều dùng tám Thức. Tám Thức quy
nạp lại là ba tâm hai ư. Ba tâm là A Lại Da Thức, Mạt
Na Thức và Đệ Lục Thức. Nhị Ư chỉ Mạt
Na Thức (thức căn) và Đệ Lục Thức (ư thức).
Chẳng dùng tam tâm nhị ư là dùng Chân Như bản tánh, chỉ
cần dùng được Chân Như bản tánh quyết
định sẽ trọn khắp pháp giới. Sách Lăng
Nghiêm Chánh Mạch chú giải kinh Lăng Nghiêm của Giao
Quang đại sư căn cứ vào nghĩa kinh, dạy
chúng ta “bỏ Thức dùng Căn”. Bỏ Thức là
trong sanh hoạt thường nhật, thấy Sắc nghe
Tiếng chớ dùng tám Thức mà phải dùng Chân Tánh. Phàm
phu mắt thấy là dùng Nhăn Thức để thấy, tai
nghe là dùng Nhĩ Thức để nghe, tức là dùng sáu Thức.
Đại sư dạy chúng ta dùng tánh Thấy để
nh́n, dùng tánh Nghe để nghe, xoay trở lại như vậy,
lập tức thành Phật. Bỏ Thức, dùng Tánh của
Căn. Tánh của Căn là thật, chẳng phải hư
vọng. Đại Sư đề xướng rất
hay, đích thực là bổn ư giảng kinh Lăng Nghiêm của
Thế Tôn, chẳng hiểu sai lạc.
Trong phần
Tự, đại sư Giao Quang có kể một câu chuyện
đáng cho chúng ta thức tỉnh, học theo. Giao Quang đại
sư mắc bệnh nặng, A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn Ngài văng sanh. Công phu niệm Phật chẳng
lầm, Phật đến tiếp dẫn, Ngài sực
nghĩ các bản chú giải kinh Lăng Nghiêm từ cổ
đến nay đều chưa nói lên được bổn
ư của Phật. Ngài hướng về A Di Đà Phật
xin hẹn, mong ở lại thế gian để viết bản
chú giải mới cho kinh Lăng Nghiêm, chú giải xong mới
đi. A Di Đà Phật gật đầu cho phép, Sư
được lành bệnh. Đó cũng là sanh tử tự
tại, đến đi tự do. Bởi thế, âm thanh
xưng tán chẳng thể trọn khắp pháp giới th́
chúng ta phải coi lại ḿnh đang dùng cái tâm ǵ. Cổ
đại đức dạy chúng ta hai nguyên tắc lớn
để học Phật:
1) Nghe kinh
phải “tiêu quy tự tánh”: nghe xong phải
tương ứng với tự tánh, trọn chẳng
được vừa nghe vừa suy nghĩ lung tung.
2) Tu hành chẳng
quản là niệm Phật, tŕ chú hay tham thiền, tám vạn
bốn ngàn pháp môn đều phải “chuyển Thức
thành Trí”. Đấy cũng như nói chẳng dùng tám Thức,
chẳng dùng ba tâm hai ư, phải dùng Tự Tánh, dùng căn
tánh của sáu căn vậy.
“V́ hư
không giới cho đến phiền năo chẳng có cùng tận,
sự tán thán này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm
niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn”: Bồ Tát dạy chúng ta nhất tâm
xưng niệm, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp,
chẳng hoài nghi mà tu học pháp môn này. “Thân ngữ ư nghiệp
chẳng hề mệt chán”: chẳng có chán nản, mệt
mỏi. Nếu dụng công đắc lực đúng pháp,
xác thực là chẳng mệt, chẳng chán. Có đồng
tu niệm Phật đắc lực, một câu Phật hiệu
trong lúc ngủ vẫn niệm, mệt mỏi cũng vẫn
niệm, niệm đến thân tâm tự tại, khoái lạc
khôn sánh. Người chân chánh niệm Phật, càng niệm
tinh thần càng phấn chấn, thân thể càng khỏe mạnh.
Thân thể
chúng ta do v́ có vọng tưởng, chấp trước, phiền
năo nên thân thể phát sanh biến hóa, biến thành chẳng
b́nh thường, có bệnh tật. Hiện tại, địa
cầu bị môi trường ô nhiễm, mất cân bằng
sanh thái, địa cầu đổ bệnh cũng chẳng
b́nh ổn. Xú khí tằng (tầng ozone) bị lủng, trời
cũng bất b́nh thường. Thân thể có bệnh mà thể
chất biến đổi sẽ tự nhiên khôi phục
b́nh thường. Thế nào là tự nhiên? Trong tâm chẳng
có sự là tự nhiên. Tâm vốn là vô sự. Lục Tổ
đại sư nói: “Bổn lai vô nhất vật” (vốn
không có một vật). Vốn không có một vật là tự
nhiên. Nếu như tâm quư vị thanh tịnh, chẳng có vật
ǵ, thân quư vị sẽ tự nhiên khôi phục, tế bào
nơi thân thể đổi mới tổ chức, trở
thành ổn định vô cùng, thân thể bèn khang kiện,
cũng chẳng đổ bệnh, sống lâu.
Người trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới ai nấy vô
lượng thọ, ai nấy trường sanh bất lăo,
nguyên nhân là do họ vĩnh viễn giữ ǵn tự nhiên.
Muốn biến đổi thể chất chỉ có tu tâm
thanh tịnh. Thế gian bàn chuyện thuốc men, tẩm bổ
đều chẳng đáng tin. Người tánh t́nh ôn ḥa thiện
lương chẳng dễ sanh bệnh; người nóng nảy,
hung hăng, tánh t́nh bất hảo thường hay đau bệnh.
Biết được chân tướng sự thật, liền
hiểu nên làm như thế nào. Thân ngữ ư nghiệp không
mệt chán là cương lănh tu học, cũng là công phu chân
chánh, phải nỗ lực học tập.
1.3. Nguyện thứ
ba: Rộng tu cúng dường[27]
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn quảng
tu cúng dường giả: Sở hữu tận pháp giới,
hư không giới, thập phương tam thế nhất
thiết Phật sát, cực vi trần trung, nhất nhất
các hữu nhất thiết thế giới cực vi trần
số Phật, nhất nhất Phật sở, chủng chủng
Bồ Tát hải hội vi nhiễu, ngă dĩ Phổ Hiền
hạnh nguyện lực cố, khởi thâm tín giải, hiện
tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu
chư cúng dường cụ, nhi vi cúng dường.
Sở
vị: hoa vân, man vân, thiên âm nhạc vân, thiên tán cái vân, thiên y
phục vân, thiên chủng chủng hương, đồ
hương, thiêu hương, mạt hương. Như thị
đẳng vân, nhất nhất lượng như Tu Di
Sơn vương. Nhiên chủng chủng đăng: tô
đăng, du đăng, chư hương du đăng,
nhất nhất đăng chú như Tu Di sơn, nhất nhất
đăng du như đại hải thủy. Dĩ
như thị đẳng chư cúng dường cụ,
thường vi cúng dường.
Thiện nam tử! Chư cúng dường trung,
pháp cúng dường tối. Sở vị: Như thuyết
tu hành cúng dường, lợi ích chúng sanh cúng dường,
nhiếp thọ chúng sanh cúng dường, đại chúng
sanh khổ cúng dường, cần tu thiện căn cúng
dường, bất xả Bồ Tát nghiệp cúng dường,
bất ly Bồ Đề tâm cúng dường.
Thiện nam tử! Như tiền cúng dường
vô lượng công đức, tỷ pháp cúng dường nhất
niệm công đức, bách phận bất cập nhất,
thiên phận bất cập nhất, bách thiên câu-chi na-do-tha
phần, ca-la phần, toán phần, số phần, dụ phần,
ưu-ba-ni-sa-đà phần diệc bất cập nhất.
Hà dĩ cố?
Dĩ chư Như Lai tôn trọng pháp cố,
dĩ như thuyết hành xuất sanh chư Phật cố.
Nhược chư Bồ Tát hành pháp cúng dường, tắc
đắc thành tựu cúng dường Như Lai. Như thị
tu hành, thị chân cúng dường cố. Thử quảng
đại tối thắng cúng dường, hư không giới
tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận,
chúng sanh phiền năo tận, ngă cúng năi tận, nhi hư không
giới, năi chí phiền năo bất khả tận cố, ngă
thử cúng dường diệc vô hữu tận. Niệm
niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân
ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Lại
này thiện nam tử! Nói rộng tu cúng dường là: Tất
cả hết thảy các cơi Phật trong mười
phương ba đời tận cùng pháp giới, hư
không giới, trong mỗi một cực vi trần đều
có chư Phật nhiều như số cực vi trần
trong hết thảy thế giới, nơi mỗi đức
Phật có các hải hội Bồ Tát vây quanh. Tôi do sức
hạnh nguyện Phổ Hiền khởi tín giải sâu, tri
kiến hiện tiền, thảy đều dùng vật cúng
dường thượng diệu để cúng dường.
Như
là: mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng trời,
mây y phục trời, các thứ hương trời:
hương xoa[28], hương
đốt, hương bột[29]. Các mây như thế
mỗi một mây lượng như núi chúa Tu Di. Thắp
các thứ đèn: đèn thắp bằng chất tô[30], đèn dầu,
các loại đèn dầu thơm. Mỗi một tim đèn
như núi Tu Di, dầu trong mỗi đèn như nước
biển cả. Dùng các vật cúng dường như thế
để thường cúng dường.
Này thiện
nam tử! Trong các pháp cúng dường, pháp cúng dường
quư nhất. Ấy là: cúng dường bằng cách tu hành
đúng theo lời dạy, cúng dường bằng cách làm lợi
chúng sanh, cúng dường bằng cách nhiếp thọ chúng
sanh, cúng dường bằng cách chịu khổ thế cho
chúng sanh, cúng dường bằng cách siêng tu thiện
căn, cúng dường bằng cách chẳng xả nghiệp
Bồ Tát, cúng dường bằng cách chẳng ĺa Bồ
Đề tâm.
Này thiện
nam tử! Vô lượng công đức cúng dường
như trên so với công đức pháp cúng dường trong
một niệm chẳng bằng một phần trăm, chẳng
bằng một phần ngàn, cũng chẳng bằng
được một phần của trăm ngàn câu-chi
na-do-tha, ca-la phần, toán phần, số phần, dụ phần,
ưu-ba-ni-sa-đà phần[31]. V́ sao thế?
V́ các Như Lai tôn trọng
pháp, v́ tu hành đúng như lời dạy sẽ sanh ra
chư Phật. Nếu các Bồ Tát hành pháp cúng dường
th́ được thành tựu cúng dường Như Lai. Tu
hành như thế là chân cúng dường vậy. Sự cúng
dường rộng lớn tối thắng này, hư không
giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp
tận, chúng sanh phiền năo tận, sự cúng dường
của tôi mới hết. Nhưng v́ hư không giới cho
đến phiền năo chẳng thể tận nên sự
cúng dường này của tôi cũng chẳng có tận. Niệm
niệm nối tiếp, chẳng có gián đoạn. Thân ngữ
ư nghiệp chẳng hề mệt chán)
Cúng dường
là tu phước. Con người chẳng thể không có
phước, không có phước thường gặp khổ
sở. Có phước báo, cuộc sống của quư vị
sẽ tự tại vô cùng, hạnh phúc sung sướng vô
cùng. Phước báo do đâu có? Phước báo là do tu bố
thí cúng dường mà được. Trong Lục Độ
của Đại Thừa Bồ Tát, thứ nhất là Bố
Thí. Sự bố thí của Phổ Hiền Bồ Tát gọi
là Cúng Dường. Tâm bố thí của Phổ Hiền Bồ
Tát chân thành, thanh tịnh, rộng lớn, b́nh đẳng,
dùng tâm như thế để bố thí th́ gọi là Cúng
Dường; không có tâm như thế th́ gọi là Bố
Thí. Bố thí phước báo nhỏ, cúng dường
phước báo lớn; bởi lẽ tâm lượng bố
thí nhỏ, tâm lượng cúng dường rất lớn.
Phước báo tỷ lệ thuận với tâm lượng,
tâm lượng lớn th́ phước báo lớn.
Có rất
nhiều thứ phước báo, kinh Phật quy nạp thành
ba loại lớn: giàu có, thông minh trí huệ, mạnh khỏe
sống lâu. Sống lâu mạnh khỏe chẳng cần
đến người khác trông nom, săn sóc, thật sự
là phước báo. Phật dạy chúng ta: ba thứ phước
báo là quả báo, chẳng tu nhân làm sao quư vị có được
quả báo?
a) “Tài bố
thí” (bố thí bằng tài vật)
được giàu có. Người đại phú quư trong thế
gian vận may, mạng tốt, làm ǵ cũng sanh lợi; quư
vị làm ǵ cũng lỗ lă, cụt vốn. Nói thật ra,
chẳng phải do cơ hội, chẳng phải là vận
may, cũng chẳng phải do thông minh trí huệ, mà do trong
đời quá khứ họ tu nhân, nên trong đời này
đương nhiên họ được phước báo
đó. Dùng tài vật của chính ḿnh bố thí cúng dường
sẽ hưởng thọ quả báo giàu có vĩnh viễn
chẳng hết. Hiện tại, nhờ cậy con cái nuôi
ḿnh lúc tuổi già là chuyện khó mong, người thế
gian cứ nghĩ bên ḿnh phải có chút tiền của mới
chắc ăn, vạn nhất gặp phải tai nạn
ngoài ư muốn như hỏa tai, nước lụt, bị
giặc cướp đoạt mất, tiền của mất
hết, quư vị làm cách nào đây? Vẫn chẳng chắc
ăn chi hết. Gởi trong ngân hàng cũng chẳng chắc
ăn, ngân hàng cũng có thể bị đóng cửa. Chắc
ăn nhất là tu Bố Thí, dùng của cải bố thí
cúng dường hết thảy đại chúng, tích trữ
như vậy mới chắc ăn; lúc ḿnh cần đến
sẽ có người cho ḿnh, cúng dường ḿnh. Rất
nhiều người chẳng hiểu rơ đạo lư này,
cho là không chắc ăn, chẳng dám làm. Chẳng dám làm là
không tin Phật, bởi lẽ bố thí được giàu
có là do chính đức Phật nói. Có tiền bèn bố thí, bố
thí sạch sành sanh, trong tâm thật là khoái lạc, đến
lúc đó “trong nhà Phật, có cầu ắt ứng”,
nghĩ đến cái ǵ, cái đó bèn đến.
Tôi học
Phật hai mươi sáu năm, Chương Gia đại
sư dạy tôi: “Trong nhà Phật có cầu ắt ứng
là thật đấy, nhưng phải biết tu, phải
biết tu nhân! Anh chẳng cần phải sợ hăi, phải
tin tưởng Phật, Phật chẳng lừa dối
chúng ta”. Tôi nghe lời thầy, sanh hoạt vô cùng tiết
kiệm, bớt tiền ra bố thí, dùng để phóng
sanh, giúp đỡ tiền thuốc men cho người nghèo,
tiền dư nhiều mới mua sách. Cho đến tận
bây giờ vẫn bố thí như vậy. Năm trước,
ở Đức Châu (Texas), Mỹ quốc, các đồng
tu tại đó muốn lập đạo tràng, là chuyện
tốt, nhưng tôi không có tiền. Vừa mới nghĩ vậy,
chưa đầy ba tháng sau, có rất nhiều người
gởi tiền cho, đương nhiên có tiền lập Phật
đường. Pḥng ốc đó là do Phật, Bồ Tát kiến
tạo. Nếu dùng tiền tài để hoằng pháp lợi
sanh là thích đáng nhất. Tôi học Phật, nghe theo lời
thầy, y giáo phụng hành bốn mươi năm, chính
tôi được cảm ứng, đúng là “hữu nguyện
tất thành”. Phước nhất định phải
gieo nơi ruộng phước; hoằng pháp lợi sanh là
phước điền. Tiền của tôi đều dùng
để in kinh,
b) “Pháp bố
thí”: Nếu có cơ duyên
đem phương pháp lư luận tu học của chính ḿnh,
những điều hay ḿnh đạt được tŕnh
bày với mọi người, khiến mọi người
cũng chiếu theo phương pháp lư luận tu học ấy.
Ấy gọi là Pháp Bố Thí. Mấy năm gần đây,
tôi đến các nơi trên thế giới giảng kinh, phổ
biến giới thiệu Tịnh Độ Tông, đó là
Pháp Bố Thí.
c) “Vô Úy Bố
Thí”: Trong tâm chúng sanh có ngờ
vực, có sợ hăi, có khó khăn, nếu chúng ta có năng lực
bèn giúp họ giải quyết, khiến tâm họ được
b́nh an, thân được an ổn; sự giúp đỡ
như thế gọi là Vô Úy Bố Thí.
Tu Tài Bố
Thí được giàu có, tu Pháp Bố Thí được
thông minh trí huệ, tu Vô Úy Bố Thí được sống
lâu mạnh khỏe, ba thứ quả báo ấy chúng ta đều
cần; v́ vậy, phải nỗ lực tu học ba thứ
Bố Thí th́ mới có quả báo thù thắng. Nếu chẳng
tu nhân, mỗi ngày cầu Phật, Bồ Tát, cúng dường
hương, hoa, nước, quả, nịnh nọt Phật,
Bồ Tát ḥng các Ngài bảo hựu ban cho quư vị phước
báo, chẳng hề có chuyện như vậy đâu! Phật,
Bồ Tát dạy chúng ta tu nhân, tu nhân mới được
quả!
“Trong các
cúng dường, pháp cúng dường quư nhất”: mọi người chỉ biết Tài Bố
Thí được giàu có, Pháp Bố Thí được thông
minh trí huệ, chẳng biết sự viên dung trong quả
báo để chuyên tâm tu Pháp Bố Thí. Có trí huệ, quư vị
chẳng bần cùng, có trí huệ nhất định quư vị
có thể điều thân điều tâm, nên bèn được
khỏe mạnh trường thọ. Do đây biết rằng:
Cái quư báu nhất trong thế gian chẳng phải là giàu có
mà là trí huệ. Một lời của Phổ Hiền Bồ
Tát nói toạc ra: Trong các cúng dường, pháp cúng dường
thù thắng nhất.
Phạm vi
của Pháp Cúng Dường rộng lớn vô biên, Bồ Tát
nêu tượng trưng bảy loại:
1) Cúng dường bằng cách tu hành
đúng theo lời dạy:
Những
đạo lư đức Phật giảng trong kinh điển,
chúng ta phải hiểu rơ, phải thể hội. Phật,
Bồ Tát dạy chúng ta nên làm những việc ǵ, chúng ta phải
làm theo đó, những việc nào chẳng nên làm, chúng ta tuyệt
đối chẳng làm. Chiếu theo lời Phật, Bồ
Tát giáo huấn, sửa đổi cho đúng cách nghĩ,
cách nh́n, cách nói, cách làm lầm lạc của chúng ta. Đó gọi
là “cúng dường bằng cách tu hành đúng theo lời dạy”.
Cúng dường bằng hương, hoa, nước, trái
cây chỉ nhằm biểu hiện ḷng cung kính của chúng
ta mà thôi, Phật, Bồ Tát chẳng cần đến những
thứ ấy đâu!
Trong mỗi
niệm, Phật, Bồ Tát hy vọng chúng ta mau thành Phật,
trở thành giống như các ngài. Chúng ta học Phật với
mục đích thành Phật, văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới là một phương cách trọng yếu
để thành Phật. Kinh điển để y cứ
trong Tịnh Độ Tông là Tịnh Độ Ngũ Kinh
và một Luận, những điều nói trong đó chúng ta
đều có thể hiểu được, đều có
thể làm theo được, đó là “cúng dường bằng
cách tu hành đúng theo lời dạy”. Năm ngoái, ở
Tân Gia Ba có một bà cụ nghe nói pháp môn Niệm Phật,
hoan hỷ vô cùng, ở nhà suốt một ngày từ sáng
đến tối niệm A Di Đà Phật, niệm bảy
tháng biết trước lúc mất, chẳng bệnh, ngồi
văng sanh. Bởi thế, hiện tại ở Tân Gia Ba và Mă
Lai Á người niệm Phật rất đông. Đài Loan
cũng có người niệm Phật nửa năm, đứng
mà qua đời. “Như thuyết tu hành” là y giáo phụng
hành, là cúng dường chân chánh vậy.
2) Cúng dường bằng cách lợi ích
chúng sanh:
Bồ Tát
niệm niệm độ chúng sanh, niệm niệm đều
muốn giúp đỡ chúng sanh khiến cho chúng sanh đạt
lợi ích tốt nhất. Lợi ích tốt nhất là giúp
họ niệm Phật, giúp người khác biết trước
lúc mất, giúp người khác chẳng đổ bệnh,
đứng hay ngồi văng sanh, đó mới là lợi ích lớn
nhất; c̣n hết thảy những hưởng thọ vật
chất hay tinh thần khác, chết đi đều phải
luân hồi trong lục đạo. Quư vị ban cho họ những
lợi ích khác, bất quá họ hưởng thụ mấy
mươi năm rồi thôi, sau mấy mươi năm,
lưu chuyển dài lâu. Giúp họ thoát ly biển khổ,
vượt thoát luân hồi, thành Phật, làm Tổ, đó
là lợi ích tối thù thắng.
Lợi ích
chúng sanh chính là phổ độ chúng sanh. In kinh điển,
đắp tượng, hoặc ấn loát h́nh Phật, giảng
kinh, thuyết pháp (bất luận quy mô lớn nhỏ),
lưu thông băng ghi âm hoặc băng ghi h́nh giảng pháp,
dùng truyền h́nh truyền bá hoằng dương Phật
pháp đều là cúng dường bằng cách lợi ích
chúng sanh. Tu loại cúng dường này là chân thật cúng
dường chư Phật. Chúng ta đem Phật pháp giới
thiệu cho chúng sanh, tạo cơ hội cho chúng sanh học
Phật, giúp họ mau được thành Phật, là phù hợp
bổn nguyện của hết thảy chư Phật trong
mười phương, bởi thế chư Phật dùng
bổn nguyện lực gia tŕ quư vị, quư vị sẽ
được ba thứ tự tại: Tài tự tại,
Huệ tự tại, mạnh khỏe trường thọ
tự tại.
3) Cúng dường bằng cách nhiếp
thọ chúng sanh:
Lợi ích
chúng sanh là phổ biến, đề cao, giới thiệu rộng
khắp, c̣n nhiếp thọ chúng sanh không giống như thế.
Chẳng những chỉ giới thiệu Phật pháp cho họ
mà c̣n chỉ đạo họ tu hành, lănh đạo họ,
khiến họ cùng tu hành. Nhiếp thọ là quan hệ vô
cùng thân thiết, thật sự thiết lập quan hệ
thầy tṛ hoặc đạo hữu cùng tu học với
nhau. Chẳng những dùng ngôn ngữ giúp đỡ họ,
ta c̣n dùng hành động để giúp đỡ, làm
gương tu học Phật pháp cho họ thấy. Đó gọi
là cúng dường bằng cách nhiếp thọ chúng sanh.
4) Cúng dường bằng cách chịu khổ
thay cho chúng sanh:
Bồ Tát
có lời nguyện chịu tội chịu khổ thế
cho chúng sanh. Chịu khổ thay cho quư vị, về mặt
Sự, mỗi người tạo nghiệp, mỗi người
phải hứng lấy quả báo; chư Phật, Bồ
Tát không cách ǵ chịu khổ thay cho quư vị. Thế
nhưng, đúng là Bồ Tát có thể chịu thay cho quư vị
một phần. Chẳng hạn như, sáng sớm đi
mua thức ăn, dự tính mua năm mươi đồng,
trong tâm nghĩ: “Người khổ sở rất nhiều,
ta mua ít đi một chút, mua cái ǵ rẻ một chút, tốn
hai mươi lăm đồng thôi, bớt ra hai
mươi lăm đồng để giúp người
khác”. Đó là chịu khổ thay cho người khác. Quư vị
vốn có thể ăn hết năm mươi đồng,
ăn những thứ rất ngon, bây giờ bớt mồm
bớt miệng một nửa, quư vị ăn thứ dở
một chút, đó là chịu khổ thế cho chúng sanh. Vốn
có thể ở nhà xa hoa lộng lẫy, đổi sang ở
cái nhà nhỏ che nắng đụt mưa là được
rồi, dành bớt tiền để giúp chúng sanh khốn
khó; cho thấy đúng là có thể chịu khổ thế một
phần.
Mỗi ngày
bớt xài một đồng bèn có thể dùng một đồng
tu phước; bớt xài mười đồng bèn có thể
dùng mười đồng để bố thí cúng dường.
Tự ḿnh tiết kiệm để giúp đỡ người
khác; đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; c̣n như chúng
sanh tạo nghiệp thiện hay ác, ta chẳng thể chịu
thay cho họ được. Chính ḿnh tiết kiệm một
chút, có chút ít dư ra để hỗ trợ hoằng
dương Phật pháp, giúp đỡ chúng sanh khốn khó;
đó là Bồ Tát cúng dường bằng cách phát nguyện
chịu khổ thế cho chúng sanh.
5) Cúng dường bằng cách siêng tu thiện
căn:
Trong một
đời này, tu hành có thể thành công hay không là do mấu
chốt này. Thiện căn: tất cả hết thảy
thiện pháp do từ cái gốc này sanh ra [nên gọi là thiện
căn]. Căn có nghĩa là sanh ra, [chữ Căn] dùng với
ư nghĩa tỷ dụ. Giống như thực vật có rễ
th́ mới có thể tăng trưởng, nẩy mầm, nở
hoa, kết trái. Bồi dưỡng thiện căn là một
đại sự tu học trọng yếu phi thường.
Thiện căn có thiện căn thế gian và thiện
căn xuất thế gian.
Thiện
căn xuất thế gian lấy thiện căn thế
gian làm cơ sở. Thiện căn thế gian là không tham,
không sân, không si, đó gọi là ba thiện căn. Đức
Phật dạy chúng ta siêng tu ba thiện căn, đó là cúng
dường. Đối với hết thảy pháp thế
gian, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, chẳng khởi tâm tham. Đối với hết
thảy những hoàn cảnh chẳng như ư, ác nhân, ác sự,
chẳng khởi tâm sân khuể. Đối với hết
thảy sự lư, thông đạt, hiểu rơ, chẳng mê hoặc,
chẳng điên đảo, chẳng nghĩ lầm, chẳng
thấy lầm, chẳng ngu si. Đó gọi là ba căn bản
của thiện pháp thế gian. Người học Phật
phải tích cực nỗ lực tu học, chẳng tham, chẳng
sân, chẳng si, tin tưởng nhân quả báo ứng sâu xa.
V́ sao mọi
người nghe Phật giảng thiện nhân thiện quả
lại chẳng dám làm? Là v́ chưa hiểu rơ sự và lư của
nhân quả, chưa đủ tín tâm. Chứ nếu hiểu
rơ sẽ tận sức dốc ḷng thực hành. Ví như Tài
Bố Thí, mọi tài vật của ḿnh đều đem bố
thí hết sạch, ngày mai lấy ǵ ăn đây? Điều
này rất hiện thực, ngày mai ăn ở đâu
đây? Vừa nghĩ đến ngày mai, tiền bố thí
bèn sớt lại một chút, ngày mai c̣n phải ăn mà!
Nghĩ đến ngày hôm sau nữa, lại c̣n có ngày sau nữa,
bèn chẳng dám bố thí. Đấy là chưa rơ sự lư.
Tôi thường khuyên đồng tu bồi dưỡng ba
thiện căn th́ trước hết phải đọc
sách Liễu Phàm Tứ Huấn ba trăm bận, sẽ có
tín tâm, sẽ tận tụy đối với sự lư nhân
quả báo ứng. Bố thí là tu nhân, phước báo tự
nhiên hiện tiền, nhân duyên quả báo mảy may chẳng
sai. Quư vị càng lo sợ càng chẳng dám bố thí, th́
phước báo càng có hạn lượng.
Thiện
căn xuất thế gian là điều Bồ Tát tu, chỉ
có một điều thôi: Tinh Tấn. Tinh Tấn là thiện
căn của Bồ Tát. Tu hành dựa theo phương pháp
lư luận chẳng sai lầm th́ càng tinh tấn càng sung
sướng, càng giống như Phổ Hiền Bồ Tát,
chẳng có mệt chán. Quư vị nghĩ xem: đời
người nhiều tự tại, lắm khoái lạc là
do tinh tấn mà có. Chẳng tinh tấn bèn biếng nhác, bê trễ,
công phu tu hành không đắc lực, phiền năo lắm, khổ
nạn cũng nhiều. Bởi thế, đâm ra hoài nghi Phật
pháp, tín tâm dao động, thoái chuyển đọa lạc.
Tinh Tấn:
Tấn là cầu tiến bộ, Tinh là thuần chẳng tạp.
Tiến bộ như thế mới hữu dụng. Trong
chuyện này, có bạn đồng tu rất nỗ lực,
dụng công phi thường, nhưng chẳng phải là
tinh tấn! Họ học rất nhiều, nên là tạp tấn.
Phí rất nhiều thời gian, tinh thần, hiệu quả
chẳng lư tưởng mấy. Phật pháp đáng quư nhất
là tinh tấn!
6) Cúng dường bằng cách chẳng bỏ
Bồ Tát nghiệp:
Nghiệp
là sự nghiệp, sự nghiệp của Bồ Tát là giáo
hóa chúng sanh. Bồ Tát trong thế gian làm giáo viên, chỉ có một
mục tiêu: giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai
ngộ, ĺa khổ được vui. Bồ Tát thị hiện
trong thế gian có thể dùng các thứ thân phận bất
đồng, thân phận tại gia, xuất gia, và các thân phận
già, trẻ, nam, nữ, các hạnh, các nghiệp. Nếu Bồ
Tát thị hiện trong giới thương nhân bèn là lănh tụ
của thương nhân, dạy quư vị kiếm lời
như thế nào, dùng tiền ra sao. Các Ngài có trí huệ: kiếm
tiền lời như thế nào rất khổ, kiếm lời
như thế nào rất sung sướng, tiêu tiền
như thế nào mà tiêu rất đau khổ, tạo rất
nhiều tội nghiệp; tiêu tiền như thế nào mà
tu được rất nhiều công đức,
tương lai được đại phước báo, vị
thương nhân Bồ Tát hiểu rơ. Già, trẻ, trai, gái,
các hạnh, các nghiệp đều có Bồ Tát, Bồ Tát
chỉ vẽ khuôn phép cho quư vị.
Trong nhà Phật,
sự nghiệp của Bồ Tát được tượng
trưng bằng việc “hoằng pháp lợi sanh”, chẳng
thể buông bỏ việc này. Gia nghiệp của Phật
là hoằng dương Phật pháp, tận tâm tận lực
làm tốt việc ấy, đó là sự nghiệp của Bồ
Tát. Có nhiều người nói: “Tôi chẳng có tiền, chẳng
thể cất đạo tràng. Đối với đạo
tràng cũng chẳng giúp ǵ được. Tôi cũng chẳng
có trí huệ, chẳng thể giảng kinh, thuyết pháp,
làm sao hoằng pháp lợi sanh cho được?” Quư vị
đem lịch tŕnh giảng kinh ở chỗ này báo cho
người khác biết, khuyên bạn bè, người nhà,
quyến thuộc, hàng xóm đi nghe kinh, đó là sự nghiệp
của Bồ Tát quư vị thừa sức làm được.
Họ đến rất tốt, không đến cũng chẳng
sao, sự nghiệp Bồ Tát ta đă làm được rồi.
Có thể thấy là sự nghiệp Bồ Tát ai cũng làm
được, chẳng khó!
Ta thấy
người khác bèn chắp tay niệm A Di Đà Phật,
đó là sự nghiệp Bồ Tát, chẳng cần biết
họ thích nghe hay không, họ đều nghe tiếng niệm
lọt qua. “Nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo
chủng” (một phen lọt qua, vĩnh viễn trở
thành giống đạo); chủng tử A Di Đà Phật
gieo chắc nơi A Lại Da Thức của kẻ đó,
đấy là sự nghiệp Bồ Tát. Sự nghiệp cốt
tại tận tâm tận lực, chẳng khó tu đâu!
7) Cúng dường bằng cách chẳng
ĺa Bồ Đề tâm
Bồ
Đề là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Quốc
nghĩa là Giác Ngộ. Trong sanh hoạt thường nhật,
đối người, đối sự, đối vật,
giữ ǵn tâm tỉnh giác cao độ, chẳng mê hoặc,
đó là cúng dường bằng cách chẳng ĺa Bồ
Đề tâm. Một niệm chẳng giác bèn mê, niệm niệm
bất giác bèn tạo tội nghiệp, bởi thế phải
thời thời khắc khắc giữ vững tâm tỉnh
giác. Giữ vững bằng cách nào? Một ngày từ sáng
đến tối, một câu A Di Đà Phật ghim chắc
trong tâm, chẳng hề bỏ mất, quư vị bèn giữ
vững được tâm tỉnh giác cao độ. A Di
Đà Phật vừa mất, vọng tưởng tạp
niệm bèn khởi lên. Vọng tưởng tạp niệm
là mê, một câu Phật hiệu là giác.
Trong hết
thảy pháp môn, v́ sao chư Phật riêng xưng tán Niệm
Phật? Pháp môn Niệm Phật này dễ dàng, đi, đứng,
nằm, ngồi, bất luận ở nơi đâu, hoàn cảnh
nào, một câu A Di Đà Phật trong tâm quư vị đều
chẳng để dứt, tu học thuận tiện. Xin
thưa cùng quư vị đó là phương cách vô cùng cụ
thể để cúng dường bằng cách chẳng ĺa Bồ
Đề tâm. Do đây biết rằng: Trên cúng mười
phương hết thảy chư Phật, dưới cúng
hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới, tất cả
đều cúng dường hết. Một câu Phật hiệu
cúng dường trọn khắp. Công đức lợi ích
của Phật hiệu rất ít người biết. Phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện này từ đầu đến
cuối đều là xưng tán danh hiệu công đức
chẳng thể nghĩ bàn, từng câu từng chữ trong
kinh văn đều kết quy công đức của danh
hiệu.
Cảnh giới
tu học cũng giống như phần trên. Hư không giới,
chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền năo chẳng
thể cùng tận, sự rộng tu cúng dường của
chúng ta cũng chẳng có cùng tận; cũng là nhất tâm
nhất ư, niệm niệm tiếp nối chẳng có gián
đoạn. Thân ngữ ư nghiệp chẳng có mệt chán.
Phải tích cực nỗ lực, phải tinh tấn tu học.
Nguyện
“rộng tu cúng dường” này trọng yếu vô cùng. Hạnh
môn Bồ Tát lấy Lục Độ làm cương lănh,
pháp thứ nhất trong Lục Độ là Bố Thí. V́ sao
đặt Bố Thí làm pháp đầu tiên trong Lục Độ?
Thật ra, chư Phật Như Lai không có pháp nào có thể
nói được, hết thảy pháp nói ra không ǵ chẳng
phải là “đối bệnh cho thuốc” đó thôi! Chúng
sanh có bệnh ǵ bèn trao thuốc chữa trị bệnh
đó, bệnh lành, thuốc cũng chẳng cần đến
nữa! Bệnh chúng sanh rất nhiều, gốc của tất
cả hết thảy bệnh đều là keo tham. Hết
thảy chúng sanh tu hành chẳng thể khai ngộ chứng
quả, tạo lục đạo luân hồi, đọa
tam ác đạo đều v́ bị bệnh tham làm hại.
V́ thế, bố thí là một liều thuốc hay để
trị bệnh keo tham. Không tham - sân - si th́ hết thảy
thiện pháp sanh; có tham - sân - si th́ hết thảy thiện
pháp chẳng sanh, hết thảy ác pháp bèn sanh.
Trong các cúng
dường, pháp cúng dường thù thắng nhất. Trong
các pháp cúng dường, “tu hành đúng theo lời dạy”
là trọng yếu nhất, tức là y giáo phụng hành. Mục
đích học Phật bất đồng, sở cầu bất
đồng, chọn lựa pháp môn cũng bất đồng.
Đạo tràng này của chúng ta chọn lựa Tịnh
Độ tông, mục đích là hy vọng tương lai có
thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Kinh điển để chúng ta y cứ là năm kinh một
luận. Nhất định phải chiếu theo kinh điển
mà nỗ lực thực hiện, đó gọi là Tu Hành. Tu
là “tu chánh” (sửa đổi cho đúng), Hành là hành vi. Tu
Hành là sửa đổi hành vi của chúng ta cho đúng. Tiêu
chuẩn của Chánh là ǵ? Tất cả những ǵ Phật
giáo huấn trong kinh đều là tiêu chuẩn đúng đắn
cả.
Cách
nghĩ, cách nh́n, cách làm của Phật quyết định
là chánh xác; hăy buông bỏ tư tưởng, hiểu biết
của chúng ta, chiếu theo cách nghĩ, cách nh́n của Phật
để sửa đổi quan điểm, hành vi của
chính ḿnh th́ gọi là Tu Hành. Tu hành ở ngay nơi khởi
tâm động niệm, ngay nơi đăi người tiếp
vật, chớ chẳng phải là mỗi ngày niệm kinh,
gơ mơ, xướng tán, dập đầu, chắp tay. Làm ra vẻ
tu hành, nhưng trong tâm khởi vọng tưởng th́ chẳng
phải là tu hành thật sự.
Cúng dường bằng
cách như thuyết tu hành có thể nói là sự bố thí
cúng dường mà hết thảy Bồ Tát đă tu đến
mức rốt ráo viên măn. Chẳng hạn như chúng ta thọ
tŕ kinh Vô Lượng Thọ, tất cả hết thảy
giáo huấn của Phật trong kinh, mỗi một điều,
mỗi một câu chúng ta đều thực hiện
được th́ Sáu Ba La Mật, Mười Ba La Mật,
mười đại nguyện vương đều hoàn
toàn viên măn.
1.4. Nguyện thứ
tư: Sám hối nghiệp chướng
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn sám
trừ nghiệp chướng giả: Bồ Tát tự niệm,
ngă ư quá khứ, vô thỉ kiếp trung, do tham sân si, phát
thân khẩu ư, tác chư ác nghiệp vô lượng vô biên.
Nhược thử ác nghiệp hữu thể tướng
giả, tận hư không giới, bất năng dung thọ.
Ngă kim tất dĩ thanh tịnh tam nghiệp, biến ư
pháp giới cực vi trần sát, nhất thiết chư Phật,
Bồ Tát chúng tiền, thành tâm sám hối, hậu bất phục
tạo, hằng trụ tịnh giới, nhất thiết
công đức. Như thị hư không giới tận,
chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh
phiền năo tận, ngă sám năi tận, nhi hư không giới
năi chí chúng sanh phiền năo bất khả tận cố, ngă
thử sám hối vô hữu cùng tận. Niệm niệm
tương tục, vô hữu gián đoạn, thân ngữ ư
nghiệp, vô hữu b́ yểm.
(Lại này thiện
nam tử! Nói sám trừ nghiệp chướng là: Bồ Tát
tự nghĩ, tôi trong quá khứ, trong vô thỉ kiếp, do
tham - sân - si, tạo vô lượng vô biên các nghiệp ác
nơi thân, khẩu, ư. Nếu những ác nghiệp đó có
thể tướng, cùng tận hư không giới chẳng
thể chứa đựng được. Tôi nay đều
dùng ba nghiệp thanh tịnh đối trước hết
thảy chư Phật, Bồ Tát chúng trong cực vi trần
số cơi trong khắp pháp giới thành tâm sám hối, về
sau chẳng gây tạo nữa, luôn trụ tịnh giới,
hết thảy công đức. Như thế hư không giới
tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận,
chúng sanh phiền năo tận, tôi sám hối mới tận.
Nhưng v́ hư không giới cho đến phiền năo của
chúng sanh chẳng thể tận nên sự sám hối này của
tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối,
chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp chẳng
có mệt chán)
Nghiệp
là tạo tác. Tạo tác là Nghiệp. Phạm vi của tạo
tác rộng lớn phi thường. Nhất cử nhất
động nơi thân: tạo tác nơi thân là thân nghiệp,
nói năng là khẩu nghiệp, trong tâm khởi ư niệm vọng
tưởng từ sáng đến tối chẳng ngớt,
đó là ư nghiệp. Chúng ta tạo nghiệp dẫu nhiều,
nhưng quy nạp lại, chẳng ngoài ba nghiệp thân - ngữ
- ư. Hễ ba loại nghiệp lớn này động bèn là tạo
tác. Trong tạo tác có thiện, có ác.
Nghĩ
đến một việc tốt, việc lợi ích chúng
sanh th́ là hảo sự, là thiện nghiệp. Nghĩ đến
một chuyện xấu, niệm niệm chỉ v́ ḿnh th́
là ác nghiệp. V́ tự ḿnh th́ có ǵ không tốt? V́ sao đức
Phật nói đó là ác nghiệp? Mục đích học Phật
là vượt thoát tam giới, khởi tâm động niệm
chỉ v́ ḿnh th́ quư vị không cách ǵ vượt thoát tam giới,
thành Phật, thành Bồ Tát được! Bởi lẽ
quư vị tạo nghiệp gây chướng ngại chính
ḿnh. Kinh Kim Cang nói: “Nếu Bồ Tát có tướng ta,
tướng người, tướng chúng sanh, tướng
thọ giả th́ chẳng phải là Bồ Tát”. Niệm
niệm có Ngă, chấp vào tướng Ta, đó là Ngă Chấp.
Ngă Chấp chẳng phá th́ đừng nói đến Bồ
Tát, ngay cả quả A La Hán cũng chẳng đạt
được. Tu học Phật pháp thành tựu quả
báo thấp nhất là A La Hán. Phá Ngă Chấp bèn chứng A La
Hán. Phá Pháp Chấp bèn chứng Pháp Thân đại sĩ, tức
là minh tâm kiến tánh, chứng quả vị Bồ Tát.
Đức Phật dạy chúng ta từ đầu đến
cuối chỉ là phá Ngă Chấp và Pháp Chấp mà thôi. Khởi
tâm động niệm đều nghĩ đến ḿnh là
ngày ngày tăng trưởng Ngă Chấp, chẳng thể
vượt thoát tam giới; như vậy, niệm niệm
v́ ḿnh chính là Ác. Khởi tâm động niệm nghĩ đến
người khác, Ngă dần dần mất đi, Ngă Chấp
bị phá. Niệm niệm nghĩ đến người
khác là thiện, c̣n niệm niệm nghĩ đến ḿnh là
ác, đó là nghiệp chướng.
Có một
loại chướng gọi là Phiền Năo Chướng, khởi
tâm động niệm đều là phiền năo. Lại có
một thứ chướng gọi là Sở Tri Chướng.
Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng tánh chất
bất đồng: Bản thân phiền năo là chướng
ngại; Sở Tri là trí huệ, bản thân nó chẳng phải
là chướng ngại. Phật nói: Quá khứ, hiện tại,
vị lai mười phương vô lượng vô biên thế
giới, sự lớn việc nhỏ không ǵ quư vị chẳng
biết, không ǵ quư vị chẳng làm được. Trí huệ
của chúng ta vốn có năng lực lớn lao như thế,
lớn như hư không pháp giới. Sở Tri chẳng phải
là chướng, vấn đề là Sở Tri biến thành
bất tri. Nói cách khác, nhất định có một thứ
chướng ngại khiến cho đức năng của
trí huệ bị ngăn trở, chướng ngại
đó gọi là Sở Tri Chướng. Thứ chướng
ngại ấy rốt cục là ǵ? Chướng ngại ấy
chính là vô minh. Hiện tại chúng ta cái ǵ cũng không hiểu,
cái ǵ cũng không rơ ràng. Vô minh là Sở Tri Chướng. Vô
minh từ đâu mà có? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến
lập tri, thị vô minh bổn”: nếu cho ḿnh là thông
minh, có trí huệ, người khác chẳng hiểu biết
như ḿnh, Phật gọi đó là vô minh; thật ra, cái ǵ
quư vị cũng chẳng biết cả. Bởi lẽ những
ǵ tưởng là hiểu đó chỉ là Thế Trí Biện
Thông (biện tài thế gian), chẳng phải là trí huệ
chân chánh. Thế Trí Biện Thông chẳng những không phải
là trí huệ, trong quá tŕnh tu học, nó c̣n là một trong tám nạn.
Mắc nạn là chướng ngại, tổ sư đại
đức thường khuyên nhắc kẻ sơ học
chẳng cần phải xem kinh điển nhiều,
cũng chẳng cần phải nghe nhiều người giảng
kinh thuyết pháp. Xem kinh càng nhiều, vọng niệm càng
nhiều, biến thành Sở Tri Chướng, chướng
ngại bổn tánh, chướng ngại quư vị mở
mang trí huệ. Phật dạy chúng ta hăy từ một môn mà
thâm nhập, tu định. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn
nào cũng đều tu Định. Niệm A Di Đà Phật
là tu Định, tôi dạy quư vị niệm kinh Vô Lượng
Thọ không cần phải niệm kinh ǵ khác cũng là tu
Định.
Sám hối
là ǵ? Sám là Sám-ma, là dịch âm tiếng Phạn. Hối là tiếng
Trung Quốc. Chữ Sám Ma có ư nghĩa rất gần với
chữ Hối Cải, bởi thế các vị pháp sư dịch
kinh dùng chữ Sám Hối để dịch chữ Sám Ma, tức
là Hoa - Phạn hợp dịch. Biết lỗi ắt sửa,
sau này chẳng tái phạm, là chân sám hối. Trong nhà Phật
có không ít nghi quỹ sám hối, do cổ đức từ
bi thương xót kẻ sơ học, dạy chúng ta
phương pháp, nguyên tắc sám hối. Chúng ta cần phải
hiểu tinh thần sám hối: Sám hối chẳng phải
là đối trước Phật, Bồ Tát kể lại
một lượt những lỗi lầm ḿnh đă phạm
hôm qua, ngày nay, cầu Phật, Bồ Tát tha thứ, xóa hết
tội lỗi. Làm như vậy là sai rồi, nghĩ đến
tội nghiệp một lượt th́ cũng giống
như lại tạo tội ấy một lần nữa.
Làm thế nào để sám trừ nghiệp chướng
được? Bất luận trót tạo tội nghiệp
ǵ cũng đừng nghĩ đến nữa, cứ chắc
thật niệm A Di Đà Phật, nhất định về
sau chẳng tái phạm nữa th́ nghiệp chướng mới
thật sự sám trừ được.
“Bồ Tát tự nghĩ, tôi trong
quá khứ, trong vô thỉ kiếp, do tham - sân - si, tạo vô
lượng vô biên các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ư. Nếu
những ác nghiệp đó có thể tướng, cùng tận
hư không giới chẳng thể chứa đựng
được”: Đây là Phổ Hiền Bồ Tát tự
nói về chính ḿnh, Ngài c̣n như thế huống ǵ chúng ta?
Chúng ta đời đời kiếp kiếp chất chứa
ác nghiệp vô lượng vô biên. May là chủng tử ác
nghiệp chất chứa trong A Lại Da Thức chẳng
có thể tích. Nếu chúng có thể tích nhỏ bằng một
hạt vi trần thôi th́ những hạt vi trần chất
chứa từ vô thỉ kiếp đến nay, hư không
chẳng chứa đựng được nổi. Chúng ta
tạo nghiệp, một ngày hai mươi bốn tiếng,
chẳng gián đoạn phút giây nào. Lúc ngủ cũng nằm
mộng tạo nghiệp! Trong những nghiệp đă tạo,
ác nghiệp nhiều, thiện nghiệp ít. Nói chung, khởi
tâm động niệm nghĩ đến ḿnh th́ nhiều,
nghĩ đến người khác th́ ít. Quá nửa là tổn
người lợi ḿnh, được mấy lúc tổn
ḿnh lợi người? Phản tỉnh kỹ càng, lời
Bồ Tát quả là thiên chân vạn xác (ngàn vạn phần
đúng đắn), chúng ta ác nghiệp rất nhiều, từ
hôm nay trở đi, phải phát nguyện tu sám hối.
“Tôi nay
đều dùng ba nghiệp thanh tịnh đối trước
hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong cực vi trần
số cơi trong khắp pháp giới thành tâm sám hối, về
sau chẳng gây tạo nữa, luôn trụ tịnh giới,
hết thảy công đức”: Đây là Bồ Tát dạy chúng ta phương pháp sám
hối. Trước hết, quư vị phải có ba nghiệp
thân - khẩu - ư thanh tịnh. Đó là cơ sở để
sám hối nghiệp chướng. Nếu không, nghiệp
chướng chỉ càng tăng thêm, chẳng thể giảm
thiểu. Ba nghiệp lấy ư nghiệp làm chủ. Tâm thanh
tịnh th́ thân và ngữ tự nhiên thanh tịnh.
Lục Tổ
Thiền Tông là Huệ Năng đại sư sau khi đắc
pháp nơi ngài Hoàng Mai, do huynh đệ của Sư chẳng
phục, rượt đuổi muốn đoạt lại
y bát. Trong số ấy có sư Huệ Minh, trước khi
xuất gia là tướng quân tứ phẩm. Huệ
Năng bị ông ta đuổi kịp, ẩn vào lùm cỏ
bên đường, bỏ y bát trên tảng đá cho Huệ
Minh lấy đi. Huệ Minh giơ tay nắm lấy y bát,
giở lên không được. Y bát rất nhẹ, Tứ
Phẩm tướng quân cầm chẳng nổi, trong tâm liền
cảnh giác, biết là do thần hộ pháp giữ ǵn nên sức
người chẳng thể lay động nổi, bèn
năn nỉ Huệ Năng đại sư bước
ra, nói:
- Tôi chẳng
v́ y bát, v́ cầu pháp mà đến.
Thấy chiều
gió xoay bánh lái thật lẹ! Trước hết Huệ
Năng đại sư dạy ông ta tịnh lại, định
cái tâm lại đă. Sau khi tâm Huệ Minh định rồi,
bèn hỏi Huệ Minh:
- Chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (tâm thanh tịnh th́ chẳng
c̣n có ư niệm thiện hay ác), chính ngay trong lúc đó, cái ǵ
là bổn lai diện mục của thượng tọa Huệ
Minh?
Do lời
nói đó, Huệ Minh bèn đại ngộ. Ba nghiệp của
ông ta thanh tịnh, nhân đó bèn đại ngộ. Ư niệm
thiện ác chẳng khởi, tâm thanh tịnh hiện tiền.
Huệ Minh ba nghiệp thanh tịnh, bèn đối trước
Huệ Năng sám hối nghiệp chướng, nghiệp
chướng thật sự tiêu trừ, tâm thanh tịnh hiện
tiền, bèn minh tâm kiến tánh. Chỉ cần chuyển
được ư niệm bèn khai ngộ chứng quả.
Tại gia
cư sĩ lúc làm việc phải nỗ lực làm việc,
làm việc xong, buông hết thảy vọng niệm xuống,
điều ǵ cũng chẳng cần nghĩ tới nữa,
thiện hay ác đều chẳng suy lường, dùng cái
tâm thanh tịnh đó niệm Phật, một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật, nghiệp
chướng của quư vị sao không thể tiêu trừ cho
được! Nghiệp chướng tiêu trừ, tâm thanh
tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh khởi tác dụng
là trí huệ, đối với công việc b́nh thường
của quư vị, quư vị làm càng được viên măn,
càng tự tại. Lúc trước làm việc rất khổ,
nay làm rất sung sướng. Trước kia thấy công
việc rất phiền năo, nay thấy công việc rất
tự tại. V́ sao vậy? Là v́ nghiệp chướng tiêu
trừ rồi.
“Về
sau chẳng gây tạo nữa”: B́nh thường tiểu
Bồ Tát tu hành, dạy quư vị sau này chẳng tái tạo
nữa, c̣n Phổ Hiền Bồ Tát nói “về sau chẳng
gây tạo nữa” có nghĩa là từ nay trở đi,
phải ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, chẳng c̣n có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước nữa! Thiện
hay ác đều chẳng suy lường, vĩnh viễn
ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, vĩnh viễn dùng cái tâm thanh
tịnh ấy để chấp tŕ danh hiệu, đó là
chân chánh “về sau chẳng gây tạo nữa” th́ mới có
thể sám trừ nghiệp chướng; từ vô thỉ
kiếp đến nay, nghiệp chướng dù nhiều dù
nặng đều có thể sám trừ.
“Hằng
trụ tịnh giới, hết thảy công đức”: Hằng là thường hằng,
vĩnh viễn. Trụ là tâm ta an trụ trong giới thanh tịnh.
Giới là pháp, tŕ giới là giữ pháp. Hằng trụ tịnh
giới là vĩnh viễn dùng cái tâm thanh tịnh giữ
pháp, dùng tâm thanh tịnh tuân thủ giáo pháp của Phật,
tuân thủ pháp luật, quy định của quốc gia và
quan niệm đạo đức của phong tục tập
quán dân gian. Giữ pháp nhưng chẳng mất tâm thanh tịnh
th́ gọi là “hằng trụ tịnh giới, thành tựu
hết thảy công đức”. Một phần công phu
được một phần thâu hoạch, mười phần
công phu được mười phần thâu hoạch.
Bồ Tát phát nguyện
tu khoa mục “sám hối nghiệp chướng” này giống
như phần trên “niệm niệm tiếp nối, chẳng
có gián đoạn” dũng mănh tinh tấn tu học, “thân
ngữ ư nghiệp chẳng có mệt chán”: Ngài thành tựu
vô lượng công đức thù thắng, tự nhiên chẳng
có cảm giác mệt mỏi, chẳng thấy chán nản.
Ngài đạt được công đức chân thật
nên pháp hỷ sung măn, đồng thời lại c̣n
được hết thảy Như Lai oai thần gia tŕ.
Chúng ta chiếu theo phương pháp này tu học cũng sẽ
nhất định được chư Phật gia tŕ.
1.5. Nguyện thứ
năm: Tùy hỷ công đức
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn tùy hỷ
công đức giả: Sở hữu tận pháp giới,
hư không giới, thập phương tam thế, nhất
thiết Phật sát, cực vi trần số chư Phật
Như Lai, tùng sơ phát tâm, vị Nhất Thiết Trí, cần
tu phước tụ, bất tích thân mạng, kinh bất khả
thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần
số kiếp, nhất nhất kiếp trung, xả bất
khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực
vi trần số đầu, mục, thủ, túc. Như thị
nhất thiết nan hành khổ hạnh, viên măn chủng chủng
Ba La Mật môn, chứng nhập chủng chủng Bồ
Tát trí địa, thành tựu chư Phật vô thượng
Bồ Đề, cập bát Niết Bàn, phân bố xá-lợi.
Sở
hữu thiện căn ngă giai tùy hỷ, cập bỉ thập
phương nhất thiết thế giới, lục thú, tứ
sanh, nhất thiết chủng loại, sở hữu công
đức, năi chí nhất trần, ngă giai tùy hỷ. Thập
phương tam thế, nhất thiết Thanh Văn, cập
Bích Chi Phật, hữu học, vô học, sở hữu công
đức, ngă giai tùy hỷ. Nhất thiết Bồ Tát sở
tu vô lượng nan hạnh khổ hạnh, chí cầu vô
thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, quảng
đại công đức, ngă giai tùy hỷ. Như thị
hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh
nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă thử tùy
hỷ vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục
vô hữu gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp vô hữu
b́ yểm.
(Lại
này thiện nam tử! Nói tùy hỷ công đức là: Tất
cả chư Phật Như Lai nhiều như số cực
vi trần trong hết thảy cơi Phật trong mười
phương ba đời tận pháp giới, hư không giới,
từ sơ phát tâm v́ Nhất Thiết Trí[32] mà siêng tu khối
phước[33],
chẳng tiếc thân mạng, trải các kiếp nhiều
như số cực vi trần trong bất khả thuyết
bất khả thuyết cơi Phật, trong mỗi một kiếp,
xả đầu, mắt, chân, tay nhiều như số cực
vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết
cơi Phật. Hết thảy khổ hạnh khó làm như thế,
viên măn đủ mọi môn Ba La Mật, chứng nhập mọi
thứ trí địa[34] Bồ Tát, thành tựu
vô thượng Bồ Đề của chư Phật, và
nhập Niết Bàn[35], phân chia xá-lợi[36]. Tất cả
thiện căn, tôi đều tùy hỷ. Và tất cả
công đức của hết thảy chủng loại thuộc
sáu đường bốn loài trong mười phương
hết thảy thế giới, thậm chí [công đức
nhỏ bằng] một hạt bụi, tôi đều tùy hỷ.
Tất cả công đức của mười
phương ba đời hết thảy Thanh Văn và Bích
Chi Phật, hữu học, vô học[37], tôi đều
tùy hỷ. Hết thảy Bồ Tát đă tu vô lượng
khổ hạnh khó làm, chí cầu vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, công đức rộng lớn tôi đều tùy hỷ.
Như thế, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, nhưng sự tùy hỷ này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp chẳng hề mệt chán)
“Tùy hỷ
chúng sanh” đối trị bệnh ganh ghét. Điều này
được đặc biệt nêu ra đối với
hàng Pháp Thân đại sĩ, cho thấy ghen ghét không phải
là căn bệnh nhỏ, bệnh nhẹ. Thấy chỗ
hay của người khác, trong tâm khó chịu, nghĩ cách
chướng ngại phá hoại, đó là bệnh rất nặng.
Chẳng riêng ǵ người thế gian mắc chứng bệnh
nặng này, người học Phật cũng không tránh khỏi.
Bồ Tát cũng chẳng tránh khỏi, thấy người
khác có chỗ thù thắng, trong tâm khó chịu. Nếu Bồ
Tát chẳng mắc bệnh này, th́ mười nguyện Phổ
Hiền sẽ chẳng có điều nguyện này.
Sau khi Lục
Tổ Huệ Năng được truyền y bát, rất
nhiều sư huynh, sư đệ muốn đoạt y
bát là v́ ghen ghét. Lúc Phật tại thế, Đề Bà
Đạt Đa ganh ghét Phật, luôn t́m cách phá hoại chuyện
hoằng pháp lợi sanh của Phật, nghĩ cách hại
chết Phật. Phật giáo truyền đến Trung Quốc,
tổ tổ tương truyền, chúng ta cũng thấy
có rất nhiều chuyện ghen ghét chướng ngại.
Nghĩ đến bản thân chúng ta, có ư niệm và hành vi
ghen ghét hay chăng? Ghen ghét là phiền năo bẩm sanh của
chúng sanh, chẳng dễ đoạn trừ. Phổ Hiền
Bồ Tát dạy chúng ta tùy hỷ công đức nhằm nhổ
tận gốc ghen ghét từ vô thỉ kiếp đến
nay. Thấy người khác có thiện hạnh, thiện sự,
chúng ta tùy hỷ, họ được công đức rất
lớn th́ chúng ta cũng được công đức lớn
giống hệt như vậy.
Cảnh giới
tu nguyện này của Bồ Tát là tột cùng hư không, khắp
pháp giới. Học tùy hỷ theo cách nào? Trong kinh có nêu một
thí dụ: “Chư Phật Như Lai từ sơ phát tâm v́
Nhất Thiết Trí mà siêng tu khối phước, chẳng
tiếc thân mạng”. “Phát tâm” là phát vô thượng Bồ
Đề tâm (phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề),
cũng tức là phát tâm cầu trí huệ viên măn rốt ráo.
Có trí huệ viên măn rốt ráo th́ mới có thể thấu
hiểu triệt để chân tướng của nhân sanh
vũ trụ. Sau khi phát tâm, phải siêng tu phước huệ.
Phật c̣n được gọi là Nhị Túc Tôn, chữ
Nhị chỉ phước và huệ, Túc là trọn đủ,
viên măn. Thành Phật tức là phước đức và trí
huệ viên măn. V́ tu phước và tu huệ bèn chẳng tiếc
thân mạng, làm được chuyện khó làm, tu được
chuyện khó tu, dũng mănh tinh tấn, chư Phật
Như Lai thành tựu như thế đó. Sau khi thành Phật,
rộng độ chúng sanh chẳng ngưng nghỉ, thị
hiện trong sáu đường. Nên dùng thân nào để
được độ, bèn hiện thân đó, nên dùng thân
Phật để độ bèn hiện thân Phật để
thuyết pháp.
Phật từ
sơ phát tâm thẳng đến khi độ sanh, bao nhiêu
công đức chúng ta đều phải tùy hỷ, phải
học tập. Ngài làm như thế nào, ta cũng làm theo
như thế ấy. Người ta phát tâm được
th́ ta cũng phát tâm được, người ta tu hành
được th́ ta cũng tu hành được. Chúng ta chẳng
những không ghen ghét mà c̣n tận tâm tận lực giúp
đỡ, thành toàn cho người ta. Mọi người
tu tŕ th́ chúng ta có thật sự bị chướng ngại
ǵ chăng? Chẳng chướng ngại ǵ! Nếu lắng
ḷng quan sát, [sẽ thấy] chẳng chướng ngại
người khác; thật ra, chỉ có ḿnh chướng ngại
chính ḿnh mà thôi. Phật từng thí dụ: Ví như có kẻ
ngậm nước phun lên trời, có phun được
lên trời hay không? Chẳng những không phun được
mà trái lại nước c̣n rớt trúng mặt ḿnh. Phải
chuyển đổi ư niệm, thành toàn sự tốt đẹp
cho người, người ta có việc ǵ tốt ḿnh phải
giúp đỡ, phải thành tựu cho người ta.
Người ta tốt, trong xă hội ai nấy đều tốt,
ta cũng hưởng lây, ta cũng tốt luôn. Tinh thần
chủ yếu của nguyện này là dạy chúng ta hiểu
rơ đạo lư này, nỗ lực tu học, thành tựu công
đức chân thật cho chính ḿnh.
Nh́n lại
xă hội trước mắt, tùy hỷ công đức phải
có trí huệ, chẳng thể làm việc theo t́nh cảm; nếu
không, sẽ thường mắc hại. Nêu một ví dụ
thật: Ở Đạt Lạp Tư (Dallas) có một
đồng tu đang lái xe thấy một đứa bé
đi trên lề bị té, do hảo tâm bèn dừng xe đỡ
đứa bé dậy, hỏi nó có bị thương hay
không. Lúc đó, người lớn chạy tới, đổ
hô vị đồng tu ấy xô đứa bé té bị
thương, nhờ luật sư thưa ra ṭa, bắt bồi
thường tám vạn Mỹ kim. Tại Mỹ quốc,
trông thấy người già hoặc trẻ con té, lập tức
gọi điện thoại báo cảnh sát, kêu cảnh sát
đến đỡ người đó.
Nho gia dạy
người: “Thành tựu điều tốt đẹp
cho người, chẳng thành toàn điều xấu cho
người”. Ai làm việc ǵ bất hảo đối
với đại chúng, xă hội, chúng ta đừng giúp
đỡ kẻ đó. C̣n nếu ai làm việc ǵ có lợi
cho xă hội, cho đại chúng th́ chúng ta chớ nên ngăn
trở, chướng ngại người ấy, chớ
ghen ghét họ mà phải tùy hỷ. Tùy hỷ chẳng phải
là trông thấy vui mừng là xong, phải tận tâm tận
lực giúp đỡ kẻ đó, khiến cho sự nghiệp
của kẻ đó được thành tựu viên măn. Tận
tâm tận lực là tu tùy hỷ công đức viên măn.
Bản thân ḿnh không có
tiền, chạy cơm ba bữa đă là vấn đề,
nên về tài lực chẳng thể giúp đỡ người
khác được, nhưng chúng ta có thể khen ngợi
người khác: “Ông X. đó là người tốt, làm việc
tốt. Quư vị có năng lực hăy nên giúp đỡ ông
ta”. Đó cũng là tùy hỷ công đức. Cho thấy tùy
hỷ công đức là chuyện ai cũng có thể tu
được, lúc nào, chỗ nào cũng có thể tu
được. Trong cửa Phật, công đức của
Phật, Bồ Tát, công đức của tổ sư đại
đức, c̣n trong thế pháp th́ công đức của
chính phủ (thay thế bá tánh thực hiện sự nghiệp
phước lợi), bậc thiện nhân trưởng giả
dùng tài sản và năng lực tạo phước cho xă hội
đại chúng đều đáng tùy hỷ, khen ngợi. Bồ
Tát dạy chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu học,
phải niệm niệm tiếp nối, chẳng hề
gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp chẳng hề chán mệt.
1.6. Nguyện thứ
sáu: Thỉnh chuyển pháp luân
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thỉnh
chuyển pháp luân giả: Sở hữu tận pháp giới,
hư không giới, thập phương tam thế nhất
thiết Phật sát, cực vi trần trung, nhất nhất
các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết
Phật sát cực vi trần số quảng đại Phật
sát. Nhất nhất sát trung, niệm niệm hữu bất
khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực
vi trần số nhất thiết chư Phật, thành Đẳng
Chánh Giác. Nhất thiết Bồ Tát hải hội vi nhiễu.
Nhi ngă tất dĩ thân khẩu ư nghiệp, chủng chủng
phương tiện ân cần khuyến thỉnh chuyển
diệu pháp luân. Như thị hư không giới tận,
chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh
phiền năo tận, ngă thường khuyến thỉnh nhất
thiết chư Phật chuyển chánh pháp luân vô hữu cùng
tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián
đoạn, thân ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Lại này thiện
nam tử! Nói thỉnh chuyển pháp luân: Tất cả hết
thảy cơi Phật mười phương ba đời
cùng tột pháp giới hư không giới, trong mỗi một
cực vi trần đều có cơi Phật rộng lớn
nhiều như số cực vi trần trong bất khả
thuyết bất khả thuyết cơi Phật, trong mỗi một
cơi Phật, niệm niệm đều có hết thảy
chư Phật thành Đẳng Chánh Giác nhiều như số
cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả
thuyết cơi Phật, hết thảy Bồ Tát hải hội
vây quanh. Tôi đều dùng thân khẩu ư nghiệp, mọi thứ
phương tiện, ân cần khuyên mời chuyển pháp
luân mầu nhiệm. Như thế hư không giới tận,
chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh
phiền năo tận, tôi thường khuyên mời hết thảy
chư Phật chuyển chánh pháp luân chẳng có cùng tận.
Niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn,
thân ngữ ư nghiệp không có mệt chán)
“Thỉnh chuyển pháp luân” là một đại sự rất trọng
yếu. Pháp luân đại biểu cho thuyết pháp lợi
sanh. Luân (bánh xe) là tướng trạng viên măn, biểu thị
hết thảy pháp đức Phật nói đều viên măn
rốt ráo, chẳng mảy may khiếm khuyết ǵ. Hết
thảy pháp đức Phật giảng “chẳng phải
có, chẳng phải không, chẳng phải vô chẳng phải
hữu”; Luân rất thích hợp tượng trưng cho
những nghĩa này. Luân có h́nh tṛn, tṛn trặn khép kín,
cũng có cái tâm, nhưng cái tâm ấy không thể lấy
được. Hết thảy pháp đức Phật
đă nói là Chân Không Diệu Hữu, Diệu Hữu nhưng
là Chân Không, Chân Không chính là Diệu Hữu, không - hữu bất
nhị. Từ Luân thấy được Không - Hữu bất
nhị, Tánh - Tướng nhất như, nên Luân được
dùng để tượng trưng cho hết thảy pháp
đức Phật đă nói. Nếu Luân bất động
th́ vô ích, Luân nhất định phải động. Nói
cách khác, Phật pháp nhất định phải được
hoằng dương, nếu không chúng sanh chẳng
được lợi ích. Nhất định phải v́
chúng sanh thuyết pháp, thuyết pháp rất giống như
xoay bánh xe.
Thỉnh
chuyển pháp luân là thỉnh pháp sư đại đức
giảng kinh thuyết pháp. Phật tại thế, thỉnh
Phật giảng kinh, thuyết pháp, hướng dẫn
chúng ta phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui. Không
có Phật ở đời th́ thỉnh vị pháp sư
đại đức hữu tu hữu chứng
giảng kinh thuyết pháp cho chúng ta. Các đồng tu
trẻ tuổi phải thật sự phát tâm Vô Thượng
Bồ Đề, tiếp nối huệ mạng của Phật,
bất luận xuất gia hay tại gia đều phải
học giảng kinh, phát tâm một đời theo đuổi
công tác giáo dục của Phật giáo.
Phát tâm giảng kinh là
đại sự nghiệp, đại nhân duyên, nhất
định sẽ được chư Phật Như Lai
gia tŕ, hộ pháp long thiên bảo hựu. Nếu tự ḿnh
đúng theo lời dạy tu hành chân chánh, đem tinh thần
thể lực trí huệ của cả một đời cống
hiến cho Phật giáo, cho hết thảy chúng sanh, th́ sanh mạng
một đời này mới không luống uổng, hữu
ích khôn sánh. Các đồng tu trẻ tuổi hăy buông bỏ
danh văn lợi dưỡng, vứt bỏ ngũ dục
lục trần, phát tâm theo đuổi sự nghiệp hoằng
pháp lợi sanh thần thánh, đó là sự nghiệp vĩ
đại khôn sánh vậy.
1.7. Nguyện thứ
bảy: Thỉnh Phật trụ thế
Chánh
kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thỉnh
Phật trụ thế giả: Sở hữu tận pháp giới,
hư không giới, thập phương tam thế, nhất
thiết Phật sát, cực vi trần số chư Phật
Như Lai, tương dục thị hiện bát Niết Bàn
giả, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu
học, vô học, năi chí nhất thiết chư thiện
tri thức, ngă tất khuyến thỉnh mạc nhập Niết
Bàn, kinh ư nhất thiết Phật sát cực vi trần
số kiếp, vị dục lợi lạc nhất thiết
chúng sanh. Như thị hư không giới tận, chúng sanh
giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền
năo tận, ngă thử khuyến thỉnh vô hữu cùng tận.
Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn.
Thân ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói mời
đức Phật ở lại đời là chư Phật
Như Lai mười phương ba đời nhiều
như số cực vi trần trong hết thảy cơi Phật
tận pháp giới hư không giới sắp thị hiện[38] nhập Niết
Bàn, và các Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học,
cho đến hết thảy thiện tri thức, tôi đều
khuyên mời chớ vào Niết Bàn, mà hăy ở lại đời
trong số kiếp nhiều như số cực vi trần
trong hết thảy cơi Phật v́ muốn lợi lạc hết
thảy chúng sanh. Như thế hư không giới tận,
chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh
phiền năo tận, sự khuyến thỉnh này của tôi
chẳng có cùng tận, niệm niệm tiếp nối không
có gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp chẳng hề
chán mệt).
Phàm phu rốt cuộc vẫn là phàm phu, nghe giảng
kinh thuyết pháp tựa hồ có thâu hoạch, có giác ngộ,
nhưng đôi ba ngày sau bèn quên tuốt luốt. Nghe kinh một
lần mà khai ngộ tựa hồ chẳng có ai, chỉ có
ḿnh Lục Tổ Huệ Năng mà thôi. Chân chánh ngộ nhập
là một chuyện khó, nên cần phải thường mời
thiện tri thức ở luôn nơi này, ngày ngày giảng
kinh thuyết pháp giáo hóa chúng ta, chúng ta ngày ngày được
Phật pháp huân tập, thời gian lâu sau sẽ vô h́nh trung giác
ngộ.
Phật pháp thường trụ thế gian th́
người thế gian bèn có phước báo. Phật pháp chẳng
thường trụ thế gian, người thế gian gặp
nhiều tai nạn. Thiên tai, tai nạn tự nhiên thuộc
về y báo, y báo chuyển theo chánh báo, cũng là do tâm con
người chiêu cảm. Bởi thế, người có
phước báo sống nơi phước địa. Chúng
ta muốn tu phước hành thiện nhưng rốt cục
việc ǵ là phước, chuyện ǵ là thiện thường
chưa thể phân biệt được. Thiện và
phước tầng lớp khác nhau, phạm vi của chúng
rộng hay hẹp chỉ có Phật, Bồ Tát mới có thể
thấu hiểu triệt để chân tướng sự
thật. Bởi thế, quư Ngài có năng lực trí huệ
dạy chúng ta, chúng ta mới có thể thật sự biết
đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, thế
giới này mới ḥa b́nh, nhân dân mới thật sự yên
vui.
Thỉnh chuyển pháp luân và thỉnh Phật trụ
thế nh́n th́ đơn giản, nhưng trên thực tế
lại chẳng dễ dàng. Vào thời đại
Lương Vơ Đế và sư Bảo Chí Công có câu chuyện
như sau: Ở Tứ Xuyên có một vị cao tăng thật
sự đắc đạo, tên là Bảo Hương thiền
sư. Ngài ở Tứ Xuyên rất nhiều năm, dùng
đủ mọi pháp phương tiện khuyên người
đoạn ác tu thiện. Phong tục xứ ấy mỗi
khi gặp dịp tế lễ phải sát sanh; mỗi
năm pháp sư khổ công khuyên họ đừng tạo
sát nghiệp, chẳng ai thèm nghe, trái lại c̣n cười
nhạo Ngài. Pháp sư khó chịu vô cùng. Có một năm, có
một vị cư sĩ lên kinh thành bái kiến ngài Bảo
Chí Công, Bảo Chí Công là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát.
Lương Hoàng Sám do ngài Bảo Chí Công soạn. Bảo Chí
Công hỏi vị cư sĩ Tứ Xuyên ấy:
- Hương Tứ Xuyên quư hay không?
Vị cư sĩ đáp:
-
Hương Tứ Xuyên rất rẻ.
Ư ngài Bảo
Chí Công hỏi Bảo Hương thiền sư quư hay không
quư, có nghĩa là mọi người có tôn trọng, quư mến
ông ta hay không? Ông cư sĩ nghe hỏi, tưởng Ngài hỏi
hương để đốt của tỉnh Tứ
Xuyên có quư hay không, bèn đáp hương xứ đó rất
rẻ. Bảo Chí Công nói:
- Đă rẻ
th́ sao không đi đi?
Ông cư
sĩ nghe không hiểu lời ngài Chí Công. Mấy hôm sau, ông
ta trở về Tứ Xuyên, gặp Bảo Hương thiền
sư. Thiền sư hỏi ông ta:
- Bảo
Chí Công nói những ǵ?
Cư
sĩ đáp:
- Ngài nói
hương của tỉnh Tứ Xuyên ta quư hay không, tôi
đáp rất rẻ. Bảo Chí Công nói: “Đă rẻ th́ sao
không đi đi?” Tôi nghe không hiểu ǵ cả!
Bảo
Hương nghe nói vậy, gật đầu. Mấy hôm
sau, lại có pháp hội tế lễ. Mọi người
vẫn giết nhiều ḅ dê để cúng tế như
cũ. Ngày hôm ấy, Bảo Hương chẳng giống
như khi trước, Ngài đào một cái hố rất
to, to như cái ao ở cổng chùa, đổ đầy
nước. Ngài cũng tham dự pháp hội tế lễ,
cũng theo họ ăn cá, ăn thịt. Trước
đây Ngài khuyên người khác chớ sát sanh, nay lại
theo họ ăn cá ăn thịt, mọi người vô cùng
ngạc nhiên. Ăn uống xong, Thiền Sư đến
bên cái hố, há miệng, những con cá Ngài ăn vào đều
sống lại, được Ngài mửa ra bơi lội
trong nước. Những con gà vịt Ngài ăn vào đều
sống lại hết. Thần thông vừa hiện, mọi
người sững sờ. Mửa hết xong, Ngài bèn đứng
văng sanh. Bậc cao tăng đắc đạo hoằng
pháp lợi sanh ở địa phương này, chúng ta chẳng
tôn trọng, Ngài đi mất rồi!
Câu chuyện
này cảnh tỉnh chúng ta: Thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh
Phật tại thế, phải dùng phương pháp nào
đây? Trọn chẳng phải v́ tiền bạc, hưởng
thọ, giả danh. Đem chùa miếu to cúng dường
pháp sư để giữ Ngài ở lại được
chăng? Chẳng giữ được! Dùng danh văn lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần giữ chẳng
được! Chỉ có một phương pháp giữ lại
được là dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh tiếp nhận
sự dạy răn của pháp sư, y giáo phụng hành. Thỉnh
pháp sư đến hoằng pháp lợi sanh, giáo hóa chúng
sanh một phương th́ lại càng phải nỗ lực
tinh tấn bội phần, tu hành đúng như lời dạy.
Có được cái tâm như thế, cái nguyện như
thế, hành tŕ như thế nhất định có cảm ứng,
sẽ cầu được bậc hữu tu hữu chứng
ở lại địa phương ấy.
Mười đại
nguyện vương tuy có mười điều, nhưng
trên thực tế, Phổ Hiền đại nguyện chỉ
có bảy điều, bảy điều đă giảng
viên măn. Ba điều sau đều là nói về hồi
hướng. Thông thường trong hồi hướng kệ,
thường nói đến hồi hướng Bồ Đề,
hồi hướng Phật đạo, hồi hướng
chúng sanh.
1.8. Nguyện thứ
tám: Thường tùy Phật học
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thường
tùy Phật học giả: Như thử Sa Bà thế giới,
Tỳ Lô Giá Na Như Lai tùng sơ phát tâm, tinh tấn bất
thoái, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết
thân mạng, nhi vi bố thí: bác b́ vi chỉ, tích cốt vi
bút, thích huyết vi mặc, thư tả kinh điển,
tích như Tu Di. Vị trọng pháp cố, bất tích thân mạng,
hà huống vương vị, thành ấp, tụ lạc,
cung điện, viên lâm, nhất thiết sở hữu? Cập
dư chủng chủng nan hành khổ hạnh, năi chí thọ
hạ thành đại Bồ Đề, thị chủng chủng
thần thông, khởi chủng chủng biến hóa, hiện
chủng chủng Phật thân, xử chủng chủng chúng
hội: hoặc xử nhất thiết chư đại Bồ
Tát chúng hội đạo tràng, hoặc xử Thanh Văn, cập
Bích Chi Phật chúng hội đạo tràng, hoặc xử
Chuyển Luân Thánh Vương, tiểu vương quyến
thuộc chúng hội đạo tràng, hoặc xử Sát-lợi,
cập Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ chúng hội
đạo tràng, năi chí hoặc xử thiên long bát bộ, nhân
phi nhân đẳng chúng hội đạo tràng. Xử ư
như thị chủng chủng chúng hội, dĩ viên măn âm
như đại lôi chấn, tùy kỳ nhạo dục,
thành thục chúng sanh, năi chí thị hiện nhập ư Niết
Bàn. Như thị nhất thiết, ngă giai tùy học như
kim Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na.
Như
thị tận pháp giới, hư không giới, thập
phương tam thế, nhất thiết Phật sát, sở
hữu trần trung, nhất thiết Như Lai, giai diệc
như thị. Ư niệm niệm trung, ngă giai tùy học.
Như thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận,
chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă thử
tùy học, vô hữu cùng tận. Niệm niệm
tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ư
nghiệp, vô hữu b́ yểm.
(Lại này
thiện nam tử! Nói thường học theo Phật
nghĩa là: Như đức Tỳ Lô Giá Na[39] trong thế giới
Sa Bà này, từ sơ phát tâm, tinh tấn chẳng lùi, dùng bất
khả thuyết bất khả thuyết thân mạng để
bố thí: lột da làm giấy, chẻ xương làm bút,
chích máu làm mực, biên chép kinh điển, chất như
núi Tu Di. V́ tôn trọng pháp nên chẳng tiếc thân mạng,
huống ǵ ngôi vua, thành, ấp, xóm, làng, cung điện,
vườn, rừng, hết thảy sở hữu và đủ
mọi khổ hạnh khó làm. Cho đến ngồi dưới
gốc cây thành đại Bồ Đề, thị hiện
thần thông, khởi mọi thứ biến hóa, hiện các
thứ thân Phật ở trong các chúng hội: Hoặc ở
giữa chúng hội đạo tràng của hết thảy
các đại Bồ Tát, hoặc ở giữa chúng hội
đạo tràng của Thanh Văn và Bích Chi Phật, hoặc
ở giữa chúng hội đạo tràng của Chuyển
Luân Thánh Vương[40], tiểu
vương, và quyến thuộc, hoặc chúng hội đạo
tràng của Sát-lợi[41], Bà La Môn, trưởng
giả, cư sĩ, cho đến chúng hội đạo
tràng của thiên long bát bộ[42], nhân phi nhân v.v… Ở
trong đủ mọi chúng hội như thế, dùng tiếng
viên măn như sấm rền lớn, tùy ḷng ưa thích của
mỗi loại mà thành thục[43] chúng sanh, cho
đến thị hiện nhập Niết Bàn. Hết thảy
như thế, tôi đều học theo như đức
Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na ngày nay.
Như thế tận
hư không giới, chúng sanh giới, mười phương
ba đời hết thảy cơi Phật, trong tất cả
vi trần, hết thảy Như Lai cũng đều
như thế. Trong niệm niệm tôi đều học
theo. Như thế tận hư không giới, chúng sanh giới
tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận,
sự tùy học này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm
niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Thân ngữ
ư nghiệp chưa hề chán mệt).
“Thường học
theo Phật” là hồi hướng Bồ Đề. Bồ
Đề là Phật. Học Phật muốn thật sự
thành tựu nhất định phải có thầy tốt
chỉ dạy; lại c̣n phải có đồng học,
đồng tham đạo hữu tốt thường ra sức
dùi mài nghiên cứu thảo luận. Ngoài ra, c̣n phải có những
gương tốt khiến cho chúng ta tu học thật sự
có mục tiêu. Như Mạnh Tử học Khổng Tử
là một thí dụ: Mạnh Tử chiếu theo trước
tác của Khổng Tử, tu hành đúng theo lời dạy,
có điều ǵ không hiểu bèn thỉnh giáo đệ tử
của Khổng Tử. Thiện tri thức khó cầu, chẳng
t́m được thiện tri thức th́ cầu nơi cổ
nhân. Như Ngẫu Ích đại sư học Liên Tŕ đại
sư: Đương thời Liên Tŕ đại sư
đă văng sanh, ngài xem Liên Tŕ Đại Sư Toàn Tập, thờ
Liên Tŕ đại sư làm thầy, nghe theo lời răn dạy
của Liên Tŕ đại sư, tu hành theo đúng lời thầy
dạy, bèn thành công, trở thành vị tông sư
đương thời.
Thầy Lư
Bỉnh Nam dạy tôi lấy Ấn Quang pháp sư làm thầy,
dạy tôi đọc Ấn Quang Văn Sao, y chiếu lời
Ấn Quang pháp sư răn dạy mà tu hành. Phổ Hiền
Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, dạy chúng ta thường
học theo Phật, bảo chúng ta học theo Phật. Phật
đă tu chứng đến mức viên măn rốt ráo, chúng
ta lấy Phật làm gương ḥng un đúc chính ḿnh. Phật
dùng tâm như thế nào, dùng thái độ như thế nào
để xử sự, đăi người tiếp vật,
chúng ta học theo Ngài. Thường nhật Phật sanh hoạt
như thế nào, chúng ta cứ học theo Ngài. Quư vị học
đức Phật đúng từng bước, từng nét
th́ xin chúc mừng quư vị, quư vị đă thành Phật rồi
đấy!
Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta học
theo đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai tu học trong thế
giới Sa Bà này, nhưng không giới thiệu A Di Đà
Như Lai cho chúng ta. Mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc, rơ ràng là khuyên chúng
ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
thân cận A Di Đà Phật, nhưng ở đây thường
học theo Phật, Ngài bèn dạy chúng ta học theo Tỳ
Lô Giá Na Phật. Nghĩa này phải hiểu như thế
nào? Chư vị phải nhớ kỹ: Học Phật tiếp
nhận sự giáo dục của Phật, tối khẩn yếu
là đừng quên mất gốc. Phổ Hiền Bồ Tát
là học tṛ của Tỳ Lô Giá Na, bởi thế Ngài dạy
chúng ta học theo thầy Ngài. Tỳ Lô Giá Na là Báo Thân Phật[44],
Thích Ca Mâu Ni Phật là thân ứng hóa của Tỳ Lô Giá Na
Phật. Đây là lấy Phật làm tấm gương tu
hành cho chúng ta. Chúng ta phải học theo đúng như Ngài.
“Từ sơ phát tâm”: Lúc Phật phát tâm tối
sơ, chúng ta phải học theo Ngài phát tâm. Sau khi đức
Phật đă phát tâm, trong một thời gian dài “tinh tấn
chẳng lùi”, chúng ta cũng học làm theo đúng như
thế. Thành Phật chẳng phải một hai ngày là đạt
được, cũng chẳng phải là một hai đời
thành tựu được đâu. Mỗi một vị Phật
tu hành chứng quả đều là vô lượng kiếp.
Thời gian dài lâu không cách ǵ tưởng tượng
được. Bởi thế chúng ta phải phát tâm dài xa,
phải có tâm nhẫn nại, việc này chẳng thể gấp
rút được, phải nghiêm túc nỗ lực tu học.
Lúc Phật c̣n tu nhân, sau khi phát tâm, thời gian tu hành dài lâu,
phương pháp tu hành vô lượng vô biên.
Ở
đây, Phổ Hiền Bồ Tát nêu ra một thí dụ: “Dùng
thân mạng để bố thí”, tức là Nội Tài Bố
Thí. Trong truyện kư có ghi lại những chuyện tu hành của
Thích Ca Mâu Ni Phật trong đời đời kiếp kiếp,
rất đáng để học theo. Lúc c̣n tu nhân, Phật
tu Bồ Tát đạo, v́ lưu thông kinh điển, trong
chốn núi sâu t́m không ra giấy, Ngài tự lột da ḿnh làm
giấy, tách đầu xương làm bút, chích huyết làm
mực để biên chép kinh giáo các vị cổ Phật
đă nói để lưu truyền cho hậu thế ngơ hầu
khỏi bị thất truyền. Đời đời kiếp
kiếp tu hành như thế, biên chép kinh điển chồng
chất cao như núi Tu Di, đời đời kiếp kiếp
chẳng coi trọng nhục thân của chính ḿnh, vị pháp
vong thân. Thân thể c̣n chẳng coi trọng, huống ǵ vật
ngoại thân? Vật ngoài thân càng chẳng để vào mắt.
Khổ hạnh khó làm như thế, Ngài làm được.
Nghĩ đến bản thân chúng ta học Phật, gặp
phải chút khó khăn ǵ bèn bỏ cuộc ngay; so với Phật
lúc tu nhân, chúng ta kém xa quá! Chẳng lạ ǵ Ngài thành Phật,
chúng ta vẫn cứ luân hồi trong lục đạo.
Tôi giới thiệu A Di Đà Phật cùng quư vị
đồng tu. Bởi lẽ Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng
dễ học, kinh điển của Ngài là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Một ngày niệm
tám tiếng, chỉ niệm một lần thôi cũng phải
mất nửa tháng [mới niệm xong toàn bộ kinh Hoa
Nghiêm]. Chúng ta thờ A Di Đà Phật làm thầy, Thích Ca
Mâu Ni Phật, Tỳ Lô Giá Na, mười phương hết
thảy chư Phật Như Lai thấy quư vị chọn
lựa như vậy mỗi Ngài đều vỗ tay, hoan hỷ
rằng quư vị đă chọn đúng. Từ vô lượng
kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp
chúng ta chưa từng chọn lựa đúng, lần này chọn
lựa đúng. Chọn đúng th́ phải tu hành đúng
như lời dạy, một đời này quyết định
thành Phật, lẽ nào chư Phật chẳng hoan hỷ,
chẳng tán thán?
Đối với chính ḿnh phải có tín tâm, A Di
Đà Phật chẳng khó học, kinh điển của
ngài là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Hoa Nghiêm là cốt tủy
của Đại Tạng Kinh, kinh Vô Lượng Thọ là
cốt tủy của kinh Hoa Nghiêm. Quá khứ, Hoằng Nhất
đại sư khuyên người học Phật nên nhập
môn bằng Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao. Đáng tiếc con người
hiện đại chẳng rành văn ngôn cho lắm, đọc
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao chẳng hiểu. Kinh Vô Lượng
Thọ nói rơ ràng, gần gũi dễ hiểu, có thể nói
là vô cùng khế cơ đối với người hiện
thời. Hôm nay tôi khuyên các vị thường học theo Phật
là học Phật A Di Đà, tu học theo sự giáo huấn
của kinh Vô Lượng Thọ.
Kinh Vô
Lượng Thọ phải thường xuyên niệm, phải
niệm cho thật thuộc. Niệm Phật, niệm kinh
là niệm cho hết vọng niệm, chẳng tạo nghiệp
luân hồi sáu nẻo. Kinh điển niệm thuộc th́
trong sanh hoạt thường nhật, khởi tâm động
niệm đều nghĩ đến những điều
kinh giáo huấn: Chúng ta có nên khởi những ư niệm này
hay không? Chúng ta có nên nói lời này hay không? Chúng ta có nên làm việc
này hay không? Phải tích cực tu học lời Phật A Di
Đà giáo huấn, lâu ngày chầy tháng, quư vị sẽ tự
nhiên biến đổi. Tâm phàm phu, tập khí phàm phu dần
dần giảm thiểu, tập khí A Di Đà Phật ngày dần
càng sâu, càng gần với đức Phật. Kinh điển
chẳng thuộc, chúng ta khởi tâm động niệm chẳng
có tiêu chuẩn; niệm thuộc th́ mới có thể thường
tùy Phật học.
Phải
học phát tâm như Phật, phải học tu tŕ như Phật,
phải học chứng quả như Phật, phải học
hoằng pháp lợi sanh như Phật, mọi thứ đều
phải học theo Ngài như thế. Cho đến tám
tướng thành đạo chúng ta cũng phải học tập
theo. Tám tướng thành đạo là diễn kịch, là biểu
diễn cho hết thảy chúng sanh xem, chẳng những chỉ
có ngôn giáo mà c̣n có thân giáo. Học A Di Đà Phật là học
mười phương ba đời hết thảy Phật;
bởi Phật Phật đạo đồng, một tức
là nhiều, nhiều chính là một. Biết được
đạo lư này, chúng ta bèn rất an tâm, tâm lư yên ổn, chẳng
hoài nghi, chẳng lo lắng, dùng tâm chân thành cung kính để
học.
1.9. Nguyện thứ
chín: Hằng thuận chúng sanh
Chánh kinh:
Phục thứ thiện nam tử! Ngôn hằng
thuận chúng sanh giả: Vị tận pháp giới, hư
không giới, thập phương sát hải, sở hữu
chúng sanh chủng chủng sai biệt, sở vị: noăn
sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc hữu y ư
địa, thủy, hỏa, phong nhi sanh trụ giả, hoặc
hữu y không, cập chư măng mộc nhi sanh trụ giả,
chủng chủng sanh loại, chủng chủng sắc
thân, chủng chủng h́nh trạng, chủng chủng tướng
mạo, chủng chủng thọ lượng, chủng chủng
tộc loại, chủng chủng danh hiệu, chủng chủng
tâm tánh, chủng chủng tri kiến, chủng chủng dục
lạc, chủng chủng ư hạnh, chủng chủng oai
nghi, chủng chủng y phục, chủng chủng ẩm thực,
xử ư chủng chủng thôn doanh, tụ lạc, thành ấp,
cung điện, năi chí nhất thiết thiên long bát bộ,
nhân phi nhân đẳng, vô túc, nhị túc, tứ túc, đa
túc, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng,
phi hữu tưởng phi vô tưởng. Như thị
đẳng loại ngă giai ư bỉ, tùy thuận nhi chuyển
chủng chủng thừa sự, chủng chủng cúng
dường, như kính phụ mẫu, như phụng
sư trưởng, cập A La Hán, năi chí Như Lai, đẳng
vô hữu dị. Ư chư bệnh khổ, vị tác
lương y. Ư thất đạo giả, thị kỳ
chánh lộ. Ư ám dạ trung, vị tác quang minh. Ư bần
cùng giả, linh đắc phục tạng. Bồ Tát
như thị b́nh đẳng, nhiêu ích nhất thiết chúng
sanh.
Hà
dĩ cố? Bồ Tát nhược năng tùy thuận chúng
sanh, tắc vi tùy thuận cúng dường chư Phật.
Nhược ư chúng sanh tôn trọng thừa sự, tắc
vi tôn trọng, thừa sự Như Lai. Nhược linh
chúng sanh sanh hoan hỷ giả, tắc linh nhất thiết
Như Lai hoan hỷ.
Hà
dĩ cố? Chư Phật Như Lai dĩ đại bi
tâm nhi vi thể cố. Nhân ư chúng sanh, nhi khởi đại
bi. Nhân ư đại bi, sanh Bồ Đề tâm. Nhân Bồ
Đề tâm, thành Đẳng Chánh Giác. Thí như khoáng dă, sa
tích chi trung, hữu đại thọ vương. Nhược
căn đắc thủy, chi diệp hoa quả tất giai
phồn mậu. Sanh tử khoáng dă, Bồ Đề thọ
vương, diệc phục như thị. Nhất thiết
chúng sanh nhi vi thọ căn. Chư Phật Bồ Tát nhi vi
hoa quả. Dĩ đại bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc
năng thành tựu chư Phật Bồ Tát trí huệ hoa quả.
Hà
dĩ cố? Nhược chư Bồ Tát dĩ đại
bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Thị cố
Bồ Đề thuộc ư chúng sanh. Nhược vô chúng
sanh, nhất thiết Bồ Tát chung bất năng thành Vô
Thượng Chánh Giác.
Thiện
nam tử! Nhữ ư thử nghĩa, ưng như thị
giải. Dĩ ư chúng sanh tâm b́nh đẳng cố, tắc
năng thành tựu viên măn đại bi. Dĩ đại bi
tâm tùy chúng sanh cố, tắc năng thành tựu cúng dường
Như Lai. Bồ Tát như thị tùy thuận chúng sanh,
hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh
nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă thử tùy
thuận vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương
tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp vô
hữu b́ yểm.
(Lại
này thiện nam tử! Nói hằng thuận chúng sanh nghĩa
là tận pháp giới, hư không giới, mười
phương biển cơi Phật, tất cả chúng sanh mọi
thứ sai biệt, tức là: noăn sanh, thai sanh, thấp sanh,
hóa sanh[45]
hoặc có loài nương nơi đất, nước,
gió, lửa mà tồn tại, hoặc có loài nương vào
không trung và các thứ cỏ cây để tồn tại. Mọi
thứ sanh loại, mọi thứ sắc thân[46], mọi thứ
h́nh dạng, mọi thứ tướng mạo, mọi thứ
tuổi thọ, mọi thứ tộc loại, mọi thứ
danh hiệu, mọi thứ tâm tánh, mọi thứ tri kiến,
mọi thứ dục lạc, mọi thứ ư hạnh, mọi
thứ oai nghi[47], mọi thứ
y phục, mọi thứ thức ăn, sống trong mọi
thứ thôn doanh, làng xóm, thành ấp, cung điện, cho
đến hết thảy thiên long bát bộ, nhân phi nhân v.v…
không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc[48], có tưởng,
không tưởng, chẳng phải có tưởng chẳng
phải không tưởng[49]. Với những
loài như thế, tôi đều ở nơi đó tùy thuận
thực hiện mọi thứ thừa sự[50], mọi thứ
cúng dường như kính cha mẹ, như thờ sư
trưởng, và A La Hán, thậm chí giống như Như
Lai chẳng sai khác. Với những kẻ bệnh khổ,
tôi làm lương y. Với kẻ lạc đường,
chỉ cho đường đúng. Trong nơi tăm tối,
bèn làm quang minh. Với kẻ bần cùng khiến được
kho tàng. Bồ Tát b́nh đẳng lợi ích hết thảy
chúng sanh như thế.
V́ sao vậy?
Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh th́ chính là tùy
thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng
thừa sự chúng sanh chính là tôn trọng thừa sự
Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ chính là khiến
cho hết thảy Như Lai hoan hỷ.
V́ sao vậy?
V́ chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm thể.
Nhân nơi chúng sanh mà khởi đại bi; nhân nơi đại
bi, sanh tâm Bồ Đề; nhân tâm Bồ Đề thành
Đẳng Chánh Giác. Ví như trong chốn đồng hoang
sa mạc[51],
có đại thọ vương[52], nếu rễ
cây hút được nước th́ cành, lá, hoa, quả thảy
đều sum suê. Thọ vương Bồ Đề trong
chốn đồng hoang sanh tử cũng giống như
thế. Hết thảy chúng sanh là rễ cây, chư Phật,
Bồ Tát là hoa quả. Dùng nước đại bi lợi
ích chúng sanh th́ có thể thành tựu hoa quả trí huệ Phật,
Bồ Tát.
V́ sao vậy?
Chư Phật, Bồ Tát dùng nước đại bi lợi
ích chúng sanh th́ có thể thành tựu Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. V́ thế Bồ Đề thuộc
nơi chúng sanh. Nếu không có chúng sanh th́ hết thảy Bồ
Tát trọn chẳng thể thành Vô Thượng Chánh Giác.
Này thiện nam tử!
Đối với nghĩa này ông nên hiểu như thế.
Do tâm b́nh đẳng đối với chúng sanh nên có thể
thành tựu viên măn đại bi; v́ dùng tâm đại bi tùy
thuận chúng sanh nên có thể thành tựu sự cúng dường
Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như thế
hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh
nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận, sự tùy thuận
này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp
nối, chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp
chẳng có chán mệt)
Nguyện
thứ tám là hồi hướng Bồ Đề. Hằng
thuận chúng sanh là hồi hướng chúng sanh. Nguyện
thứ mười là hồi hướng pháp giới. Trong
Đại kinh (kinh Vô Lượng Thọ) đức Phật
dạy chúng ta phải đem công đức tu học hồi
hướng về ba chỗ: Bồ Đề, chúng sanh,
pháp giới. V́ sao phải hồi hướng? Phàm phu chẳng
thể thành Phật, thành Bồ Tát là do Ngă Chấp quá nặng,
khởi tâm động niệm chỉ nghĩ đến
ḿnh. Do đấy, từ vô lượng kiếp đến
nay chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành, dù chỉ
Sơ Quả cũng chẳng chứng được.
Đức Phật dạy chúng ta pháp môn Hồi Hướng
chính là dạy chúng ta phải phá Ngă Chấp, khiến chúng ta
khởi tâm động niệm chẳng nghĩ đến
ḿnh, khởi tâm động niệm chẳng v́ tự ḿnh,
mà v́ Bồ Đề, v́ chúng sanh, v́ pháp giới, mở rộng
tâm lượng. Chỉ có mở rộng tâm lượng th́
vọng tâm mới phá trừ, chân tâm mới hiện tiền,
có vậy mới có thể vượt thoát tam giới, mới
ḥng thành Phật, thành Bồ Tát. Bởi vậy, pháp môn Hồi
Hướng trọng yếu phi thường.
“Nguyện
đem công đức này,
Trang
nghiêm tịnh độ Phật,
Trên đền
bốn ân nặng,
Dưới
cứu khổ tam đồ.
Nếu
có ai thấy nghe,
Đều
phát tâm Bồ Đề,
Hết một
báo thân này,
Cùng sanh
nước Cực Lạc”.
Đấy
là bài kệ hồi hướng chúng ta thường niệm
mỗi khi niệm Phật, niệm kinh, giảng kinh xong.
“Nguyện
đem công đức này, trang nghiêm tịnh độ Phật” là hồi hướng pháp giới.
“Trên
đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam
đồ” là hồi hướng
chúng sanh. Phật pháp niệm niệm chẳng quên hiếu
kính. Tứ Ân: ân thứ nhất là ân cha mẹ. Phật pháp
chẳng khéo học tức là bất hiếu. Lên đài giảng
kinh, nếu chẳng giảng khéo, giảng sai lầm tức
là bất hiếu đối với cha mẹ, bất kính
đối với sư trưởng. Người nghe kinh
dưới đài, nếu chẳng chú tâm nghe, cũng là bất
hiếu bất kính. Ân thứ hai là ân thầy dạy. Phật
là thầy của chúng ta, phải báo ân thầy. Ân thứ ba
là ân quốc gia. Chính quyền cai trị tốt đẹp,
ai nấy đều giữ pháp, người người
đều hành thiện, mọi người an cư lạc
nghiệp, đấy là ân đức của chánh phủ. Ân
thứ tư là ân chúng sanh, tức là ân đức của
nhân dân. Cơm ăn áo mặc của chúng ta, hết thảy
những thứ cần dùng cho cuộc sống đều
phải dựa vào đại chúng trong xă hội, đại
chúng trong xă hội có ân đức với nhau. “Hạ tế
tam đồ khổ” (Dưới cứu khổ tam
đồ): Tế là cứu tế, siêu độ. Tam Đồ
là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta nỗ
lực tu học ḥng có năng lực giúp họ ĺa khổ
được vui.
“Nếu
có ai thấy nghe, đều phát tâm Bồ Đề” là hồi hướng Bồ Đề.
Tám câu kệ hồi hướng đủ cả ba thứ
hồi hướng. Niệm kệ hồi hướng phải
từ nội tâm chân chánh phát nguyện, tâm và miệng
tương ứng, công đức vô lượng vô biên. Câu
cuối cùng quy kết thế giới Cực Lạc: “Hết
một báo thân này, cùng sanh nước Cực Lạc”. Tám
câu kệ này viên măn phi thường.
Đức
Phổ Hiền nói: “Tất cả chúng sanh mọi thứ
sai biệt”, ở đây nói đến hữu t́nh chúng
sanh trong chín pháp giới. Các thứ sanh loại: Sanh loại
có bốn thứ khác nhau là noăn sanh, thai sanh, thấp sanh và
hóa sanh. Các thứ sắc thân: thân thể, diện mạo
khác nhau, chỉ nói tóm gọn trong phạm vi nhân loại
thôi, màu da đă khác nhau, có người da trắng, người
da vàng, người da đen. Các thứ h́nh dạng: Người
thuộc chủng tộc nào, quốc gia nào chúng ta nh́n biết
ngay, người Trung Quốc có h́nh dạng người
Trung Quốc, người Ấn Độ có h́nh dạng
người Ấn Độ. Các thứ tướng mạo:
Tướng mạo bất đồng. Các thứ thọ
lượng: Có kẻ trường thọ, có kẻ đoản
mạng. Chủng tộc sai khác, danh hiệu bất đồng,
những suy nghĩ trong tâm chẳng giống nhau, kiến giải
chẳng tương đồng, tư tưởng sai khác,
yêu thích khác biệt, cho đến những tập quán thói
quen sanh hoạt cũng bất đồng, thức ăn
cũng bất đồng. Bồ Tát dạy chúng ta: “Với
những loài như thế tôi đều tùy thuận theo họ”:
Đối với các loài chúng sanh sai khác đều phải
tùy thuận hết. Tùy thuận như thế nào? Phải
nhẫn. Nếu quư vị không nhịn chịu, quư vị chẳng
thể tùy thuận được.
“Thường
học theo Phật” là đặt
nặng Bố Thí. Cái ǵ Phật cũng buông xuống hết
th́ trong Lục Độ đó chính là học Xả. “Hằng
thuận chúng sanh” là học lấy Nhẫn Nhục trong
Lục Độ. Chúng ta nhẫn được như thế,
nhẫn được th́ sẽ thuận được.
Thuận theo chúng sanh, chúng sanh sẽ hoan hỷ. Đặc
biệt là người học Phật, nếu chẳng thể
nhẫn nại, ắt sẽ bị người trông thấy
khinh cười. Nêu một thí dụ nông cạn dễ thấy
nhất: Đến xứ nào thuận theo phong tục xứ
đó. Anh ăn cái ǵ, tôi ăn cái đó; chớ đừng
tôi thích ăn cái ǵ, anh phải thay tôi làm cái đó, gây thêm phiền
phức cho người ta. Phải thuận theo chúng sanh!
Ḿnh thích nằm
giường cứng, đến xứ này, người ta
cho quư vị nằm giường ḷ xo nệm mềm, quư vị
cũng phải cam chịu, chẳng thể buộc người
khác đổi giường chiếu khác cho quư vị
được. Lễ tiết, thù tạc, mọi thứ
phải tùy thuận. Đối với người ta phải
dùng tâm hiếu kính mà tùy thuận, tùy thuận hết thảy
mọi người giống như tùy thuận cha mẹ.
Kính hết thảy chúng sanh giống như kính trọng thầy
dạy. Tu hành nhất định phải tu cái tâm thanh tịnh
của chính ḿnh ngay nơi quảng đại quần chúng
sai biệt. Trong hoàn cảnh cực bất thanh tịnh, tâm
ta thanh tịnh th́ công phu thành tựu rồi; chẳng phải
là vào núi sâu hang thẳm tu hành, hoàn cảnh thanh tịnh,
nhưng tâm suy bậy nghĩ bạ, tâm chẳng thanh tịnh
đâu à! Tâm thanh tịnh phải tu trong chốn hồng trần.
Tâm b́nh đẳng phải tu trong hoàn cảnh cực bất
b́nh đẳng.
B́nh đẳng
đối với kẻ oán người thân, không ǵ là bất
b́nh đẳng cả. Bởi thế, oan gia là thiện tri
thức, là thầy tốt, quư vị nhờ đó
được b́nh đẳng. Tu hành như vậy chính là
như kinh Hoa Nghiêm dạy: Dùng sự để luyện
tâm, phải trải qua đủ mọi sự vật sai
biệt, mọi chuyện sai biệt, ở trong đó mới
có thể thật sự tu hành đến mức thanh tịnh
b́nh đẳng. Đạt đến thanh tịnh b́nh
đẳng th́ Lục Độ của Bồ Tát viên măn. Lục
Độ là nhân, thanh tịnh b́nh đẳng giác là quả
báo.
Phải coi
hết thảy chúng sanh như chư Phật, như Bồ
Tát. Trong mắt Phật, mọi chúng sanh đều là Phật.
Lúc Phật thành Phật, Ngài thấy hết thảy chúng
sanh nơi đại địa cùng thành Phật đạo.
Điều này cũng như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “T́nh và
vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí”, không có ǵ chẳng phải
là Phật. Trong con mắt phàm phu, Phật, Bồ Tát cũng
là phàm phu. Trong pháp giới có Phật hay chăng? Có phàm phu
hay chăng? Không có chi cả! Không có Phật, không có phàm phu,
pháp giới là b́nh đẳng. V́ sao lại có sai biệt?
Là v́ tâm
tưởng quư vị bất b́nh đẳng. Bởi thế
pháp giới b́nh đẳng biến thành pháp giới sai biệt.
Pháp giới b́nh đẳng là thật, pháp giới sai biệt
là giả, là do vọng tâm phân biệt, chấp trước
biến hiện. Học Phật phải trừ khử sai
biệt th́ cảnh giới b́nh đẳng thật sự mới
hiện tiền. Mười nguyện Phổ Hiền có thể
giúp chúng ta đạt đến cảnh giới rốt ráo
viên măn. Trong pháp giới b́nh đẳng thấy sai biệt
là chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi
hóa độ chúng sanh, là độ tha viên măn. Trong pháp giới
sai biệt thấy b́nh đẳng là chính ḿnh tu hành chứng
quả, là tự độ viên măn.
Đối
với hết thảy chúng sanh khổ nạn, chúng ta phải
tận tâm tận lực giúp đỡ họ. Khổ nạn
do đâu mà có? Chẳng t́m được bệnh căn th́
chẳng có cách ǵ để có thể triệt để
giúp đỡ họ được. Tất cả hết
thảy chúng sanh khổ nạn vốn là do mê hoặc,
điên đảo. Nói cách khác, đối người,
đối sự, đối vật, nghĩ sai, thấy
sai, làm sai. Có lục đạo chúng sanh là do mức độ
lầm lạc sâu hay cạn, rộng hay hẹp mà biến
thành lục đạo. Trời người cách nghĩ,
cách nh́n sai lầm khá cạn, c̣n súc sanh, ngạ quỷ cách
nghĩ sai lầm sâu hơn; chúng sanh trong địa ngục
cách nghĩ hoàn toàn lầm lạc. Phải nhờ vào giáo dục
của đức Phật mới có thể dạy chúng sanh
khôi phục Chánh Tri Chánh Kiến, có cách nghĩ, cách nh́n chánh
xác đối với hết thảy sự lư nhân sanh vũ
trụ. Muốn cứu vớt chúng sanh khổ nạn th́ nhất
định phải giúp họ phá mê khai ngộ. Nói cách khác,
phải đem nền giáo dục của đức Phật
giới thiệu cho họ, giúp họ tu học, tự nhiên
họ sẽ giải quyết được vấn đề.
Tại gia
cư sĩ làm lụng, buôn bán kiếm lời muốn làm
nhiều việc tốt có được hay chăng? Nên
làm việc tốt lớn lao là hoằng pháp lợi sanh! Làm
bằng cách nào? In kinh sách, in các thiện thư dạy
người sửa lỗi, sao chép băng thâu âm, thâu h́nh giảng
kinh tặng người khác, đó là việc tốt nhất
định phải làm, đó là hoằng pháp lợi sanh.
Cũng có thể dùng danh nghĩa công ty, tên tiệm để
in sách, đăng quảng cáo cho công ty trên băng ghi âm, ghi
h́nh, kết duyên các nơi, th́ cũng giống như thay cho
công ty tuyên truyền quảng cáo, lợi tức nhất
định tăng trưởng. Đem băng ghi âm, ghi
h́nh giảng kinh phát trên đài phát thanh hay đài truyền
h́nh, khiến nhiều người mở máy TV, bật radio
bèn được nghe giảng kinh, thuyết pháp, công đức
càng lớn. Chẳng nhất định phải là người
có tiền mới làm được công đức lớn
lao; người không tiền chẳng thể tu đại
công đức, hiểu vậy là sai. Trong nhà Phật nói
đến tu công đức là nói tu từ tâm, cốt sao tận
tâm tận lực th́ công đức bèn lớn. Tâm lực
chưa dốc sạch th́ công đức sẽ nhỏ. Viên
măn đại công đức mỗi cá nhân đều có thể
tu được, đều có thể thành tựu viên măn,
đó gọi là tâm đại từ bi, là chân chánh hằng
thuận chúng sanh. Muốn thật sự giúp chúng sanh giải
quyết hết thảy khổ nạn th́ phải dựa
vào sự giáo dục của đức Phật.
Điểm
đặc sắc của hạnh nguyện Phổ Hiền
là mỗi một hạnh nguyện đều kiến lập
trên cơ sở thanh tịnh b́nh đẳng quảng đại
cung kính; đấy là điểm khác biệt so với hạnh
nguyện của các Bồ Tát khác. Bồ Tát có thể b́nh
đẳng lợi ích hết thảy chúng sanh là v́ có thể
tùy thuận. Tùy thuận chẳng phải là chuyện dễ
làm được. Người Trung Quốc nói đến
hiếu đạo, bên chữ Hiếu lại thêm chữ
Thuận. Chẳng Thuận tức là bất hiếu. Phải
có trí huệ cao độ, từ bi chân chánh, th́ mới có thể
thật sự thuận theo hết thảy chúng sanh.
Phổ Hiền
Bồ Tát lại dạy chúng ta: “Nếu Bồ Tát có thể
tùy thuận chúng sanh th́ chính là tùy thuận cúng dường
chư Phật”. Phật đă nói hết thảy chúng
sanh vốn là Phật, do đây biết rằng: Hằng thuận
chúng sanh đúng thực là tùy thuận cúng dường
chư Phật. Dùng cái tâm lễ kính chư Phật ấy,
thái độ ấy để tùy thuận hết thảy
chúng sanh th́ thật là phi thường; đó chính là tu hành
đến nơi đến chốn. Nếu chẳng tu
hành đến nơi đến chốn th́ vẫn c̣n có tâm
phân biệt, tâm chấp trước. Là Phật hay là Bồ
Tát th́ ta phải cung kính, nhưng với kẻ phàm phu,
người bại hoại, ta có phải cung kính hay
chăng? Một niệm phân biệt, chấp trước,
hạnh Phổ Hiền đánh mất ngay, bởi lẽ chẳng
có tâm b́nh đẳng. Chư Phật coi chúng sanh như cha mẹ
đối với con cái. Nếu có thể đối xử
với hết thảy chúng sanh ḥa mục như người
một nhà, Phật tâm bèn hoan hỷ sẽ khiến cho hết
thảy Như Lai hoan hỷ. Phật niệm niệm mong
trông thấy chúng sanh viên thành Phật đạo. Điều
đức Phật thích thấy chúng ta làm nhất là hằng
thuận chúng sanh.
“Chư
Phật Như Lai dùng tâm đại bi để làm thể”: Ở đây nói đến chỗ dụng
tâm bất đồng giữa ta và Phật. Chúng ta dụng
tâm: ư niệm đầu tiên là nghĩ đến ḿnh, chẳng
bao giờ nghĩ ngay đến người khác. Dù có
nghĩ đến người khác th́ kẻ đó phải
là người thân thiết của ḿnh, có dính líu đến
ḿnh. Người không quan hệ đời nào nghĩ đến!
Huống hồ, lại c̣n súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục, nếu quư vị thật sự nghĩ đến
họ, c̣n ăn thịt chúng sanh được sao? Nhất
định chẳng thể được!
Hằng thuận
chúng sanh: Súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục cũng
là chúng sanh, đều phải b́nh đẳng tùy thuận.
Từ chỗ này chúng ta mới thật sự nhận thấy
hạnh Phổ Hiền khó tu. Chúng ta nỗ lực tu học,
chỉ có thể học được ít phần, một
phần trăm, hai phần trăm là cùng; nếu muốn tu
được năm mươi phần trăm, chúng ta tu
không nổi! Phật dùng cái tâm b́nh đẳng từ bi, chẳng
có phân biệt. Ḷng từ bi ĺa hết thảy phân biệt
chấp trước th́ gọi là đại từ đại
bi. Đối với hết thảy hữu t́nh chúng sanh
trong chín pháp giới, Phật đều khởi từ bi, từ
Từ Bi xuất sanh Bồ Đề tâm, do từ bi bèn triệt
để giác ngộ, giác ngộ hết thảy chúng sanh và
ḿnh cùng một thể. Điều này chúng ta không biết
được.
Nếu
chúng ta biết được, tâm đồng thể đại
bi sẽ tự nhiên sanh khởi, bởi lẽ hết thảy
chúng sanh và ta là một thể. Đă là một thể, sao
c̣n có thể tàn hại chúng sanh? Bởi v́ tàn hại chúng
sanh chính là tàn hại chính ḿnh. Trong thế gian há có kẻ nào
ngu ngốc đến nỗi chính ḿnh tự hại ḿnh? Biết
“hết thảy chúng sanh chính là ḿnh” là điều
chư Phật Như Lai đă chứng, là cảnh giới
khó thể lănh hội, rất khó hiểu. Làm sao chúng sanh lại
có biến thành chính ḿnh cơ chứ! Trong kinh luận, Phật
thường dùng tỷ dụ để thuyết pháp, hy vọng
mọi người do tỷ dụ sẽ ngộ nhập cảnh
giới ấy.
Ví như
người nằm mộng, lúc tỉnh mộng th́ vẫn
nhớ rất rơ những sự t́nh, cảnh tượng
trong mộng. Trong mộng thấy có chính ḿnh, cũng mộng
thấy rất nhiều người, rất nhiều chúng
sanh, cũng mộng thấy sơn hà đại địa,
cũng mộng thấy hư không, cảnh giới trong mộng
phảng phất như cảnh giới hiện tiền, bản
thân ḿnh trong mộng ấy nào phải do cha mẹ sanh ra.
Người, động vật, sơn hà đại địa,
hư không trong mộng do đâu mà có? Toàn thể mộng cảnh
đều do tự tâm quư vị biến hiện đó thôi.
Tâm ấy chẳng phải là chân tâm mà là vọng tâm, bởi
lẽ chân tâm chẳng có mộng. Công phu tu hành đạt
đến mức độ tương đương hoặc
niệm Phật đến mức Nhất Tâm Bất Loạn
sẽ chẳng có mộng. Những người tu hành chứng
quả A La Hán cũng không có mộng.
Do đó biết
rằng: mộng là vọng tâm. Vọng tâm từ đâu có?
Chân tâm và vọng tâm chúng ta đều t́m chẳng ra. Bởi
lẽ tâm chẳng có tướng, chỉ là lúc nằm mộng
bèn thấy được, lúc nằm mộng tâm biến
thành tướng. Mộng cảnh chính là tâm của quư vị,
cái tâm của quư vị biến ra mộng cảnh. Tất cả
hết thảy cảnh giới trong mộng đều từ
quư vị, đều là cảnh giới do cái tâm của
chính quư vị biến hiện ra. Trừ chính ḿnh, cái ǵ
cũng chẳng có. Trong kinh luận, Phật thường
nói: “Toàn vọng tức chân, toàn chân tức vọng”.
Xuyên qua mộng cảnh, lắng ḷng suy nghĩ, chúng ta sẽ
hiểu đôi phần ư nghĩa hai câu Phật vừa nói
trên. Vọng là hiện tượng. Hiện thời,
sơn hà đại địa, chúng sanh lăng xăng,
động vật, thực vật, khoáng vật bày ra
trước mắt chúng ta là do đâu mà có? Là do tự tánh của
chúng ta biến hiện. Kinh Kim Cang chép: “Phàm những ǵ có
tướng đều là hư vọng”. Tướng Vọng
là do tự tánh của chúng ta sau khi bị mê bèn hiện ra
tướng cảnh giới. Vĩnh Gia đại sư
nói: “Trong mộng rơ ràng có sáu nẻo, tỉnh rồi đại
thiên trống rỗng”. Đại triệt đại ngộ,
viên măn thành Phật, đại thiên thế giới chẳng
c̣n nữa, bởi lẽ chân tánh tỉnh mộng.
Mười
phương thế giới rốt cục là thật hay giả?
Giả hay thật đều chẳng thể nói được.
Quư vị nói là thật ư, nó là giả đấy; bảo
là giả ư, nó thật có đấy! Bởi thế, chớ
khởi nghi t́nh là thật hay giả, cứ biết chân
tướng sự thật là được rồi! Hư
không pháp giới do tự tánh biến hiện, hết thảy
hữu t́nh chúng sanh cũng do tự tánh biến hiện. Phật
dạy: “Mười phương ba đời, cùng chung một
Pháp Thân” là nói đến một sự thật. Phải
thành Phật mới thật sự biết được.
Bởi thế, Phật giúp đỡ
chúng sanh, v́ hết thảy chúng sanh giảng kinh thuyết
pháp, giúp họ khai ngộ, giúp họ tu hành chứng quả.
Đối với Phật mà nói, đó là nghĩa vụ của
Ngài, là chuyện Ngài phải làm. Ngài chẳng kể công, giống
như mẹ hiền chăm sóc con thơ, không điều
nhỏ nhặt nào lại chẳng quan tâm. Nếu quư vị
hỏi Phật v́ sao từ bi phổ độ hết thảy
chúng sanh? Phật sẽ đáp: “V́ họ đồng thể
với ta”. Độ người chính là độ ḿnh. Hiểu
rơ chân tướng sự thật mới hiểu hằng
thuận chúng sanh chính là cúng dường chư Phật, khiến
cho hết thảy chư Phật hoan hỷ. Bởi vậy,
Phật do đồng thể đại bi mà xuất sanh Bồ
Đề tâm, triệt để giác ngộ. Do Bồ Đề
tâm, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đấy
chính là con đường quang minh rộng lớn để
thành Phật của chư Phật. Bây giờ chúng ta
cũng đi theo con đường này, ắt sẽ thành
Phật.
Tùy thuận
chúng sanh chẳng thiệt tḥi đâu. Trước mắt thấy
tựa hồ thua thiệt, thật sự chẳng thua thiệt.
Nhịn được, nhường được, tùy
duyên được th́ sẽ thành tựu đức hạnh
cho chính ḿnh. Nào ai biết chịu thiệt chính là chiếm
tiện nghi. Với pháp thế gian, ta chịu thiệt một
tí, nhưng trong Phật pháp ta chiếm đại tiện
nghi.
Thế pháp
chướng ngại Phật pháp. Với thế pháp, chúng
ta lùi một bước, nhường một bước
th́ chướng ngại đối với Phật pháp bớt
được một tầng, liền được
đại tự tại. Trong kinh Vô Lượng Thọ,
cương lănh tu hành là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng.
Ĺa khỏi hết thảy chúng sanh th́ tu hành b́nh đẳng
thanh tịnh ở chỗ nào? Không có chỗ nào để tu
cả! Tâm thanh tịnh phải tu nơi nhiễm cảnh,
tâm b́nh đẳng phải tu trong hoàn cảnh cực bất
b́nh th́ mới là công phu, mới ḥng chân chánh thọ dụng.
Ngày nào đó, chúng ta thấy thế giới này, thấy hết
thảy chúng sanh tâm thật sự b́nh đẳng th́ tâm
đại từ đại bi sẽ hiện tiền.
Phải tu bao lâu mới
đạt đến cảnh giới ấy? Mỗi
người mỗi khác! Người lợi căn đạt
cảnh giới này rất nhanh, kẻ độn căn th́
mười năm, hai mươi năm, cũng có khi cả
đời tu chẳng thành, nguyên nhân là v́ chẳng buông xuống
nổi. Muốn thật sự đạt được
thanh tịnh b́nh đẳng th́ nhất định phải
thấy thấu suốt, buông xuống. Thân tâm, thế giới
hết thảy buông xuống hết; pháp thế gian, pháp xuất
thế gian cứ hễ c̣n có mảy may ư niệm, có mảy
may chấp trước, nghi hoặc, là quư vị chưa
buông xuống được. Phải thấy thấu suốt,
buông xuống rồi th́ mới có thể dùng tâm đại
bi tùy thuận hết thảy chúng sanh, mới có thể
được như Phổ Hiền Bồ Tát nói: thành tựu
cúng dường hết thảy Như Lai.
1.10. Nguyện thứ
mười: Phổ giai hồi hướng[53]
Chánh kinh:
Phục thứ thiện nam tử! Ngôn phổ
giai hồi hướng giả: Tùng sơ lễ bái, năi chí tùy
thuận, sở hữu công đức giai tất hồi
hướng, tận pháp giới, hư không giới, nhất
thiết chúng sanh, nguyện linh chúng sanh thường đắc
an lạc, vô chư bệnh khổ. Dục hành ác pháp, giai tất
bất thành. Sở tu thiện nghiệp, giai tốc thành tựu.
Quan bế nhất thiết chư ác thú môn, khai thị nhân
thiên Niết Bàn chánh lộ. Nhược chư chúng sanh nhân
kỳ tích tập chư ác nghiệp cố, sở cảm
nhất thiết cực trọng khổ quả, ngă giai
đại thọ, linh bỉ chúng sanh tất đắc giải
thoát, cứu cánh thành tựu vô thượng Bồ Đề.
Bồ Tát như thị sở tu hồi hướng, hư
không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp
tận, chúng sanh phiền năo tận, ngă thử hồi
hướng vô hữu cùng tận. Niệm niệm
tương tục, vô hữu gián đoạn; thân ngữ ư
nghiệp vô hữu b́ yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói hồi hướng khắp tất cả là từ sự lễ bái ban đầu cho đến tùy thuận, tất cả công đức thảy đều hồi hướng tận pháp giới, hư không giới hết thảy chúng sanh. Nguyện cho chúng sanh thường được yên vui, không có các bệnh khổ. Muốn làm chuyện ác thảy đều chẳng thành. Tu tập thiện nghiệp đều mau thành tựu. Đóng chặt hết thảy cửa [dẫn vào] các đường ác, mở bày đường chánh: trời, người, Niết Bàn. Nếu các chúng sanh do v́ các nghiệp ác tích tập, cảm lấy hết thảy quả khổ rất nặng, tôi đều chịu thay, khiến các chúng sanh đó đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát tu hồi hướng như thế, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền năo tận nhưng sự hồi hướng này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp không hề chán mệt)
Đây là hồi hướng pháp giới, mà
cũng là tóm gộp cả chín điều nguyện trước:
Từ lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng
tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng cho
đến tùy thuận chúng sanh, tất cả công đức
thảy đều hồi hướng, trong tâm chẳng
tiêm nhiễm mảy may, có như thế tâm mới thanh tịnh.
Có người tu công đức, chỉ sợ công đức
bị người khác lấy mất, chẳng dám hồi
hướng; v́ tâm lượng nhỏ nhen nên chẳng thể
thành tựu. Có người sợ đem công đức niệm
Phật hồi hướng cho người khác, chính ḿnh chẳng
có công đức. Thật ra, đó là quan niệm sai lầm.
Công đức:
Công là công phu tu hành của chính ḿnh, Đức là cái ḿnh thâu
hoạch [do công sức tu hành ấy]. Quư vị có một phần
công phu, nhất định có một phần thâu hoạch,
người khác chẳng lấy được. Quư vị
có muốn cho họ, họ cũng chẳng lấy
được; c̣n phước đức có thể cho
người khác. Chẳng hạn như của cải của
chính ḿnh có thể chia một nửa hoặc toàn bộ cho
người khác, người ta có thể hưởng thọ
được. Nhà cửa cũng có thể cho người
khác ở, họ cũng có thể thọ dụng được.
Chỉ có công đức là không cách ǵ cho người khác
được.
Công đức
là Giới - Định - Huệ. Hăy nghĩ xem, công đức
tŕ giới có chia cho người khác được
chăng? Công đức niệm Phật của quư vị có
đem cho người khác được hay chăng? Công
phu quư vị tu Định có cho người khác được
không? Không có cách nào hết. Nếu công đức có thể
cho được, chúng ta cần ǵ phải tu hành nữa, cứ
đợi Phật chia cho chúng ta, chúng ta bèn thành Phật.
Công đức là ông tu ông được, bà tu bà được,
chẳng tu chẳng được, nhất định phải
cậy vào chính ḿnh, nhất định chẳng ỷ lại
người khác được.
Công đức
có thể hồi hướng. Đối với chính ḿnh mà
nói, hồi hướng nhằm mở rộng tâm lượng,
nhằm quét sạch sẽ tập khí phân biệt chấp
trước từ vô thỉ đến nay. Công đức
tôi tu tôi đều chẳng cần đến, công đức
tôi tu tôi đều nhường cho mọi người
hưởng. Chẳng cần đến công đức,
công đức càng lớn. Chẳng những công đức
không mất đi mà phước đức cũng chẳng
mất. Số phận quư vị có một trăm vạn
th́ quư vị đem một trăm vạn bố thí hết,
vài bữa sau, lại có một trăm vạn khác. V́ sao vậy?
Là do số phận quư vị có; phận số có th́ chẳng
bị mất, mạng không có th́ có giữ kỹ cũng chẳng
giữ được.
Người
Tàu Đại Lục thờ tài thần Phạm Lăi, v́ ông
này là tấm gương kiếm tiền và dùng tiền, vừa
có trí huệ vừa có phước báo. Thời Xuân Thu Chiến
Quốc, Việt vương Câu Tiễn có hai tay trợ thủ,
một là Phạm Lăi, hai là Văn Chủng. Hai mươi
năm sau, nước Việt phục hưng, diệt xong
nước Ngô. Khi đó, Phạm Lăi biết quốc
vương có thể cùng chịu hoạn nạn, nhưng
chẳng thể cùng hưởng phú quư, bởi thế bèn
đổi tên họ trốn đi, lưu lại một
phong thư khuyên Văn Chủng cũng nên bỏ đi.
Văn Chủng không tin, quả nhiên mấy ngày sau, Câu Tiễn
ban cho Văn Chủng thanh bảo kiếm, buộc ông ta tự
sát. Phạm Lăi đổi tên thành Đào Châu Công, buôn bán giàu
to, đem toàn bộ tài sản bố thí, cứu tế bần
dân khốn khổ. Tiền tài xài hết, lại buôn bán, chẳng
mấy năm, lại phát tài, cũng tán tài giống như
cũ, ba lần tài tụ tài tán.
Điều
này cho thấy một miếng ăn, một hớp uống
không ǵ chẳng phải là định sẵn trước.
Số phận có th́ quyết định là có, số phận
không có chẳng thể cưỡng cầu, cầu không
được đâu! Số mạng là có th́ có bỏ
đi cũng chẳng bỏ được. Bởi thế
quư vị bố thí của cải sẽ trở lại, lại
càng nhiều hơn nữa, giống như lợi tức vậy
đó. Biết được sự thật này, quư vị
mới can đảm phóng tâm mạnh dạn bố thí.
Nhưng chớ có đem ḷng cầu may để thử, cứ
mong một vốn vạn lời th́ vừa thử của
cải chẳng c̣n ǵ hết. Phải dùng tâm chân thành để
bố thí cúng dường, đó là tu phước.
Sở
dĩ công đức tu tập của chúng ta hồi hướng
cho hết thảy chúng sanh, càng hồi hướng công
đức càng lớn là v́ tâm lượng to lớn. Tâm
lượng to lớn, công đức cũng chuyển lớn
theo, hết thảy tùy tâm chuyển mà! Nếu chẳng hồi
hướng, niệm niệm chỉ v́ ḿnh, tâm lượng
nhỏ nên công đức hữu hạn. Đức Phật
dạy chúng ta, chẳng cần biết tu công đức lớn
hay nhỏ, thậm chí điều thiện mảy may đều
phải hồi hướng Bồ Đề, hồi hướng
chúng sanh, hồi hướng pháp giới. Đấy là mở
rộng tâm lượng của chính ḿnh, viên măn công đức
tu hành vậy.
“Nguyện
cho chúng sanh thường được yên vui, không có các bệnh
khổ”: Trong mỗi niệm,
Bồ Đề đều hy vọng chúng sanh thường
được yên vui. “Hết thảy chúng sanh” bao gồm
động vật. Nếu chúng ta ăn động vật,
sát hại động vật, những động vật ấy
có b́nh yên sung sướng được chăng? Kinh
Lăng Già nói Bồ Tát chân chánh phát tâm chẳng nỡ ăn
thịt chúng sanh. Tuy thế nhà Phật chẳng buộc quư
vị trường trai, chỉ khuyên quư vị đừng
sát sanh. Hễ nói đến ḷng đại từ đại
bi th́ Phật nói chẳng nỡ ăn thịt hết thảy
chúng sanh. Lương Vơ Đế đọc đến
đoạn kinh văn này, cảm động sâu xa, phát tâm
ăn chay trường, đề xướng phong trào
ăn chay trong nhà Phật. Thật sự mang ḷng thích thấy
hết thảy chúng sanh b́nh yên sung sướng, quư vị sẽ
chẳng thể nhẫn tâm tổn hại chúng nó, càng chẳng
thể nhẫn tâm ăn thịt chúng.
Mong mỏi
hết thảy chúng sanh không có bệnh khổ; bệnh khổ
do đâu mà có? Tất cả hết thảy bệnh khổ
từ vọng tưởng mà ra. Trừ được vọng
tưởng chấp trước khiến cho thân tâm thanh tịnh,
khôi phục tự nhiên, thể chất biến đổi,
có thể cả đời chẳng sanh bệnh. Y học
chỉ trị đằng ngọn chứ không trị gốc,
Phật pháp trị liệu tận gốc rễ: Dạy
quư vị đừng khởi vọng tưởng. Do
đây biết rằng: Phải đem Phật pháp giới
thiệu cho hết thảy chúng sanh, phổ cập đến
mỗi tầng lớp xă hội th́ mới có thể thật
sự giúp cho chúng sanh ĺa khỏi hết thảy bệnh khổ.
“Muốn
làm chuyện ác thảy đều chẳng thành”: Họ
có ác niệm, muốn làm chuyện bậy, Bồ Tát, thần
Hộ Pháp ngăn trở, khiến họ chẳng thể
thành công được. “Tu tập thiện nghiệp
đều mau thành tựu”. Động một niệm
thiện tâm (tâm lợi ích hết thảy chúng sanh), Phật,
Bồ Tát phù trợ quư vị, bởi lẽ điều
đó ứng với tâm Phật, tâm Bồ Tát, cảm ứng
đạo giao. Nếu chỉ v́ chính ḿnh, chỉ v́ một
nhà, bèn chẳng tương ứng với tâm Phật, Bồ
Tát. Tâm Phật rộng lớn không ngằn mé, quư vị cứ
quanh quẩn trong phạm vi rất nhỏ chẳng thể
khởi cảm ứng được.
“Đóng
chặt hết thảy cửa [dẫn vào] các ác thú”: Chữ
“ác thú” được nói
trong kinh đây phạm vi rất rộng. Ba đường
ác, ba đường lành (do vẫn luân hồi trong lục
đạo), A La Hán, Bích Chi Phật (dù có thiền định
rất sâu, nhưng chưa kiến tánh), Bồ Tát (tuy kiến
tánh, nhưng chưa viên măn) đều là Ác Thú cả. Kinh
này để nói với hàng Đẳng Giác Bồ Tát. Nói
cách khác, từ Thập Địa trở xuống đều
có thể gọi là “ác thú”. Hiện tại chúng ta chẳng
thể đặt tiêu chuẩn cao như thế được,
chỉ cần biết tam đồ lục đạo
đích thật là ác thú, nhất tâm nhất ư phải vượt
thoát trong một đời này, như vậy là tốt rồi!
Vượt thoát chỉ có một đường duy nhất
là đới nghiệp văng sanh. Đường dẫn vào
ác thú phải bít chặt. Bít chặt bằng cách nào? Xa ĺa
nó.
“Mở
bày đường chánh: trời, người, Niết Bàn”: khuyên dạy chúng sanh niệm Phật
văng sanh, bất thoái thành Phật. Do đấy tổ sư
đại đức thường nhắc nhở chúng ta
chuyên tu Tịnh nghiệp. Niệm Phật kỵ nhất là
xen tạp. Nếu xen tạp danh lợi thế gian, ngũ
dục, lục trần th́ chẳng thể thành tựu.
Người niệm Phật niệm rất nhiều loại
kinh, lại c̣n niệm chú th́ cũng là xen tạp. Tối trọng
yếu là tinh tấn nơi một môn. Ấn Quang đại
sư dạy chúng ta: Người chuyên tu niệm Phật chỉ
cần niệm một bộ kinh A Di Đà, ba biến chú
Văng Sanh, rồi niệm Phật hiệu. Kỳ thật,
công phu đều dồn vào Phật hiệu. Niệm một
bộ kinh và ba biến Văng Sanh chỉ nhằm để
định tâm. Nếu tâm chúng ta suy nghĩ lung tung, niệm
Phật hiệu sẽ chẳng có cảm ứng. Nếu
dùng tâm thanh tịnh để chấp tŕ danh hiệu th́ có cảm
ứng.
Nếu tâm
quư vị rất thanh tịnh, chẳng có tạp niệm, chẳng
có vọng tưởng th́ kinh lẫn chú chẳng cần niệm
nữa. Thời xưa, tổ sư đại đức
một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu,
chẳng niệm kinh, niệm chú. Không ít người niệm
Phật chỉ nhờ một câu A Di Đà Phật này, lúc
lâm chung văng sanh chẳng sanh bệnh, biết trước
lúc đi, đứng văng sanh hoặc ngồi văng sanh rất
nhiều. Đài Loan bốn mươi năm qua, có mười
mấy vị đứng hoặc ngồi văng sanh, quá nửa
những người đó là những bà cụ rất già,
không biết chữ, kinh lẫn chú đều chẳng niệm,
tâm định. Bởi thế, người niệm Phật
chẳng đọc sách báo, tạp chí, chẳng xem các kinh
sách khác.
Dân Quốc năm thứ nhất (1912), Đàm
Hư đại sư truyền giới tại chùa Cực
Lạc ở Cáp Nhĩ Tân, thỉnh thầy của Ngài là
Đế Nhàn Lăo Ḥa Thượng làm Đắc Giới Ḥa
Thượng. Trong thời gian truyền giới, có một
vị xuất gia tên là Tu Vô đến giới trường
giúp việc. Vị này rất dốt nát, trước khi xuất
gia làm thợ nề, không biết chữ; ǵ cũng không biết,
chỉ biết niệm A Di Đà Phật. Sư t́nh nguyện
trong thời gian truyền giới sẽ săn sóc những
bệnh nhân bị trúng gió, cảm mạo.
Được
mấy ngày, Sư xin phép Ḥa Thượng cho nghỉ, nói ḿnh
cần phải đi. Đàm Hư Đại Sư là
người có hàm dưỡng, chẳng trách móc ǵ.
Đương gia sư là Định Tây Pháp Sư tánh t́nh
nóng nảy, nghe nói Sư phải đi, đối với
Sư chẳng khách khí ǵ, nói ngay: “Chúng tôi truyền giới
suốt mười ba ngày, vẫn chưa viên măn, sao giữa
chừng lại bỏ đi vậy?” Sư đáp: “Chẳng
phải tôi đi qua chỗ khác đâu mà là về Tây
Phương Cực Lạc thế giới”. Hai vị pháp
sư ngẩn ngơ, hỏi ngày nào Sư đi? Sư nói
đại khái không hơn mười bữa nữa, xin
chúng thường trụ sắp sẵn hai trăm cân củi
khô chuẩn bị thiêu hóa.
Ḥa Thượng
rất bội phục, trông thấy Sư đầu óc
đất sét, cái ǵ cũng không biết, thân thể khỏe
mạnh, cũng chẳng đổ bệnh, biết trước
lúc mất. Ngày hôm sau, Sư lại t́m hai vị pháp sư
nói ngày hôm nay Sư sẽ đi, xin chuẩn bị gấp
cho. Lại xin mấy vị tăng thường trụ
đến trợ niệm giùm để đưa Sư
đi. Sư trải đệm trong pḥng chứa củi, ngồi
xếp bằng. Những người trợ niệm tiễn
đưa xin Sư để lại một bài kệ làm kỷ
niệm, thầy Tu Vô nói một câu: “Năng thuyết bất
năng hành, bất thị chân trí huệ” (Nói được
làm không được, chẳng phải chân trí huệ). Nói
xong bèn im lặng.
Niệm Phật
chừng mười lăm phút, Sư bèn đi, ngồi mà
văng sanh. Suốt đời chỉ một câu Phật hiệu,
cái ǵ cũng chẳng biết, thật là niệm đến
Nhất Tâm Bất Loạn. Sư tuy không biết chữ, chẳng
thể giảng kinh thuyết pháp, lâm chung biểu diễn một
phen, không biết là độ được bao nhiêu chúng
sanh nữa! Ngài hiện thân thuyết pháp, làm gương vậy.
Quư vị tu thiện pháp, chư Phật, Bồ
Tát nhất định giúp quư vị viên măn thành tựu. Hết
thảy ác pháp chúng ta phải xa ĺa, v́ hết thảy chúng
sanh chỉ dạy con đường lớn niệm Phật
văng sanh bất thoái thành Phật.
“Nếu
các chúng sanh do v́ các nghiệp ác tích tập, cảm lấy hết
thảy quả khổ rất nặng, tôi đều chịu
thay, khiến các chúng sanh đều được giải
thoát, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ Đề”:
Chúng sanh mê hoặc tạo nghiệp, cảm lấy quả
báo luân hồi.
“Hoặc nghiệp khổ” là mê hoặc
tạo nghiệp chịu khổ. Khổ là chịu lấy
quả báo. Tuy chịu khổ vẫn chẳng giác ngộ, vẫn
cứ mê hoặc, nên nghiệp tạo ra càng nặng, đời
sau càng khổ. Giống như nước xoáy, càng xoáy càng
ch́m xuống, chẳng thể trồi lên. Nếu một
đời này chẳng thể văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, tiền đồ của chúng ta thật
đáng lo ngại, ắt đời này chẳng biết
đời sau ra sao, bởi lẽ chúng ta khởi tâm động
niệm ác nhiều thiện ít.
Phải hiểu
nỗi khổ của chúng sanh do đâu mà có, phải t́m ra
căn nguyên; sau đấy mới phát tâm chịu khổ thế
cho chúng sanh. Chịu bằng cách nào? Thả chiếc bè từ
phổ độ chúng sanh. Chúng sanh nên dùng thân nào để
đắc độ, Bồ Tát bèn thị hiện thân phận
đó. Quư vị là con người, Ngài cũng mang thân
người. Quư vị đọa trong đường súc
sanh, Ngài cũng biến thành súc sanh. Đó là chịu khổ
thế cho chúng sanh, mục tiêu là giúp chúng sanh khai ngộ. Nói
tóm lại, khuyên người niệm Phật, khuyên người
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Ngă quỷ,
súc sanh cũng có thể độ được. Trong nhà
Phật có một cuốn sách nhỏ mang tựa đề
Vật Do Như Thử (Loài vật c̣n như thế) thuật
chuyện động vật niệm Phật văng sanh. Lúc
Đế Nhàn pháp sư làm trụ tŕ chùa Đầu Đà tại
Ninh Ba, tỉnh Triết Giang, trong chùa có một con gà trống.
Mỗi sáng lúc gà gáy, mọi người thức dậy tụng
khóa sáng; gà trống cũng tham gia khóa lễ sáng tối. Lúc
đại chúng niệm Phật, nó cũng kêu cục cục
niệm theo. Giữa trưa đại chúng thọ trai, nó
cũng đến, cơm rau vô ư rớt xuống đất,
nó liền ăn sạch sẽ. Có một ngày tụng kinh
khóa tối xong, đại chúng đều đi xuống hết,
con gà chẳng đi, vẫn nhiễu Phật. Thầy
Hương Đăng xua nó đi, nó mặc kệ thầy,
nó đến giữa Phật đường lạy ba lạy:
Gật đầu ba lần, đứng yên văng sanh. Gà trống
c̣n có thể văng sanh, nếu chúng ta không khéo học sẽ chẳng
bằng được nó đấy! Đế Nhàn pháp
sư theo đúng lễ tiết dành cho người xuất
gia chôn gà trống sau núi. Loài động vật này quá nửa
phần đời trước là người xuất gia,
đại khái lúc lâm chung do một niệm lầm lạc
bèn đọa thân súc sanh.
Trong lục
đạo, Phật, Bồ Tát thị hiện mọi thứ
thân hóa độ chúng sanh, giúp cho hết thảy chúng sanh niệm
Phật văng sanh thành Phật, đó mới là rốt ráo viên
măn. Tu các pháp môn khác, trong một đời chưa thấy
có ai có thể chứng quả, chẳng thấy có ai có thể
vượt thoát luân hồi lục đạo. Trong cuốn
Niệm Phật Luận, Đàm Hư lăo ḥa thượng viết:
“Trong một đời, tôi gặp nhiều người
đắc Thiền Định, nhưng chưa gặp
được ai khai ngộ. Học Thiền nếu chẳng
khai ngộ th́ chẳng thể liễu sanh thoát tử, chẳng
thể thoát tam giới. Đắc Thiền Định chỉ
có thể sanh lên trời Tứ Thiền”. Chỉ riêng
ḿnh pháp môn Niệm Phật ổn thỏa, thích đáng, nhanh
chóng, ai cũng có thể tu được, ai cũng có thể
thành tựu. Trong hội Hoa Nghiêm, sau cùng Bồ Tát Phổ Hiền
cũng đặc biệt đề xướng pháp môn Niệm
Phật.
“Hư
không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh phiền
năo tận, sự hồi hướng này của tôi chẳng
có cùng tận”: Nguyện thứ
mười được kết thúc cũng giống
như những nguyện trước. Phát tâm nhất định
phải dài lâu, tu hành phải “niệm niệm tiếp nối,
chẳng có gián đoạn”. Chẳng hoài nghi, chẳng
xen tạp, chẳng gián đoạn. Đại Thế Chí Bồ
Tát dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”, bốn
chữ này là bí quyết niệm Phật. Tịnh là chẳng
xen tạp, nếu xen tạp tâm bèn chẳng thanh tịnh. Tối
đơn thuần, tối tinh thuần là một câu Phật
hiệu. Hiện tại chúng ta phải niệm thêm một
quyển kinh là v́ tâm chẳng thanh tịnh. Nếu tâm thanh tịnh,
tuyệt đối chẳng xen tạp, ngay cả kinh A Di
Đà cũng không cần đến nữa. Trong tâm từ
sáng đến tối, trong mười hai thời, trừ
một câu Phật hiệu ra, không nghĩ đến ǵ khác,
người đó công phu thành phiến, đạt đến
Nhất Tâm, đó là chân chánh thực hiện công phu. Đứng
mất, đi mất, biết trước lúc mất là công
phu đạt đến cảnh giới ấy.
Chúng ta chẳng bằng
được những người ấy là v́ chúng ta có tạp
niệm, Phật hiệu vừa niệm một phen đă
gián đoạn. Lúc làm việc, buông xuôi Phật hiệu,
hùng hục gắng sức làm việc, làm việc xong, buông
bỏ công tác, lập tức đề khởi Phật hiệu,
chẳng có một tạp niệm. Lúc niệm Phật trong
tâm chớ nên lấn cấn c̣n nhiều chuyện ḿnh
chưa làm, lúc làm việc lại niệm Phật hiệu. Nếu
vậy, Phật hiệu niệm cũng không tốt, việc
làm cũng chẳng ra ǵ, đôi bề đều mất cả.
Đến đây là giới thiệu xong mười nguyện.
Phần sau, Phổ Hiền Bồ Tát lại có nhiều khai
thị trọng yếu, cũng là đem những chỗ khẩn
yếu trong mười nguyện đặc biệt chỉ
dạy cho chúng ta.
2. Tỏ rơ tánh
đức thù thắng của kinh: Mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc
Chánh kinh:
Thiện nam tử! Thị vi Bồ Tát Ma Ha
Tát thập chủng đại nguyện, cụ túc viên măn.
Nhược chư Bồ Tát ư thử đại nguyện,
tùy thuận thú nhập, tắc năng thành thục nhất
thiết chúng sanh, tắc năng tùy thuận A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tắc năng thành măn Phổ
Hiền Bồ Tát chư hạnh nguyện hải.
Thị cố thiện nam tử! Nhữ ư thử nghĩa, ưng như thị tri.
(Này thiện
nam tử! Đấy là mười đại nguyện
đầy đủ viên măn của Bồ Tát Ma Ha Tát. Nếu
các Bồ Tát đối với các đại nguyện này
mà có thể tùy thuận, thú nhập th́ sẽ có thể thành
thục hết thảy chúng sanh, sẽ có thể tùy thuận
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ có thể
thành tựu trọn vẹn biển các hạnh nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát.
V́ thế, thiện
nam tử! Đối với nghĩa này, ông nên biết
như thế)
Kinh này là
kinh Đại Thừa. Thiện nam tử, thiện nữ
nhân được nhắc đến trong Đại Thừa
tiêu chuẩn rất cao. Phải làm được tất cả
mọi điều trong mười câu nói về ba thứ
phước của Quán kinh th́ kinh Hoa Nghiêm mới gọi là
“thiện nam tử, thiện nữ nhân”.
Đại ư của đoạn kinh văn này là: Những nguyện nói ở phần trên chính là mười đại nguyện của hàng đại Bồ Tát, cũng chính là các hạnh của Bồ Tát được quy nạp thành mười loại lớn (số Mười tượng trưng cho ư nghĩa viên măn). Bồ Tát tích cực tu học mười nguyện th́ sẽ có thể thành thục hết thảy chúng sanh. Thành thục hết thảy chúng sanh tức là có thể phổ độ trọn hết thảy chúng sanh. Phổ độ chưa chắc là độ thoát viên măn, c̣n “thành thục” th́ có thể nói là độ thoát gần như viên măn.
Việc quy
kết về Tây Phương Cực Lạc thế giới
được biểu lộ qua ư nghĩa của hai chữ
“thành thục”, tức là chân thật viên măn. Nếu
như chẳng dùng đến pháp môn này, rất khó thể
thành thục. Thành thục là ngay trong một đời này,
quư vị sẽ thành Phật. Trong một đời này chẳng
thành Phật th́ chẳng được gọi là “thành thục”.
Như chúng ta bây giờ có thể thành Phật được
chăng? Niệm Phật có thể thành Phật! Niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả; vấn đề là chúng ta có
chịu niệm hay không, tâm chúng ta cầu văng sanh có chân thành
hay chăng? Nếu lúc có lúc không, dù niệm Phật lâu ngày
cũng chẳng cảm ứng!
Đồng
thời, có thể tùy thuận Bồ Đề. Đây chính
là nói “một đời thành Phật”. Người niệm
Phật đúng là thành tựu ngay trong một đời;
chưa tắt hơi đă thấy Phật đến tiếp
dẫn, bảo với quư vị: “Phật đến rồi,
ta theo Ngài đi thôi!”, liền tiêu sái ra đi. Đấy là
theo Phật ngay khi c̣n sống, thân thể hệt như một
bộ y phục rách, vất đi chẳng màng. Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, một đời
thành Phật. Bởi thế pháp môn này gọi là pháp môn “thành
tựu ngay trong một đời”.
Ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát nói chẳng sai, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có thể thật sự tu viên măn mười nguyện Phổ Hiền. Bởi lẽ, được bổn nguyện công đức của Phật A Di Đà gia tŕ, oai thần lực của Phổ Hiền Bồ Tát gia tŕ, về Tây Phương th́ quư vị mới được tự tại tu mười đại nguyện vương.
Chánh kinh:
Nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ măn thập
phương vô lượng vô biên bất khả thuyết bất
khả thuyết Phật sát, cực vi trần số nhất
thiết thế giới, thượng diệu thất bảo,
cập chư nhân thiên tối thắng an lạc, bố thí
nhĩ sở nhất thiết thế giới sở hữu
chúng sanh, cúng dường nhĩ sở nhất thiết thế
giới chư Phật, Bồ Tát, kinh nhĩ sở Phật
sát cực vi trần số kiếp, tương tục bất
đoạn, sở đắc công đức; nhược
phục hữu nhân, văn thử nguyện vương, nhất
kinh ư nhĩ, sở hữu công đức tỷ tiền
công đức, bách phận bất cập nhất, thiên phận
bất cập nhất, năi chí ưu-ba-ni-sa-đà phần, diệc
bất cập nhất.
(Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân đem bảy báu thượng
diệu[54]
và các sự an lạc tối thắng của trời
người đầy khắp hết thảy thế giới
nhiều như số cực vi trần của mười
phương vô lượng vô biên bất khả thuyết bất
khả thuyết cơi Phật để bố thí cho tất
cả chúng sanh trong ngần ấy hết thảy các thế
giới, cúng dường chư Phật, Bồ Tát trong ngần
ấy hết thảy thế giới, trải các kiếp
nhiều như số cực vi trần của ngần ấy
những cơi Phật, liên tục chẳng ngớt, đạt
được công đức. Nếu lại có người
nghe nguyện vương này một phen thoảng qua tai, th́
công đức của người trước đạt
được so với công đức người sau
đạt được chẳng bằng một phần
trăm, chẳng bằng một phần ngàn, cho đến
một phần ưu-ba-ni-sa-đà cũng chẳng bằng
được)
Ví như có người (ư nói người b́nh thường) lúc nghe pháp sư giảng kinh, nghe được mười đại nguyện vương, nghe thật rơ ràng, thật minh bạch, cũng hiểu được ư nghĩa, in dấu trong tám thức điền th́ công đức ấy thật to lớn. Công đức ấy là công đức chân thật, bởi lẽ một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Huống hồ là pháp môn đệ nhất, kinh bậc nhất của Phật đă nói, hạt giống ấy gieo vào A Lại Da Thức, tương lai gặp duyên, nhất định thành thục. Bởi vậy, công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh kinh:
Hoặc
phục hữu nhân, dĩ thâm tín tâm, ư thử đại
nguyện, thọ tŕ, độc tụng, năi chí thư tả
nhất tứ cú kệ, tốc năng trừ diệt
Ngũ Vô Gián nghiệp, sở hữu thế gian thân tâm
đẳng bệnh, chủng chủng khổ năo, năi chí Phật
sát cực vi trần số nhất thiết ác nghiệp,
giai đắc tiêu trừ. Nhất thiết ma quân, Dạ
Xoa, La Sát, nhược Cưu Bàn Trà, nhược Tỳ Xá
Xà, nhược Bộ Đa đẳng, ẩm huyết,
đạm nhục, chư ác quỷ thần, giai tất viễn
ly, hoặc thời phát tâm, thân cận thủ hộ.
(Nếu lại có
người, do tâm tin tưởng sâu xa, đối với
những đại nguyện này, thọ tŕ, đọc tụng[55], cho đến
biên chép một bài kệ bốn câu, mau trừ diệt
được nghiệp Ngũ Vô Gián [56]; tất cả
các thân bệnh, tâm bệnh trong thế gian, các thứ khổ
năo, cho đến hết thảy ác nghiệp nhiều
như số cực vi trần của một cơi Phật,
đều được tiêu trừ. Hết thảy ma
quân, Dạ Xoa, La Sát, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc Tỳ Xá
Xà, hoặc Bộ Đa[57] v.v… các loại
quỷ thần uống máu ăn thịt, thảy đều
tránh xa, hoặc có lúc phát tâm, thân cận, thủ hộ)
Tu hạnh
nguyện Phổ Hiền lợi ích thù thắng như sau:
Thứ nhất
là tiêu nghiệp chướng. Chúng ta tạo rất nhiều
ác nghiệp, thân lẫn tâm đều có bệnh, phiền
năo nặng nề, lắm khổ năo, làm sao tiêu trừ
đây? Ba chữ “thâm tín tâm” là mấu chốt. Chúng ta
mỗi ngày thọ tŕ, đọc tụng, biên chép (lưu
thông) mười đại nguyện vương th́ có thể
tiêu trừ được nghiệp chướng hay
chăng? Có thể làm cho bệnh khổ được lành
hay chăng? Được chứ! Chỉ cốt sao chúng
ta tín tâm sâu xa, tin sâu chẳng nghi sẽ được cảm
ứng. Kinh Kim Cang dạy: “Tín tâm thanh tịnh thời
sanh Thật Tướng”. Sanh Thật Tướng là minh
tâm kiến tánh, là Lư Nhất Tâm Bất Loạn của
người niệm Phật. Nói cách khác, quư vị thành
đại Bồ Tát, tội nghiệp nhất định
phải tiêu trừ.
Tâm thâm tín rất
trọng yếu, tâm thâm tín là một mảy ngờ vực
cũng chẳng có. Bộ kinh mười đại nguyện
vương này mỗi chữ đều là lời dạy
răn chân thành của Như Lai; một câu nói sai trái, một
câu giả dối cũng chẳng có, thật đáng tin
tưởng, y giáo phụng hành. Tín tâm kiên định, tín
tâm thanh tịnh như thế y chiếu phương pháp
trong kinh điển mà hành, sẽ đạt được
hiệu quả.
Hiệu quả thứ
nhất là tiêu nghiệp chướng. Thứ hai là tất cả
hết thảy bệnh khổ đều khỏi hẳn.
Thứ ba, tất cả ma chướng, yêu ma, quỷ quái
chẳng dám gần quư vị. Do đây biết rằng:
Người gặp phải ma quái đều là v́ tâm chẳng
thanh tịnh, có tham, sân, si, mạn. Tâm chẳng thanh tịnh
bèn cảm ứng ma; tâm thanh tịnh, ma tự nhiên chạy
mất. Tỷ như niệm danh hiệu Phật, danh hiệu
Bồ Tát, niệm kinh điển, bái sám hữu hiệu, tất
cả hết thảy kinh pháp đuổi ma đều nhằm
giúp quư vị khôi phục cái tâm thanh tịnh, chẳng khôi phục
được cái tâm thanh tịnh th́ chẳng đuổi
ma được. Người tin được bèn có
phước, người không tin bèn đánh mất lợi
ích thù thắng của việc tu học hạnh nguyện
Phổ Hiền.
Chánh kinh:
Thị
cố nhược nhân tụng thử nguyện giả,
hành ư thế gian vô hữu chướng ngại, như
không trung nguyệt, xuất ư vân ế. Chư Phật, Bồ
Tát chi sở xưng tán, nhất thiết nhân thiên giai ưng
lễ kính, nhất thiết chúng sanh tất ưng cúng
dường. Thử thiện nam tử, thiện đắc
nhân thân, viên măn Phổ Hiền sở hữu công đức,
bất cửu đương như Phổ Hiền Bồ
Tát, tốc đắc thành tựu vi diệu sắc thân, cụ
tam thập nhị đại trượng phu tướng.
Nhược sanh nhân thiên, sở tại chi xứ, thường
cư thắng tộc, tất năng phá hoại nhất
thiết ác thú, tất năng viễn ly nhất thiết ác
hữu, tất năng chế phục nhất thiết ngoại
đạo, tất năng giải thoát nhất thiết phiền
năo, như sư tử vương tồi phục quần thú,
kham thọ nhất thiết chúng sanh cúng dường.
(V́ thế, nếu ai
tụng nguyện này đi trong thế gian chẳng bị
chướng ngại, như vầng trăng trên không ra khỏi
mây phủ, được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi,
hết thảy trời người đều nên lễ
kính, hết thảy chúng sanh thảy nên cúng dường. Thiện
nam tử ấy khéo được thân người, viên măn
tất cả công đức của Phổ Hiền, chẳng
bao lâu sẽ như Phổ Hiền Bồ Tát, mau được
thành tựu sắc thân vi diệu, đủ ba mươi
hai tướng đại trượng phu. Nếu sanh trong
trời người, ở bất cứ đâu, thường
sanh trong ḍng họ cao quư, thảy có thể phá hoại hết
thảy đường ác, đều có thể xa ĺa hết
thảy bạn ác, đều có thể chế phục hết
thảy ngoại đạo, đều có thể giải
thoát hết thảy phiền năo, như sư tử chúa lấn
áp muôn thú, đáng nhận sự cúng dường của hết
thảy chúng sanh)
Toàn văn
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm gồm bốn
mươi quyển, mười đại nguyện
vương thuộc cuốn cuối cùng, chỉ chiếm
1/40 của phẩm này. Hoằng Nhất đại sư lấy
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm làm khóa lễ sáng
tối. Nếu ai có thể đọc tụng mười
đại nguyện vương đây, tu hành theo đúng
phương pháp trong bộ kinh này, th́ trong thế gian này,
người đó làm bất cứ việc ǵ chẳng bị
chướng ngại; bởi lẽ trí huệ, phước
đức viên măn của người ấy thường lộ
rơ trong sanh hoạt thường nhật. Đă thế,
người ấy “được hết thảy
chư Phật, Bồ Tát khen ngợi, hết thảy trời
người đều nên lễ kính”. Phật, Bồ
Tát xưng dương khen ngợi quư vị, trời -
người tất nhiên cũng tôn kính người có đạo
đức, học vấn. Đối với quư vị, họ
tỏ ra lễ độ bởi quư vị là một đệ
tử Phật tu học hạnh nguyện Phổ Hiền.
Không những
thế, trong lục đạo, quư vị “thường
sanh trong ḍng họ cao quư”. Những chỗ quư vị sanh
sống qua lại nhất định đều thuộc
chủng tộc thù thắng, “có thể phá hoại hết
thảy đường ác, xa ĺa hết thảy bạn ác,
chế phục hết thảy ngoại đạo, giải
thoát hết thảy phiền năo, đáng nhận sự cúng
dường của hết thảy chúng sanh”. Lợi ích
thật thù thắng! Tâm quư vị, sự tu tŕ của quư vị
đều thuộc Bồ Đề chánh đạo, tự
nhiên phá được hết thảy đường ác,
xa ĺa hết thảy bạn ác, bởi chí thú của họ
khác với quư vị, nhất định chẳng thể
cùng quư vị qua lại, nên chẳng bị họ gây chướng
ngại. Quư vị có đạo đức, học vấn,
biện tài, nhất định sẽ khuất phục
được hết thảy ngoại đạo, đủ
sức giải thoát hết thảy phiền năo.
Bởi vậy,
vị Bồ Tát như thế sống trong thế gian có thể
tiếp nhận hết thảy chúng sanh cúng dường, bởi
lẽ Ngài là phước điền của hết thảy
chúng sanh. Chúng sanh chẳng cúng dường, Ngài bèn chẳng
trụ thế, Ngài qua xứ khác, sanh tử tự tại.
Không gian sanh hoạt của Ngài chẳng giống với
chúng ta. Không gian sanh hoạt của chúng ta rất nhỏ, chỉ
là một quả địa cầu mà thôi, không cách nào ra
ngoài địa cầu được. Không gian hoạt
động của chư Phật, Bồ Tát là tột cùng
hư không, trọn pháp giới, không cách ǵ tưởng
tượng được.
Gặp hạng người
như vậy, nếu ta chẳng cúng dường, cung kính,
khéo học theo, họ sẽ đi mất, chẳng ở lại
chốn này. Cúng dường là cúng dường bằng cách
tu hành đúng theo lời dạy, nhất định phải
tiếp nhận sự răn dạy, chỉ dẫn của
họ, đó là điều trọng yếu nhất. Nếu
không tu hành đúng như lời dạy, dù có cúng dường
vật chất nồng hậu, họ cũng chẳng chịu
ở lại nơi đây, bởi họ chẳng mong cầu
hưởng thụ. Chỉ có một lư do khiến họ ở
lại nơi đây: Tại chỗ này có rất nhiều
người thật sự học theo họ, nên họ nhất
định phải ở lại đây.
Chánh kinh:
Hựu
phục thị nhân, lâm mạng chung thời, tối hậu
sát-na, nhất thiết chư căn tất giai tán hoại,
nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly, nhất
thiết oai thế tất giai thoái thất, phụ tướng,
đại thần, cung thành nội ngoại, tượng,
mă, xa thặng, trân bảo, phục tạng, như thị
nhất thiết vô phục tương tùy. Duy thử nguyện
vương, bất tương xả ly, ư nhất thiết
thời, dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na
trung, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới.
Đáo dĩ, tức kiến A Di Đà Phật, Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự
Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát đẳng, thử
chư Bồ Tát sắc tướng đoan nghiêm, công đức
cụ túc, sở cộng vi nhiễu. Kỳ nhân tự kiến
sanh liên hoa trung, mông Phật thọ kư.
Đắc
thọ kư dĩ, kinh ư vô số bách thiên vạn ức
na-do-tha kiếp, phổ ư thập phương bất khả
thuyết bất khả thuyết thế giới, dĩ trí
huệ lực, tùy chúng sanh tâm, nhi vi lợi ích. Bất cửu
đương tọa Bồ Đề đạo tràng,
hàng phục ma quân, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển diệu
pháp luân, năng linh Phật sát cực vi trần số thế
giới chúng sanh, phát Bồ Đề tâm, tùy kỳ căn
tánh giáo hóa thành thục, năi chí tận ư vị lai kiếp
hải, quảng năng lợi ích nhất thiết chúng
sanh.
(Lại
khi người ấy lâm chung, vào sát-na tối hậu, hết
thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy
thân thuộc thảy đều bỏ ĺa, hết thảy
oai thế thảy đều lui mất, phụ tướng[58], đại thần,
cung điện, thành quách trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ,
trân bảo, kho đụn, hết thảy những thứ
như thế không ǵ theo ḿnh nữa. Chỉ có mỗi nguyện
vương này chẳng bỏ ĺa, trong hết thảy thời
nó thường dẫn đường đằng trước,
trong một sát-na liền được văng sanh thế giới
Cực Lạc. Đến nơi rồi, liền thấy A
Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ
Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ
Tát v.v… Các đại Bồ Tát ấy sắc tướng
đoan nghiêm, công đức trọn đủ, cùng chung vây
quanh. Người ấy tự thấy sanh trong hoa sen,
được Phật thọ kư.
Được thọ
kư rồi, trải qua vô số trăm ngàn vạn ức
na-do-tha kiếp, khắp trong mười phương bất
khả thuyết bất khả thuyết thế giới,
dùng sức trí huệ, tùy tâm chúng sanh để làm lợi
ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ Đề
Đạo Tràng[59], hàng phục ma
quân, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân mầu nhiệm,
có thể làm cho chúng sanh trong các thế giới nhiều
như số cực vi trần trong một cơi Phật phát
tâm Bồ Đề, tùy theo căn tánh mà giáo hóa thành thục,
cho đến tột cùng biển vị lai kiếp, có thể
rộng lợi ích hết thảy chúng sanh).
Phổ Hiền
Bồ Tát lại dạy chúng ta một việc rất trọng
yếu. Cổ đức chú giải kinh văn thường
trích dẫn đoạn kinh này. Do đó biết đoạn
kinh văn này rất trọng yếu. Đối với
người niệm Phật cầu văng sanh, nó lại càng
trọng yếu hơn nữa. Sát-na tối hậu khi lâm
chung (tức vào lúc hơi thở cuối cùng) là lúc quan trọng
nhất của lúc sanh tử, thần thức ly khai thân thể
(nói theo thế tục là “linh hồn ĺa khỏi nhục
thân”), nhục thân bị hủy hoại, hư nát. Điều
này cho thấy thân thể vô cùng mỏng manh.
Người
nhà, quyến thuộc ân ái sâu nặng cách mấy đến
lúc này cũng chẳng thể không chia ĺa, một phen xa nhau
vĩnh viễn, đời sau chẳng gặp lại
được nữa. Dẫu đời sau có gặp lại
nhau, cả ḿnh lẫn người đều đă thay
đầu đổi mặt, có gặp cũng chẳng nhận
ra. Bởi thế, duyên thế gian phải nhạt dần,
chớ quá chấp trước; thế nhưng phải
săn sóc hết thảy chúng sanh chu đáo, đấy là Bồ
Tát hạnh, tâm địa thanh tịnh chẳng bị nhiễm.
Lúc c̣n sống,
anh hùng, hảo hán, oai phong lẫm lẫm, chết đi, thứ
ǵ cũng chẳng c̣n, chỉ vừa vùi xuống đất,
hết thảy oai thế mất sạch. Tại thế
gian làm đế vương, chết đi, đại thần
cũng chẳng thể đi theo. Ở trong cung điện,
phương tiện di chuyển là voi, ngựa, xe cộ, chẳng
mang theo được thứ ǵ. Lúc c̣n sống thâu chứa
bao nhiêu của cải quư báu, cũng chẳng mang theo
được ǵ. Thân thể c̣n phải mục nát, huống
hồ những thứ ngoài thân!
Thấy thấu
suốt những sự t́nh đó, sẽ chẳng lưu luyến
hết thảy pháp thế gian. Chẳng c̣n tham ái, tâm quư vị
sẽ thanh tịnh rất nhiều. Tâm thanh tịnh bèn sanh
trí huệ, bèn hiểu trong thế gian nên làm người
như thế nào, nên làm những chuyện ǵ, tự nhiên giống
như Phật, Bồ Tát: Trong thế gian này chẳng v́
chính ḿnh, mà v́ chúng sanh. Sanh ra chẳng mang theo cái ǵ đến,
chết đi chẳng mang được cái ǵ đi, chỉ
trần trụi một thân, cho nên chẳng v́ chính ḿnh. Công
đức chân thật chỉ là lợi ích chúng sanh.
“Chỉ
có nguyện vương này chẳng hề bỏ ĺa”: Có thể mang theo công đức chính
ḿnh đă tu hành, chẳng hề ĺa bỏ. Bởi lẽ,
công đức do chân tâm tu, chẳng phải do t́nh ư hư dối
tu tập. V́ sao chẳng thể mang theo t́nh người thế
gian được? Là v́ t́nh ư hư dối, chẳng phải
chân tâm. Từ Quyền Giáo Bồ Tát trở xuống thảy
đều vận dụng t́nh ư hư dối, chẳng hề
dụng tâm chân thật. Bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm đều
dùng chân tâm. Chân tâm vĩnh viễn chẳng biến đổi,
vọng tâm biến đổi theo từng sát-na. Bất cứ
thứ ǵ trong thế gian cũng chẳng mang theo được,
bởi lẽ chúng do t́nh ư hư dối tạo ra.
Quư vị
giúp đỡ hết thảy chúng sanh, thành tâm thành ư mà làm
th́ công đức, phước đức đều mang
theo được. Tục ngữ có câu: “Vạn thứ
đều bỏ sạch, chỉ mỗi nghiệp theo thân”.
Mang theo thiện nghiệp vào ba đường lành (trời,
người, A Tu La) hưởng quả báo, mang ác nghiệp
vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh) chịu quả báo. Bồ Tát thiện nghiệp lẫn
ác nghiệp đều chẳng có, dẫu đoạn hết
thảy ác nhưng chẳng chấp tướng đoạn
ác; dẫu tu hết thảy thiện nhưng chẳng chấp
tướng tu thiện, tam luân thể không. Ngày ngày làm lành,
ngày ngày v́ mọi người, nhưng trọn chẳng chấp
tướng. Bởi thế, họ mang mười đại
nguyện vương đă tu hành theo được.
Chẳng những
mang theo mà c̣n trong “hết thảy thời”, nguyện
vương vĩnh viễn theo họ, chẳng hề tách rời,
dẫn đường cho họ “trong một sát-na, liền
được văng sanh thế giới Cực Lạc”.
Mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc. Đến thế giới Cực Lạc, lập
tức thấy A Di Đà Phật. Bởi thế, mười
đại nguyện vương là pháp tối thượng
thừa để Bồ Tát tu hành. Nói cách khác, nó là hạnh
viên măn của hết thảy Bồ Tát Lục Độ.
Trong mười nguyện, nguyện nào cũng viên măn, gồm
trọn Lục Độ, là hạnh viên măn của Bồ
Tát. Đến Cực Lạc, đồng thời cũng
thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ
Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát v.v… Những
vị Bồ Tát ấy sắc tướng đoan nghiêm,
công đức trọn đủ.
Người
tu mười đại nguyện vương sanh về thế
giới Cực Lạc, hoa lập tức nở, đó là
văng sanh bậc Thượng. Nhân v́ tu hạnh nguyện Phổ
Hiền, tâm lượng giống như hư không pháp giới,
mỗi một nguyện đều nói: “Hư không giới
tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận,
chúng sanh phiền năo tận, sự tu hành này của tôi chẳng
có cùng tận”. Tâm lượng chúng ta quá nhỏ nên phải
học Phổ Hiền hạnh để tâm lượng lớn
ra. “Tâm trùm thái hư, lượng khắp các cơi nhiều
như cát”, không một pháp nào chẳng gồm chứa.
Tâm lượng to lớn như thế, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ th́ lẽ đương nhiên phải
là Thượng Phẩm Văng Sanh.
Bởi thế,
sanh về đó, hoa sen hóa sanh, hoa nở thấy Phật,
được Phật thọ kư. Sau khi được Phật
thọ kư, ở Tây Phương Cực Lạc thế giới
nỗ lực tinh tấn cầu học, đạo sư
là A Di Đà Phật, giáo thọ là mười phương
chư Phật Như Lai và các vị đại Bồ Tát
như Văn Thù, Phổ Hiền… Bạn đồng học
là các thượng thiện nhân. Bởi thế, về
đó cầu học mau chóng phi thường, chẳng lui sụt,
một đời viên măn thành tựu. Dù khi chưa tốt
nghiệp, nghĩ muốn thả bè từ th́ A Di Đà Phật
dùng bổn nguyện lực công đức oai thần gia
tŕ, quư vị bèn có thể nương theo ư nguyện trở
về độ sanh mà chẳng bị lui sụt, chẳng
đọa vào ác đạo. Đến mười
phương thế giới độ chúng sanh, năng lực
giống như Quán Âm Bồ Tát, tùy ḷng chúng sanh, biết rơ
nên dùng thân nào để độ bèn tự hiện thân ấy
để độ. Nên dùng thân Phật để độ
th́ chính ḿnh cũng có thể thị hiện tám tướng
thành đạo giống như Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện thành Phật trong thế gian này. Chỉ cần sanh
về thế giới Cực Lạc, được gặp
gỡ Phật A Di Đà bèn có năng lực ấy. Năng
lực ấy là do Phật gia tŕ, bởi chúng ta thật sự
là học tṛ của Phật A Di Đà, hết thảy
chư Phật, Bồ Tát đều giúp đỡ quư vị.
Long thiên hộ pháp thần cũng đều hộ tŕ quư vị.
Nếu chẳng nghiêm
túc nỗ lực tu học th́ chẳng thể buông xuống
vạn duyên, đối với pháp môn này vẫn nửa tin
nửa ngờ, chẳng hoàn toàn tin tưởng. Nếu hiểu
rơ chân tướng sự thật, nghi t́nh sẽ đoạn,
tín tâm kiến lập. Pháp môn này chẳng khó tu. Đến
lúc ấy mới là chân chánh báo ân Phật, báo ân cha mẹ,
báo ân chúng sanh v́ quư vị có năng lực lợi ích hết
thảy chúng sanh.
3. Khuyến chúc thọ
tŕ
Chánh kinh:
Thiện nam tử! Bỉ chư chúng sanh
nhược văn, nhược tín thử đại nguyện
vương, thọ tŕ, độc tụng, quảng vị
nhân thuyết, sở hữu công đức trừ Phật
Thế Tôn, dư vô tri giả. Thị cố nhữ đẳng
văn thử nguyện vương, mạc sanh nghi niệm,
ưng đương đế thọ. Thọ dĩ
năng độc, độc dĩ năng tụng, tụng
dĩ năng tŕ, năi chí thư tả, quảng vị nhân
thuyết. Thị chư nhân đẳng ư nhất niệm
trung, sở hữu hạnh nguyện giai đắc thành tựu,
sở hoạch phước tụ vô lượng vô biên;
năng ư phiền năo đại khổ hải trung, bạt
tế chúng sanh, linh kỳ xuất ly, giai đắc văng sanh
A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới.
(Này thiện nam tử!
Các chúng sanh đó nếu nghe hoặc tin đại nguyện
vương này, thọ tŕ, đọc tụng, rộng nói
cho người, có được công đức trừ Phật
Thế Tôn ra, không ai biết được! V́ thế các
ông nghe nguyện vương này chớ sanh ḷng ngờ, phải
nên chân thật nhận lấy, nhận rồi nên đọc,
đọc rồi nên tụng, tụng rồi nên tŕ, cho
đến biên chép, rộng nói cho người. Những
người ấy trong một niệm, tất cả hạnh
nguyện đều được thành tựu, đạt
được khối phước vô lượng vô biên,
có thể ở trong biển khổ phiền năo lớn cứu
vớt chúng sanh khiến họ được xuất ly,
đều được văng sanh thế giới Cực Lạc
của Phật A Di Đà).
Đoạn
kinh này rất trọng yếu, cổ vũ chúng ta rất lớn.
Ở đây, Bồ Tát nói: Nếu chúng ta nghe được
pháp môn này, nghe xong bèn có thể tin tưởng, có thể tiếp
nhận, thọ tŕ, đọc tụng, rộng nói cho
người khác, th́ đạt được công đức
lớn lao không ǵ sánh ví được, chỉ ḿnh đức
Phật biết nổi thôi. Thọ tŕ: Thọ là tiếp nhận,
Tŕ làm theo. Như với “lễ kính chư Phật” bèn
làm theo, dù chẳng thể thực hiện viên măn, vẫn nỗ
lực làm, nỗ lực học theo. Đối với
người khác, ta đều dùng cái tâm cung kính, tâm chân
thành; đối với sự, bất luận chuyện lớn,
việc nhỏ, ta đều nỗ lực chịu trách nhiệm
thực hiện, hoàn thành sự việc ấy thật tốt
đẹp. Đối với vật, lau chùi bàn ghế sạch
sẽ, sắp xếp ngay ngắn, đó là cung kính đối
với vật. Như thế mới là chân chánh thọ tŕ
Phổ Hiền hạnh.
“Xưng
tán Như Lai”: Ai có chuyện
ǵ lợi ích cho chúng sanh, ta phải khen ngợi, ai làm chuyện
ǵ không tốt, ta đừng nói, [ấy là] “ẩn điều
ác, nêu điều lành”. Người xấu làm chuyện
xấu có tâm hổ thẹn, cảm thấy khó chịu; họ
làm chút việc tốt nào, mọi người khen ngợi;
làm việc xấu, mọi người tha thứ, đều
không nhắc đến, trong tâm họ bèn hổ thẹn;
lâu ngày chầy tháng sẽ sửa đổi lỗi lầm,
biến thành người tốt. Ác nhân tự có ác báo, chẳng
phiền chúng ta phải tuyên dương. Đoạn kinh này
dạy chúng ta phải tin tưởng, thọ tŕ, đọc
tụng, đó là tự tu, tự hành. Ngoài ra, lại c̣n phải
tuyên truyền, rộng nói cho người khác, kinh điển
phải lưu thông, ấn hành với số lượng lớn,
in cho thật đẹp đẽ, gởi các nơi tặng
cho người khác.
Khuyên
người học Phật, đem tinh nghĩa, tinh thần,
giáo huấn, lợi ích của Phật pháp tùy thời, tùy chỗ
nói cho người khác nghe. Đối phương nghe
cũng tốt, không nghe cũng được (tối thiểu
là nghe lọt mấy câu vào A Lại Da Thức). Khi nhận
điện thoại, cầm điện thoại lên,
trước hết niệm Nam Mô A Di Đà Phật, khiến
A Di Đà Phật rót vào tai đối phương, đó là
độ chúng sanh, rộng v́ người khác nói. Khuyên
người niệm Phật, ít nói chuyện nhảm nhí.
Công đức tự hành hóa tha ngoại trừ chư Phật
Như Lai ra, không ai hiểu nổi công đức quư vị
lớn lao đến mức độ nào đâu!
“V́ thế
các ông nghe nguyện vương này, chớ sanh ḷng ngờ”: Chữ “các ông” chỉ mọi
người chúng ta. Nghe phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
này, chẳng phải ngẫu nhiên, mà là trong đời quá khứ,
vô lượng kiếp trước, quư vị đă gieo thiện
căn sâu dầy, nhân duyên đại phước đức,
ngày nay trọn đủ, mới có cơ hội được
nghe kinh này. Phước báo chẳng đủ, chẳng
được nghe; bởi thế chớ tự coi thường
ḿnh. Nghe xong, phải tin sâu chẳng nghi. Biết Phổ Hiền
Bồ Tát, Tỳ Lô Giá Na Như Lai giảng trong kinh điển,
câu nào cũng là lời chân thật. Chúng ta “phải nên
đế thọ” (chân thật nhận lấy). “Đế”
là tường tận, cẩn thận, kỹ càng, thảy
đều minh bạch, rơ ràng, hiểu rơ, tiếp nhận
hoàn toàn.
Sau khi tiếp
nhận, bước công phu thứ nhất là đọc
kinh, đọc rồi phải tụng thuộc, tụng
thuộc rồi phải thực hiện. Đọc thuộc,
nhớ kỹ rồi, trong sanh hoạt thường nhật,
khởi tâm động niệm, hết thảy hành vi đều
phải suy nghĩ. Chẳng hạn như, lau cái bàn nghĩ
ḿnh đang lễ kính chư Phật. Cái bàn là Phật, chúng
ta phải lau cho thật sạch sẽ, rất cung kính
nghiêm túc làm công việc ấy. Bất luận làm việc ǵ
đều phải thành tâm, thành ư. Có tâm cung kính, có ư chân
thành, việc ǵ mà chẳng làm tốt được? Chẳng
thể tụng thuộc th́ tu hành chẳng có tiêu chuẩn,
chẳng có nguyên tắc; bởi thế, nhất định
phải tụng thuộc kinh điển, sau đó đem những
điều ấy thực hiện.
Làm
được rồi, chính ḿnh sẽ được thật
sự thọ dụng lợi ích chân thật. Lợi ích ấy
là phiền năo nhẹ đi, trí huệ tăng trưởng,
một ngày từ sáng đến tối khoái lạc khôn
sánh. Tự ḿnh có thể cảm nhận ḿnh là người
sung sướng hạnh phúc mỹ măn bậc nhất trên thế
giới, pháp hỷ sung măn. Trong thế giới này, đă
đầy đủ chân thiện mỹ huệ th́ sanh mạng,
cuộc sống của quư vị thật sự sung măn. Chỉ
những ai thật sự có công phu tu tŕ trong Phật pháp mới
được sung măn. “Cho đến biên chép, rộng nói
cho người” là khuyên người. Phải lưu thông
Phật pháp, tuyên truyền Phật pháp, đó là trách nhiệm
của người đệ tử Phật. Chiếu theo
pháp môn này mà tự hành, hóa tha, tận tâm tận lực thực
hiện. Phải tự ḿnh tận tâm tận lực tu hành
và cũng phải tận tâm tận lực lưu thông, tuyên
truyền.
Người
như vậy, trong một niệm, tất cả hạnh
nguyện đều được thành tựu. Đó là sự
thật, kinh Đại Thừa từng nói đến: “Một
tức là hết thảy, hết thảy tức là một”.
Bởi tâm lượng quư vị viên măn, bất cứ một
hạnh nào cũng đều từ chân tâm, viên măn tâm mà phát
khởi. Một niệm phát khởi từ cái tâm viên măn, há
lẽ chẳng có đạo lư viên măn? Há lẽ chẳng có
đạo lư trọn khắp? Đấy là cảnh giới
Hoa Nghiêm, rất khó lănh hội, rất khó hiểu, là sự
thật chân chánh. Phước báo quư vị đạt
được vô lượng vô biên. Cầu vô biên phước
thù thắng từ nơi đây.
Nếu dùng các thứ
vàng bạc, của cải để bố thí cầu
phước, sẽ cầu được phước báo
nhỏ nhoi, chẳng phải là tu đại phước rốt
ráo viên măn. Đại phước rốt ráo viên măn phải
nhờ vào Phổ Hiền hạnh mới đạt
được, mới có thể viên măn thành tựu. Đối
với hết thảy chúng sanh trong biển khổ phiền
năo, quư vị cũng có năng lực giống như
chư Phật, Bồ Tát, giúp đỡ họ xử lư, dẫn
dắt họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
th́ Phổ Hiền hạnh nguyện mới đạt
đến viên măn.
II. PHẦN TRÙNG
TỤNG
Chánh kinh:
Nhĩ thời, Phổ Hiền
Bồ Tát Ma Ha Tát dục trùng tuyên thử nghĩa, phổ
quán thập phương, nhi thuyết kệ ngôn:
(Lúc bấy
giờ, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát muốn trùng tuyên
nghĩa này, nh́n khắp mười phương, bèn nói kệ[60] rằng)
Kệ tụng
giống như thi ca của Trung Quốc. Ở đây là loại
kệ tụng bảy chữ, mỗi câu có bảy chữ,
cứ bốn câu là một kệ. Tổng cộng có sáu
mươi hai bài. Phần đầu là Trùng Tụng đem
hết thảy mười đại nguyện
vương nhắc lại một lượt. Trong nhà Phật,
thể lệ này rất nhiều, có hai dụng ư:
1) Phật
giảng kinh, thính chúng tự do tham gia, có kẻ đến
trước, người đến sau. Người đến
sau cùng chưa nghe được những điều
đă giảng mấy hôm trước, Phật rất từ
bi, dùng kệ tụng để đơn giản nhắc
lại những điều trọng yếu một lần
nữa.
2) Kinh văn phải tụng
thuộc, sợ kẻ độn căn khó thuộc nổi
phần Trường Hàng, kệ tụng có thể dùng để
xướng tụng, dễ ghi nhớ.
1. Tụng
mười đại nguyện vương
1.1. Kệ
tụng lễ kính chư Phật
Chánh kinh:
Sở hữu thập phương thế
giới trung,
Tam thế nhất thiết Nhân Sư Tử,
Ngă dĩ thanh tịnh thân ngữ ư,
Nhất thiết biến lễ tận
vô dư,
Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần
lực,
Phổ hiện nhất thiết Như
Lai tiền,
Nhất thân phục hiện sát trần
thân,
Nhất nhất biến lễ sát trần
Phật.
(Trong tất
cả mười phương thế giới,
Ba đời
hết thảy Nhân Sư Tử,
Tôi dùng
thân - ngữ - ư thanh tịnh,
Lễ khắp
hết thảy chẳng c̣n sót,
Sức
oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền,
Hiện
trước khắp hết thảy Như Lai,
Mỗi
thân lại hiện sát trần[61] thân,
Mỗi mỗi lễ
khắp sát trần Phật)
Bài tụng
thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. “Mười
phương thế giới” là vô lượng vô biên các
cơi Phật. Chúng ta lễ kính ai? Lễ kính “ba đời
hết thảy Nhân Sư Tử”. Ba đời: đời
quá khứ, đời hiện tại, đời vị
lai. Nhân Sư Tử là Phật. Trong kinh Phật thường
dùng chữ “nhân trung sư tử” (sư tử trong
loài người) để ví đức Phật. Mười
phương tam thế hết thảy Phật đều
là đối tượng để chúng ta lễ kính. Phật
dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”.
Phàm những hiện tượng do các duyên ḥa hợp mà sanh
khởi đều gọi là “chúng sanh”. Hữu t́nh chúng sanh
do các duyên Tứ Đại, Ngũ Uẩn ḥa hợp; vô t́nh
chúng sanh (thực vật, khoáng vật) cũng do các duyên ḥa
hợp, bởi thế cũng là chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm chép: “T́nh
và vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí”.
V́ sao nói
“chúng sanh vốn đă là Phật”? Điều này thuộc về
mối quan hệ giữa Tánh và Tướng. Phàm mọi
Tướng đều do Tánh biến hiện. Phật là
Tâm. Hết thảy hiện tượng chỉ do Tâm hiện,
do Thức biến. Tâm chính là Phật, Phật chính là Tâm. Hữu
t́nh chúng sanh có Phật tánh, vô t́nh chúng sanh có pháp tánh. Pháp tánh
và Phật tánh cùng một tánh, chỉ là danh từ bất
đồng.
Chúng ta
đối với người, đối với sự,
đối với vật đều phải thường
tu cung kính, phải hoàn toàn cung kính giống hệt như
cung kính đức Phật. Ở nhà phải hiếu kính cha
mẹ, ở trường phải lễ kính sư trưởng,
dần dần mở rộng ḷng lễ kính đến thân
thích, quyến thuộc, cho đến hết thảy chúng
sanh. Chẳng những mở rộng sự lễ kính đến
hết thảy chúng sanh hữu t́nh mà c̣n phải mở rộng
đến hết thảy chúng sanh vô t́nh. Trong con mắt
người tu hành, giá nến, lư hương, bàn ghế,
mọi thứ đều là Phật cả, đều phải
cung kính. Bàn ghế lau chùi sạch sẽ, sắp xếp chỉnh
tề, là tỏ ḷng cung kính đối với chúng nó. Sách
đặt trên bàn phải thứ tự chỉnh tề; nếu
quăng vứt lung tung là bất kính vậy. Phật pháp kiến
lập trên cơ sở tâm cung kính, phải cung kính với hết
thảy, b́nh đẳng cung kính, thanh tịnh cung kính. Dầu
cung kính đối với hết thảy, nhưng tâm địa
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần.
“Tôi dùng
thân ngữ ư thanh tịnh”
để biểu đạt ḷng cung kính. Ba nghiệp thân -
ngữ - ư thanh tịnh là cung kính chân chánh.
“Lễ
khắp hết thảy chẳng c̣n sót”: đối với tam thế chư Phật,
quư vị lễ một vị tức là lễ toàn bộ hết
thảy. V́ sao vậy? Bởi tâm thanh tịnh chẳng có giới
hạn. Tâm thanh tịnh là chân tâm, chân tâm tột cùng hư
không, trọn khắp pháp giới, chẳng có giới hạn.
Bởi thế lễ một đức Phật là lễ hết
thảy Phật, cung kính một đức Phật là cung
kính hết thảy Phật. Ba nghiệp thân - ngữ - ư
thanh tịnh, niệm niệm đều là lễ kính, chẳng
phải là lễ Phật một cách h́nh thức.
Lễ Phật
h́nh thức là mới học, đặc biệt là kẻ
nghiệp chướng nặng nề, một ngày lễ ba
ngàn lạy để tu thân - ngữ - ư thanh tịnh. Lễ
Phật cũng là sám hối, để sám trừ tội
nghiệp bất kính đối với hết thảy Phật,
Bồ Tát và chúng sanh trong quá khứ. Lúc lễ Phật, tâm phải
thanh tịnh, tâm phải không, chớ nên ôm đồm lắm
nỗi, tâm phải một niệm chẳng sanh (“bổn
lai vô nhất vật”), thân phải chiếu theo nghi thức
mà làm. Lạy Phật là vận động, cũng là một
phương pháp dưỡng sanh tốt nhất.
Trong sách Ảnh
Trần Hồi Ức Lục có chép mẫu chuyện sau:
Năm Dân Quốc thứ nhất (1911), thầy Hương
Đăng chùa A Dục Vương là người rất
chất phác. Thầy Hương Đăng trông nom đèn
đuốc, thắp hương. Mùa Hạ, khí trời nóng
bức, người khác nói đùa:
- Thầy
Hương Đăng! Người ta phơi sách, phơi y
phục, thầy cũng nên đem nến ra phơi đi, nếu
không chẳng giữ được lâu đâu!
Thầy
đem nến ra phơi thật, nến chảy tan hết.
Lăo ḥa thượng dặn thầy một ngày lễ Phật
ba ngàn lạy để tu tâm thanh tịnh. Thầy lễ ba
năm bèn ngộ.
“Sức
oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền”: Chỉ cần chiếu theo
phương pháp lư luận trong kinh này mà tu hành, quư vị sẽ
là Phổ Hiền Bồ Tát, là Phổ Hiền Bồ Tát tối
sơ phát tâm. Trong thế giới Hoa Nghiêm có vị Đẳng
Giác Phổ Hiền Bồ Tát, nhưng vị Phổ Hiền
ấy cũng đă ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Quư vị tu theo pháp môn này, tương ứng với
Ngài, trong vô h́nh thần lực của Ngài sẽ gia tŕ quư vị,
đạt được cảm ứng đạo giao. Sức
lực ấy chẳng thể nghĩ bàn, là chỗ dựa
cho chúng ta tu hành.
“Hiện
trước khắp hết thảy Như Lai”: Mười phương ba đời
vô lượng vô biên thế giới, vô lượng vô biên
chư Phật, trước mỗi đức Phật
đều có thân tướng chúng ta hiện diện lễ
Phật.
“Mỗi
thân lại hiện sát trần thân, mỗi mỗi lễ khắp
sát trần Phật”: Mỗi một thân đều lễ
vô lượng vô biên đức Phật, vô lượng vô
biên thân, mỗi thân lại lễ vô lượng vô biên Phật.
Đấy toàn là cảnh giới Hoa Nghiêm, trùng trùng vô tận,
tuyệt đối chẳng phải là thần thoại, mà
đều là sự thật. Nguyên lư là tâm hiện, thức
biến, công năng của tâm thức chẳng thể
nghĩ bàn, vô lượng vô biên, bởi thế có thể hiện
các tướng như vậy. Hiểu theo một tầng ư
nghĩa sâu rộng hơn th́ do tâm thanh tịnh, chúng ta sẽ
cùng thế giới này, mười phương ba đời
hữu t́nh, vô t́nh, thế gian, xuất thế gian ḥa nhập
thành một thể.
Trong mười đại
nguyện vương, nguyện thứ nhất là căn bản.
Không có lễ kính sẽ chẳng có xưng tán. Chẳng có
tâm cung kính, người xưng tán chỉ là miệng nói một
đàng, tâm đi một nẻo. Toàn bộ kinh Hoa Nghiêm chỉ
là học lễ kính đó thôi! Chỉ cần thực hiện
được lễ kính th́ chín điều sau thảy
đều viên măn. Một lời ḿnh nói ra nhất định
là khen ngợi, đăi người tiếp vật nhất
định là cúng dường. Bởi thế, chúng ta học
Phật là học lễ kính. Lễ kính là tánh đức, là
cái chúng ta vốn sẵn có. Hiện tại, ta mê hoặc
điên đảo, khởi ḷng kiêu căng ngă mạn,
đánh mất tánh đức. Học Phật chẳng qua
là khôi phục tánh đức mà thôi.
1.2. Kệ tụng
xưng tán Như Lai
Chánh kinh:
Ư nhất trần trung trần số
Phật,
Các xử Bồ Tát chúng hội trung,
Vô tận pháp giới trần diệc
nhiên,
Thâm tín chư Phật giai sung măn,
Các dĩ nhất thiết âm thanh hải,
Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ,
Tận ư vị lai nhất thiết
kiếp,
Tán Phật thậm thâm công đức hải.
(Nơi
trần số Phật trong một trần,
Đều
ở giữa chúng hội Bồ Tát,
Pháp giới
vô tận trần cũng thế,
Tin sâu
chư Phật thảy sung măn,
Đều
dùng hết thảy biển âm thanh,
Thốt
trọn vô tận lời nói hay,
Tột
cùng hết thảy kiếp vị lai,
Khen biển công đức
Phật sâu thẳm)
Bài tụng
thứ hai xưng tán Như Lai. Bài kệ thứ nhất nói
lên đối tượng để xưng tán. Đối
tượng ấy rộng lớn, giống như phần
trên đă nói chẳng khác ǵ, ngôn từ bất đồng
cho thấy văn chương bóng bảy.
“Ư nhất
trần trung trần số Phật”: Trần ở đây là vi trần. Vi trần
được nói trong kinh Phật, mắt thịt không thấy
được; kinh Phật dùng rất nhiều ví dụ
để giảng chữ “trần”. Trước hết là
“ngưu mao trần”, lông ḅ khá thô, trên đầu sợi lông
có một hạt bụi có thể dính vào đó mà không bị
rớt mất [th́ hạt bụi đó gọi là “ngưu
mao trần”]. Chia hạt bụi đó thành bảy phần,
mỗi một phần là “dương mao trần”, lông dê so
ra nhuyễn hơn lông ḅ rất nhiều. Lại chia
dương mao trần thành bảy phần, mỗi một
phần là “thố mao trần” (bụi trên đầu sợi
lông con thỏ). Thố mao trần lại chia thành bảy phần,
th́ mỗi một phần gọi là “thủy trần”, có thể
xuyên qua nước không trở ngại ǵ. Nước có mật
độ, nhưng giữa các phân tử nước vẫn
có khoảng trống, hạt thủy trần có thể trôi
qua những khoảng trống ấy. Lại chia thủy trần
thành bảy phần, mỗi một phần là “kim trần”.
Mật độ (density) của kim loại rất lớn,
nh́n dưới kính hiển vi vẫn có khoảng trống,
kim trần có thể vượt qua những khoảng trống
ấy không bị chướng ngại. Kim trần lại
chia thành bảy phần th́ mỗi một phần gọi là
“vi trần”. Thiên nhăn của A La Hán mới thấy
được vi trần. Vi trần chưa phải là nhỏ
nhất, lại chia thành bảy phần nữa th́ gọi
là “sắc tụ vi”; lại chia thành bảy phần nữa
th́ gọi là “cực vi vi”, không thể chia nhỏ hơn
được nữa. Phật nhăn thấy được
cực vi vi.
Trần số:
đem tam thiên đại thiên thế giới (Ngân Hà hệ)
nghiền thành vi trần, số đến vô lượng
vô biên, trong mỗi một trần lại có vi trần số
chư Phật.
“Đều
ở giữa chúng hội Bồ Tát”: Mỗi một
đức Phật lại có hải hội Bồ Tát vây
quanh, Bồ Tát rất nhiều.
“Pháp giới
vô tận trần cũng thế”: Vô tận pháp giới, trong mỗi một vi trần
đều có số lượng các thế giới như
thế, đấy là cảnh giới đích thân Phật chứng
nhập. Cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn,
c̣n gọi là Nhất Chân Pháp Giới, tức là Thật Báo
Trang Nghiêm Tịnh Độ của A Di Đà Phật.
“Tin sâu
chư Phật thảy sung măn”:
Chẳng phải là cảnh giới chúng ta, dựa vào
đâu để tin chẳng nghi ngờ đây? Căn cứ
vào nhân cách của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật chẳng nói
dối. Cảnh giới đúng thật như thế, kinh
Kim Cang gọi cảnh giới ấy là “chư pháp Thật
Tướng”, chỉ có Phật và các đại Bồ
Tát mới chứng được.
“Đều
dùng hết thảy biển âm thanh, thốt trọn vô tận
lời nói hay”: Tán thán
đương nhiên phải sử dụng ngôn từ, dùng
âm thanh. Chúng ta chỉ nghĩ dùng âm thanh để ca xướng,
dùng ngôn từ khen ngợi Phật; tướng nói như thế
thật ra rất thô, có vậy hàng sơ học mới có
thể lănh hội được. Nếu nói sâu hơn,
chúng ta không cách chi hiểu được.
Nói đúng
ra, mọi âm thanh trong thế giới đều là khen Phật,
hết thảy ngôn từ không chi chẳng diệu, kể cả
tiếng người chửi nhau, căi cọ cũng thế,
chúng ta không cách ǵ hiểu được. Có tâm đắc
phẩm Quán Thế Âm Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng
Nghiêm mới ḥng lănh hội được! Hiện tại,
chúng ta nghe có âm thanh đẹp dạ, có âm thanh thô tháo
đáng chán ghét là v́ chúng ta dùng cái tâm phân biệt để
nghe, dùng Ư Thức để nghe, chúng ta chỉ nghe Thanh Trần.
Bồ Tát ĺa tâm ư thức mà nghe, nên trong hết thảy biển
âm thanh, hết thảy biển ngôn từ, Ngài chẳng có
tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, chẳng
có tâm vọng tưởng, hoàn toàn dùng tâm thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh nơi Nhĩ Căn gọi là Tánh Nghe. Cái
được nghe bởi Tánh Nghe là Thanh Tánh, chẳng phải
là Thanh Trần. Đó gọi là chân chánh tán thán đấy!
Bởi vậy,
chửi người, căi cọ cũng là tán thán, điều
này kỳ diệu chẳng thể diễn tả nổi,
chúng ta phải tu điều này. Tu xưng tán phải tu từ
đây th́ chúng ta mới có thể nhập cảnh giới
giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Nếu không, suốt
ngày từ sáng đến tối ca xướng, tán thán Phật,
Bồ Tát, nhưng Phật, Bồ Tát vẫn là Phật, Bồ
Tát, phàm phu vẫn là phàm phu. Tán thán rồi quư vị cũng
biến thành Phật, Bồ Tát, như thế mới là
đúng! Bởi thế, Ngài đối với thanh âm chẳng
hề chọn lựa, chẳng có phân biệt, đối với
ngôn từ cũng chẳng có chọn lựa. V́ thế mới
là diệu ngôn, hễ có chọn lựa th́ chẳng c̣n diệu
nữa! Hết thảy âm thanh ngôn từ đều lưu
xuất từ pháp tánh, lại quy vào pháp tánh. Người
b́nh phàm vừa nghe liền khai ngộ kiến tánh là v́ họ
dùng cái Tánh Nghe để nghe Thanh Tánh, dùng Tánh Thấy để
thấy Sắc Tánh.
Dù nói đến
sáu tánh nơi sáu căn, cũng như sáu tánh nơi sáu trần;
thật ra, tánh chỉ là một, nhất định chẳng
có hai tánh th́ mới gọi là tu cái nguyện “xưng tán”.
Xưng tán là đào luyện tâm thanh tịnh từ nơi âm
thanh, lễ kính là luyện tâm thanh tịnh từ nơi hết
thảy người, vật, sự tướng. Lễ
kính là thanh tịnh, tán thán cũng là thanh tịnh. Mỗi một
đại nguyện điều nào cũng nói đến
thanh tịnh, tu tâm thanh tịnh từ những điều
đó nên pháp môn này gọi là Đại Bất Tư Nghị
Pháp Môn. Chỗ nào cũng dạy chúng ta minh tâm kiến tánh,
chỗ nào cũng dạy chúng ta nhất tâm bất loạn.
“Tột
cùng hết thảy kiếp vị lai”: Thời gian tu hành chẳng gián đoạn,
trong quá tŕnh tu hành chẳng có kỳ hạn, sau khi tu hành viên
măn mới có kỳ hạn. V́ thế, Phật, Bồ Tát mới
chứng viên măn ba thứ Bất Thoái. Có kỳ hạn là có
lúc kết thúc, pháp môn này vô thỉ cũng vô chung. Chư vị
nghĩ kỹ xem: Tu tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh có đầu
có cuối chăng? Tâm thanh tịnh chẳng có đầu lẫn
cuối!
Duy Thức
nói: “Phương phần, thời phần, đều là
hành pháp bất tương ưng”. Phương phần
là không gian, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng,
trên, dưới. Thời phần là thời gian, quá khứ,
hiện tại, vị lai. Có những sự t́nh đó, dẫu
là có, nhưng chỉ là khái niệm trừu tượng, chẳng
phải là sự thật cụ thể, nhưng đối
với khái niệm trừu tượng chúng ta thường
lầm lẫn, coi chúng là thật, tựa hồ thật sự
có những sự t́nh đó; kỳ thật, chúng nào có. Phá
được cái ải đó, tức là phá được
cả không gian lẫn thời gian mới là giải thoát rốt
ráo. Tâm thanh tịnh chẳng có mười phương, chẳng
có ba đời, cho nên mới nói: “Tột cùng vị lai hết
thảy kiếp”. Cách nói như vậy, đối với
người sơ học thật không ǵ cổ vũ lớn
hơn nữa, chúng ta phải hiểu rơ sự thật này,
phải tinh tấn nỗ lực không ngừng, chẳng nên
giải đăi, chẳng được thoái chuyển.
“Khen biển
công đức Phật sâu thẳm”: công đức Phật vô lượng
vô biên, tán thán chẳng thể cùng tận. Nói trên mặt Sự,
lễ kính bao gồm hết thảy chúng sanh, chúng sanh đều
có Phật tánh, hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Bởi
thế phải lễ kính hết, chẳng được
phân biệt, chấp trước, phải dùng cái tâm thanh tịnh,
b́nh đẳng để tu. Xưng tán th́ phải coi là xứng
tánh hay không xứng tánh, cũng phải xét là thiện hay ác.
Chư vị phải biết thiện - ác là b́nh đẳng,
chân - vọng, tà - chánh cũng là b́nh đẳng, chẳng có
pháp nào không b́nh đẳng. V́ sao xưng tán phải phân biệt?
Đối với Pháp Thân đại sĩ mà nói th́ là b́nh
đẳng, nhưng đối với phàm phu chúng ta bèn có
sai biệt.
Trong phần Trường
Hàng nói “xưng tán Như Lai”, nhưng phần kệ tụng
nói “xưng tán Phật” chứ không xưng tán Như Lai. Ở
đây là cảnh giới Bồ Tát, là b́nh đẳng, gọi
là Nhất Chân Pháp Giới. Phần Trường Hàng có phân
biệt là v́ nói với chúng ta. Tâm chúng ta bất b́nh đẳng,
có chân - vọng, tà - chánh, thị - phi, thiện - ác; chúng ta
chẳng tán thán ác pháp, tán thán thiện pháp. Trong Kệ Tụng
là pháp b́nh đẳng, phần Trường Hàng là pháp sai biệt,
là nhân quả sai biệt. Phật thuyết pháp thật xảo
diệu thay!
1.3. Kệ Tụng
Quảng Tu Cúng Dường
Chánh kinh:
Dĩ chư tối thắng diệu hoa
man,
Kỹ nhạc, đồ hương, cập
tán cái,
Như thị tối thắng trang nghiêm
cụ,
Ngă dĩ cúng dường chư Như
Lai,
Tối thắng y phục, tối thắng
hương,
Mạt hương, thiêu hương, dữ
đăng, chúc,
Nhất nhất giai như Diệu Cao tụ,
Ngă tất cúng dường chư Như
Lai,
Ngă dĩ quảng đại thắng giải
tâm,
Thâm tín nhất thiết tam thế Phật,
Tất dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện
lực,
Phổ biến cúng dường chư
Như Lai.
(Dùng các
tràng hoa đẹp tối thắng,
Âm nhạc,
hương bôi, và tàn, lọng,
Đồ
trang nghiêm tối thắng như thế,
Tôi dùng cúng
dường các Như Lai.
Y phục
tối thắng, hương tối thắng,
Hương
bột, hương đốt, và đèn đuốc,
Mỗi
thứ chất như núi Tu Di,
Tôi đều
cúng dường các Như Lai.
Tôi dùng
tâm thắng giải rộng lớn,
Tin sâu hết
thảy ba đời Phật,
Đều
dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền,
Cúng dường trọn
khắp các Như Lai)
Bài Tụng
thứ ba là Quảng Tu Cúng Dường. Cúng dường là
bố thí; bố thí là dạy chúng ta tu Xả, dạy chúng
ta buông xuống. Nhất định phải tu cúng dường,
buông hết thảy thân tâm thế giới xuống. Cúng
dường chư Phật, cúng dường chúng sanh, cúng
dường pháp giới, hết thảy đều cúng
dường. Đem trí huệ, sức lực, của cải,
kỹ năng của ḿnh cống hiến cho xă hội, v́ hết
thảy chúng sanh phục vụ, chẳng cần báo đáp.
Công đức của cúng dường bố thí là đoạn
trừ phiền năo; tâm keo tiếc tham ái, tâm ưu lự,
tâm vướng mắc đều chẳng c̣n nữa, rất
tự tại! Hiện thời quư vị có tiền nhưng
chẳng tự tại, có địa vị nhưng chẳng
tự tại, là do trong tâm quư vị c̣n vướng mắc,
ưu lự, phiền năo. Đức Phật dạy chúng ta
bố thí tức là dạy cho chúng ta cách đạt đại
tự tại.
Đại
tự tại là chân khoái lạc, chân hạnh phúc. Có lẽ
có người sợ rằng hết thảy thân tâm thế
giới đều buông bỏ hết, th́ c̣n được
cái ǵ nữa? Làm sao sống nữa đây? Đúng vậy!
Đời người chẳng cần phải sống nữa,
đời sống lục đạo chẳng cần trải
qua nữa, mà là sống đời của Phật, của
Bồ Tát. Sống đời của Phật, của Bồ
Tát th́ như người trong thế giới Cực Lạc
nghĩ đến ăn món ǵ, vừa mới nghĩ th́ thứ
ḿnh nghĩ tưởng đă hiện ra trước mắt,
chẳng cần phải nấu nướng, muốn mặc
y phục ǵ, chẳng cần phải may vá, trong tâm vừa
tưởng, y phục liền khoác trên thân, đó là cuộc
sống của Phật, Bồ Tát. Nghĩ muốn ở
trong nhà cửa theo cách thức nào, ḿnh đă ở trong nhà
như thế rồi. Muốn nhà lớn thêm một chút, nhà
liền lớn thêm một chút. Nghĩ muốn nhỏ
đi chút, nó liền nhỏ lại. Không điều ǵ chẳng
vừa ư người. V́ sao cuộc sống được
tự tại như thế? Là v́ họ chẳng có ưu lự,
vướng mắc, phiền năo. Tin tưởng nhân duyên quả
báo, tu bố thí cúng dường, trong một đời này
sẽ được phước báo vô lượng, có thể
tu đến mức hữu cầu tất ứng, ngay cả
thọ mạng c̣n có thể kéo dài, huống chi là bệnh khổ?
Hai bài kệ
này nói về các thứ để cúng dường. “Tối
thắng” nghĩa là tốt đẹp nhất. “Man”
là tràng hoa. “Diệu hoa”: chẳng phải loại hoa tầm
thường mà c̣n hàm chứa pháp nghĩa trong ấy, đấy
là diệu. Tu hành giống như nở hoa, tương lai
nhất định chứng quả. Trông thấy hoa bèn
nghĩ ta phải tu hành. Hoa tượng trưng Lục
Độ Vạn Hạnh; trong kinh này Hoa tượng
trưng cho mười Ba La Mật, mười đại
nguyện vương. Trông thấy hoa, phải nghĩ tu
mười độ, hạnh nguyện Phổ Hiền. Diệu
hoa nghĩa là từ nơi hoa ấy, quư vị bèn khởi
giác quán.
“Kỹ
nhạc” là âm nhạc ca
vũ. Người Tiểu Thừa phiền năo nặng nên
pháp Tiểu Thừa cấm ngặt âm nhạc ca múa; pháp
Đại Thừa xướng ca, nhảy múa cúng dường
Phật. Tuy dùng kỹ nhạc cúng dường, tâm Phật,
Bồ Tát quyết định thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh
để diễn tấu, để lắng nghe, không ǵ chẳng
phải là minh tâm kiến tánh. “Đồ hương”
(hương bôi): hương bôi trên thân, giống như
nước hoa. “Tán cái” (tàn lọng): Tán để che
mát, lọng để ngăn bụi. Tâm địa phải
thanh lương, phải chẳng nhiễm mảy trần,
tàn lọng thể hiện ư nghĩa đó.
“Đồ
trang nghiêm tối thắng như thế, tôi dùng cúng dường
các Như Lai”: Các vật cúng dường như trên vừa
nói, số lượng thật rất nhiều. Những vật
cúng dường ấy, Phật chớ hề cần đến.
Ở đây dùng chữ “Như Lai” chứ không dùng chữ
“Phật”. Nói Phật là từ sự tướng, nói
Như Lai là từ Tánh (bản tánh) mà nói. Tôi cúng dường
Như Lai tức là cúng dường Chân Như Bản Tánh của
chính ḿnh.
V́ sao cúng
dường tự tánh chính là cúng dường Như Lai?
Kinh dạy: “Mười phương ba đời Phật,
cùng chung một Pháp Thân”. Như Lai là Pháp Thân. Trong tâm thanh
tịnh chẳng hề có cách ngăn, chẳng có chướng
ngại, tột cùng pháp giới khắp hư không giới
đều là một Như Lai, Chân Như Bản Tánh mà thôi!
Xứng tánh lẽ đâu chẳng cúng trọn khắp?
“Y phục
tối thắng, hương tối thắng”: Y phục che đậy, biểu thị
Nhẫn Nhục Ba La Mật. Khi có lễ lạc th́ mặc
lễ phục, nên y phục cũng biểu thị cho lễ.
“Tối thắng hương”: Hương biểu thị
tánh hương, hương biểu thị Giới Định.
Hương có rất nhiều chủng loại, “mạt
hương” là hương bột, “thiêu hương”
là hương đốt. “Đèn đuốc” tượng
trưng cho quang minh, trí huệ. Ánh sáng mặt trời, mặt
trăng, tinh tú, ánh sáng đèn đều biểu thị Bát
Nhă quang minh của tự tánh. Trông thấy quang minh, cảnh
tỉnh ḿnh phải tu cho tâm địa quang minh, thanh tịnh,
hợp nhất cùng ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng, đèn đuốc.
“Mỗi
thứ chất như núi Tu Di”:
những thứ vật cúng dường chất cao như
núi Diệu Cao (Tu Di sơn), tôi đều dùng để cúng
dường Như Lai.
Chúng ta cần phải
hiểu ư nghĩa về mặt pháp của vật cúng
dường. Quy nạp lại mà nói, “hạnh nguyện” là
năng cúng dường, Pháp là sở cúng dường. Nhất
định phải hiểu được ư nghĩa thù thắng
nơi kinh th́ sau đấy chính ḿnh mới có thể
tương ứng với cảnh giới được,
mới ḥng tu được công đức lợi ích chân
thật nơi mười đại nguyện
vương.
1.4. Kệ tụng
sám hối nghiệp chướng
Chánh kinh:
Ngă tích sở tạo chư ác
nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si,
Tùng thân ngữ ư chi sở sanh,
Nhất thiết ngă kim giai sám hối.
(Tôi
xưa trót tạo các ác nghiệp,
Đều
do vô thỉ tham - sân - si,
Từ
thân ngữ ư phát sanh ra,
Hết thảy tôi
nay đều sám hối)
Bài tụng
thứ tư: sám hối nghiệp chướng.
“Ngă tích sở
tạo chư ác nghiệp” (Tôi
xưa trót tạo các ác nghiệp): “Tích” là quá khứ, từ
vô thỉ kiếp đến nay đời đời kiếp
kiếp tạo tác ác nghiệp vô lượng vô biên. Đời
người khổ rất nhiều, chướng ngại
nhiều, mười chuyện hết tám chín chuyện chẳng
như ư; chuyện xứng tâm vừa ư rất khó gặp
được. Những chướng ngại như vậy
là hậu quả của những ác nghiệp đă tạo
trong đời quá khứ, chỉ ḿnh đức Phật mới
sám trừ sạch được hết thảy nghiệp
chướng. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n một phần
sanh tướng vô minh chưa phá, đó là ác nghiệp của
họ. Phàm phu chúng ta gây nghiệp chướng giết, trộm,
dâm, dối, tham, sân, si, mạn rất nặng. Những nghiệp
chướng ấy chướng tâm thanh tịnh của ta;
nghiệp chướng nếu chẳng tiêu trừ, không cách
chi tu học thành tựu.
Chưa ra
khỏi tam giới th́ thiện nghiệp vẫn là một
thứ ác nghiệp; nhà Phật gọi là “tam thế oán”.
Đời thứ nhất làm được rất nhiều
việc tốt, đời thứ hai hưởng thiện
quả, hưởng thọ đại phước báo trong
trời người, trong xă hội có địa vị rất
cao, làm quan to, trở thành giàu có lớn. Nhưng trong lúc
hưởng thụ quả báo một đời, quên mất
tu thiện, dẫu có tu thiện cũng chẳng làm
được mấy. V́ thế, quả báo lành hưởng
hết, đời thứ ba do thiện ít ác nhiều, ác
nghiệp hiện tiền, vào trong tam đồ. Ví như:
người giàu ngày ngày ăn cá, ăn thịt, cả mấy
mươi năm tạo biết bao sát nghiệp? Người
có thế lực lắm phen lầm lỡ, gây rất nhiều
bất lợi cho người khác!
Thế nào
là sự lành chân chánh? Ngoại trừ niệm Phật ra, những
thứ khác đều chẳng phải là sự lành chân
chánh. Sự lành chân chánh phải là ngay trong một đời
này quyết định vượt thoát luân hồi lục
đạo. Tu các pháp môn khác, không pháp nào có thể khiến
quư vị ngay trong một đời vượt thoát tam giới,
vẫn ở trong luân hồi, nên chúng chẳng phải là thiện
nghiệp.
A Di Đà
Phật đại từ đại bi, giúp cho bọn chúng
sanh nghiệp chướng sâu nặng chúng ta, mở cho chúng
ta một con đường lớn để thành Phật.
Chúng ta tin được, nguyện được, hành
được th́ thành tựu ngay trong một đời,
đới nghiệp văng sanh. Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nghiệp chướng từ vô thỉ
kiếp đến nay của chúng ta tiêu trừ hết. Công
đức niệm Phật rất lớn, tiêu trừ
được hết thảy nghiệp.
“Đều
do vô thỉ tham - sân - si”: Câu
này nói nêu cái nhân tạo nghiệp. Ác nghiệp sanh khởi từ
tham - sân - si. Người tu hành phải tu từ căn bản,
phải trực tiếp đoạn tham - sân - si.
Chẳng những
hết thảy pháp thế gian, ngũ dục, lục trần
đều buông xuống, chẳng được tham, mà thậm
chí hết thảy Phật pháp xuất thế gian, Bồ Đề,
Niết Bàn cũng chẳng được tham. Chỉ cần
có một ư niệm tham liền tạo ác nghiệp. Lục
đạo chúng sanh tham ngũ dục, lục trần, hàng
Nhị Thừa tham thiên chân Niết Bàn, tham Thiền Định,
Đại Thừa Bồ Tát tham độ chúng sanh, đều
là tâm tham. Chẳng tham mới có thể thành tựu. Sân là
sân khuể, chướng ngại đạo nghiệp,
chướng ngại tâm tánh, chướng ngại tâm thanh tịnh,
nên phải đoạn trừ. Ngu si: chân - vọng, tà -
chánh, thị - phi, thiện - ác, lợi - hại chẳng thể
phân biệt, cứ điên đảo th́ gọi là ngu si. Chẳng
hạn như: Chẳng thể phân biệt những loại
giả danh Phật giáo chỉ mang h́nh thức Phật giáo
bên ngoài là ngu si, chẳng biết chọn lựa pháp môn thích
hợp hoàn cảnh tu học và tŕnh độ của chính
ḿnh th́ cũng là ngu si.
Tâm tham nặng
đọa trong đường ngạ quỷ, tâm sân nặng
đọa trong đường địa ngục, ngu si
đọa trong đường súc sanh. Không tham, không sân,
không si là ba thiện căn, thế gian, trời, người,
hết thảy pháp lành do đấy mà sanh. Chúng ta muốn
được phước báo trời người th́ tối
khẩn là phải chuyển tham - sân - si (ba độc phiền
năo) thành ba thiện căn, đấy mới là chân chánh sám
hối. Sám hối là sửa lỗi đổi mới vậy!
“Từ
thân - ngữ - ư phát sanh ra”:
Câu này nói đến công cụ tạo nghiệp. Thân là thân
thể tạo giết, trộm, dâm; ngữ là ngữ ngôn, tạo
khẩu nghiệp: nói dối, nói đôi chiều, nói ác, thêu
dệt; ư là ư niệm, khởi tham - sân - si, chẳng tin lời
Phật, Bồ Tát giáo huấn, chẳng thể tu hành
đúng như lời dạy. Thân ngữ ư nghiệp ngày ngày
bất tri bất giác tạo nghiệp, đóng vai tṛ chủ
chốt tạo nghiệp là tham - sân - si. Đa số người
đời chẳng biết căn bệnh, lầm lỗi
của chính ḿnh, nhưng thấy rơ lỗi lầm, tật xấu
của người khác. Biết lỗi lầm của chính
ḿnh bèn giác ngộ. Sau khi giác ngộ, liền có thể sửa
đổi tật xấu, tập khí của chính ḿnh. Đó
là tu hành, là chân chánh sám hối.
“Hết thảy tôi
nay đều sám hối”:
Sám hối là đổi lỗi tự sửa, về sau chẳng
tái phạm, chứ chẳng phải là đem tội lỗi
của chính ḿnh đối trước Phật đọc
một lượt, dập đầu mấy lượt,
cầu Phật, Bồ Tát tha thứ. Phật, Bồ Tát chẳng
quan tâm đến chuyện của quư vị, sám hối là
chuyện của quư vị. Phật, Bồ Tát chỉ cảnh
tỉnh chúng ta, chỉ dạy chúng ta. Chân chánh sám hối là
hiểu được lỗi lầm của chính ḿnh, A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật
niệm đến cùng cực, liền có thể sám trừ
tội nghiệp của chính ḿnh, hết thảy tội lỗi
trước đây chẳng nghĩ đến nữa, chỉ
nghĩ đến A Di Đà Phật, chỉ niệm A Di
Đà Phật, tội nghiệp của quư vị sẽ
được sám trừ sạch.
1.5. Kệ tụng
tùy hỷ công đức
Chánh kinh:
Thập phương nhất
thiết chư chúng sanh,
Nhị thừa hữu học cập vô
học,
Nhất thiết Như Lai dữ Bồ
Tát,
Sở hữu công đức giai tùy hỷ.
(Mười
phương hết thảy các chúng sanh,
Nhị
Thừa hữu học và vô học,
Hết
thảy Như Lai và Bồ Tát,
Bao nhiêu công đức
đều tùy hỷ)
Bài tụng
thứ năm là tùy hỷ công đức. Công là công phu. Công
phu như thế nào được quả báo như thế
ấy, đó gọi là công đức. Công đức do tự
ḿnh tu, người khác chẳng đoạt được,
quư vị cũng chẳng có cách nào đem cho người
khác được. Phước đức do tự ḿnh tu
có thể đem cho người khác được; người
khác tu có thể cho chúng ta được. Phước báo của
họ lớn, ta cũng hưởng ké, hưởng
được chút phước. Chúng ta phước báo lớn,
thích giúp đỡ người khác, người khác
được hưởng phước báo của ta.
Phước báo có thể dời chuyển, công đức
chẳng thể dời chuyển được. Công đức
do ḿnh tự tu tự được, người khác không
cách ǵ làm thay được.
Ở
đây, tùy hỷ công đức lấy công đức làm chủ,
phước đức được tính gộp trong ấy.
Trong công đức nhất định phải có phước
đức, trong phước đức không nhất định
có công đức. Công đức là Định - Huệ, Giới
là phước đức. Tŕ giới đắc Định
th́ Giới cũng biến thành công đức.
Cảnh giới
nói trong bài kệ rất lớn. “Mười
phương hết thảy các chúng sanh”, chữ “chúng
sanh” chỉ lục đạo chúng sanh (phàm phu). Lục
đạo chúng sanh ác nhiều, thiện ít. Nếu những
chúng sanh ấy khởi thiện niệm, làm được
thiện hành (việc lợi ích cho chúng sanh), chúng ta đều
tận tâm tận lực giúp đỡ họ, thành toàn cho họ
trong việc tạo phước cho hết thảy chúng
sanh. Công đức tùy hỷ của chúng ta cũng to như
công đức của họ vậy.
“Nhị
Thừa hữu học và vô học”: Nhị Thừa chỉ Thanh Văn, Duyên
Giác, là Tiểu Thừa. Thanh Văn có tứ quả: Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả đều gọi là “hữu
học”. Tứ Quả A La Hán là Vô Học. Người
tu học pháp Tiểu Thừa từ Sơ Học cho đến
chứng quả, chúng ta đều phải tùy hỷ, tán
thán cả.
Có lẽ có
đồng tu hỏi: “Chúng ta hiện tại tu pháp môn Niệm
Phật, sao có thể tùy hỷ người tu học Tiểu
Thừa cho được, chẳng phải là xen tạp
đó ư?” Đúng, chẳng sai! Pháp môn Niệm Phật bao
gồm hết thảy pháp môn. Ở đây, Phổ Hiền
Bồ Tát nói với bậc Pháp Thân đại sĩ thuộc
thế giới Hoa Tạng, đương nhiên họ phải
tùy hỷ Tiểu Thừa. Chẳng hạn như Tiểu
Thừa tu Tứ Niệm Xứ: quán thân bất tịnh,
quán Thọ là khổ, quán pháp vô ngă, quán tâm vô thường. Nếu
thường quán như vậy sẽ giúp cho tâm địa
chúng ta thanh tịnh. Ba mươi bảy đạo phẩm
có thể giúp chúng ta công phu thành phiến, nhất tâm bất
loạn. Những ǵ Tiểu Thừa tu học đều là
những phương pháp để đối trị một
chứng bệnh. Nếu chúng ta mắc bệnh giống
như thế th́ có thể dùng phương pháp ấy để
đối trị, để trợ tu, niệm Phật là
chủ tu. Như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần,
Tứ Như Ư Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ
Đề Phần, Bát Chánh Đạo đều có thể
chọn dùng. Nếu tâm địa thanh tịnh, chắc thật
niệm Phật, ắt chẳng cần đến những
phương pháp đó, những phương pháp đó gộp
trong một câu Phật hiệu, một câu Phật hiệu
công đức vô lượng vô biên.
“Hết
thảy Như Lai và Bồ Tát”:
Đây là Đại Thừa. Bồ Tát viên măn năm
mươi mốt địa vị từ địa vị
Sơ Tín cho đến Đẳng Giác bèn thành Phật. Bồ
Tát từ sơ phát tâm cho đến khi tu hành chứng quả,
ta cũng phải học tập theo gương ấy, ta
cũng phải nghiêm túc nỗ lực học theo quư Ngài.
“Tất
cả công đức đều tùy hỷ”: Ở đây, tùy hỷ đặt nặng
vấn đề học tập theo họ, tận tâm tận
lực giúp đỡ họ. Đa số người niệm
mười đại nguyện vương, miệng niệm
tùy hỷ, nhưng chẳng thật sự tùy hỷ. Rất
thích một bộ kinh th́ phải tùy hỷ. Phát tâm y giáo tu
hành, phát tâm giảng bộ kinh đó, khiến nó được
hoằng dương quang đại, đấy mới là
tùy hỷ. Cứ nghĩ ḿnh chẳng có năng lực, chẳng
có biện tài th́ quư vị tự xem nhẹ ḿnh quá đấy!
Cứ chân chánh phát tâm, Tam Bảo bèn gia tŕ.
Đại
sư Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống, lúc chưa
xuất gia làm một chức quan nhỏ, làm quan coi kho,
thường lấy tiền trong kho mua các loài thủy tộc:
tôm, cá v.v… để phóng sanh. V́ thế, mắc phải tội
danh trộm đạo của công, theo pháp phải chịu
tử h́nh. Ngô Việt Vương tín ngưỡng Phật
pháp, biết Sư trộm dùng tiền kho toàn là để
phóng sanh, truyền giám trảm quan chú ư thái độ của
Sư trước lúc thọ h́nh. Trước lúc bị xử
chém, Sư cười khúc khích, vui vẻ mừng rỡ, chẳng
chút sợ hăi ǵ. Giám trảm quan hỏi:
- Sao ông
không sợ chết?
Sư
đáp:
- Tôi chỉ
có một cái mạng, cứu được ngàn ngàn vạn
vạn cái mạng, rất đáng giá!
Về sau, quốc
vương chẳng giết Sư, thả Sư đi,
Sư bèn xuất gia. Sư không có tài ăn nói, mộng thấy
Quán Âm Bồ Tát dùng cam lộ nhỏ vào họng Sư, ngày
hôm sau biện tài vô ngại. Sư phát tâm lên đài giảng
kinh, hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh. Chẳng
hề có mảy may ư niệm tự tư, tự lợi,
Tam Bảo nhất định gia tŕ, cảm ứng đạo
giao, đó gọi là “chân chánh tùy hỷ”.
1.6. Kệ tụng
thỉnh chuyển pháp luân
Chánh kinh:
Thập phương sở hữu
Thế Gian Đăng,
Tối sơ thành tựu Bồ Đề
giả,
Ngă kim nhất thiết giai khuyến thỉnh,
Chuyển ư vô thượng diệu
pháp luân.
(Mười
phương tất cả Thế Gian Đăng,
Lúc mới
thành tựu quả Bồ Đề,
Nay tôi
đều khuyến thỉnh hết thảy,
Chuyển pháp luân vi
diệu vô thượng)
Bài tụng
thứ sáu là “thỉnh chuyển pháp luân”. Chuyển pháp
luân là hoằng pháp lợi sanh, đem Phật pháp giới
thiệu với người khác.
“Mười
phương tất cả Thế Gian Đăng”: Đăng (đèn) tượng
trưng cho trí huệ, quang minh. Thế Gian Đăng là cách
nói ví von: Nếu thế gian không có Phật pháp bèn là thời
đại tối tăm, giáo học của Phật pháp là
dạy hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, khai ngộ
là phóng quang minh. Phật pháp giúp cho tự tánh của chúng ta
phóng quang, đấy chính là quang minh giáo học. Bởi thế
Phật là Thế Gian Đăng (đèn soi thế gian).
“Lúc mới
thành tựu quả Bồ Đề”: Câu này sử dụng thể loại
song quan: Một là lúc mới thành Chánh Giác, thị hiện mới
thành Phật đạo; hai là bậc Bồ Tát Sơ Trụ
thuộc Viên Giáo. Trong Thiền Tông, “đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”
chỉ bậc Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên.
Trong Tịnh Độ Tông, niệm Phật niệm đến
Lư Nhất Tâm Bất Loạn cũng là “mới thành tựu
Bồ Đề”.
Hai câu trên có thể hiểu
là: Trên từ Phật Như Lai, dưới đến bậc
đại thiện tri thức chân chánh hữu tu hữu chứng,
thảy đều bao gồm hết, “nay tôi đều
khuyến thỉnh hết thảy, chuyển pháp luân vi diệu
vô thượng”: dùng tâm chân thành cầu học, lễ thỉnh
thiện tri thức hoằng pháp lợi sanh.
1.7. Kệ tụng
thỉnh Phật trụ thế
Chánh kinh:
Chư Phật nhược dục thị
Niết Bàn,
Ngă tất chí thành nhi khuyến thỉnh,
Duy nguyện cửu trụ sát trần kiếp,
Lợi lạc nhất thiết chư
chúng sanh.
(Nếu
chư Phật toan hiện nhập diệt,
Tôi đều
chí thành mà khuyên mời:
Kính mong ở
lâu sát trần kiếp,
Lợi lạc hết
thảy các chúng sanh)
Bài tụng thứ bảy
là “thỉnh chuyển pháp luân”. Hiện tại, dù Phật
chẳng tại thế, vẫn có thiện tri thức
(người sanh tử tự tại) hiện hữu, chúng
ta phải khuyên họ chớ nhập diệt; khuyên họ
thường trụ thế gian, đấy là nguyện vọng
của chúng ta. Chư Phật, Bồ Tát trụ thế liên
quan đến pháp duyên, hữu duyên các Ngài bèn xuất hiện;
duyên hết, các Ngài bèn đi. Chân chánh học theo quư Ngài, một
trăm phần trăm y giáo phụng hành mới lưu các
Ngài trụ thế được. Nếu chẳng thành tâm
thành ư học theo các Ngài, các Ngài bèn tùy duyên. Người khải
thỉnh thiện tri thức giảng kinh, phước báo
vô cùng lớn, thật sự là rộng lợi chúng sanh.
Chánh kinh:
Sở hữu lễ tán, cúng dường
phước,
Thỉnh Phật trụ thế chuyển
pháp luân,
Tùy hỷ, sám hối, chư thiện
căn,
Hồi hướng chúng sanh cập Phật
đạo.
(Bao nhiêu
phước lễ, tán, cúng dường,
Thỉnh
Phật ở đời chuyển pháp luân,
Các thiện
căn tùy hỷ, sám hối,
Hồi hướng chúng sanh và Phật đạo)
Bài kệ này hợp tụng
ba nguyện: thường tùy Phật học, hằng thuận
chúng sanh và phổ giai hồi hướng. Ba nguyện này
đều thuộc về hồi hướng. Bài kệ
này nói chung; ba câu đầu lược nói bảy nguyện
trước, đem hết thảy công đức đă tu ở
trên hồi hướng cho chúng sanh và Phật đạo. Hồi
hướng chúng sanh: Nếu chịu v́ hết thảy chúng
sanh khổ nạn mà tu học, ắt quư vị dũng mănh,
tinh tấn, chẳng biếng nhác. Hồi hướng Phật
đạo tức là hồi hướng Bồ Đề,
chúng ta tu học chẳng cầu giác ngộ, mà là v́ hết
thảy chúng sanh cầu sự viên măn giác ngộ nơi chính
ḿnh.
1.8. Kệ tụng
thường tùy Phật học
Chánh kinh:
Ngă tùy nhất thiết
Như Lai học,
Tu tập Phổ Hiền viên măn
hạnh,
Cúng dường quá khứ
chư Như Lai,
Cập dữ hiện tại thập
phương Phật.
Vị lai nhất thiết Thiên
Nhân Sư,
Nhất thiết ư nhạo giai
viên măn,
Ngă nguyện phổ tùy tam thế
học,
Tốc đắc thành tựu
đại Bồ Đề.
(Tôi học
theo hết thảy Như Lai,
Tu thập
hạnh Phổ Hiền viên măn,
Cúng
dường quá khứ chư Như Lai,
Và cúng hiện
tại mười phương Phật.
Hết
thảy Thầy Trời Người tương lai,
Hết
thảy ưa thích đều viên măn,
Tôi nguyện
học khắp cả ba đời,
Mau được
thành tựu đại Bồ Đề)
Trùng tụng
nguyện thứ tám “thường tùy Phật học”.
Phải học theo tam thế chư Phật: quá khứ Phật,
hiện tại Phật, vị lai Phật. Trong kinh văn
đặc biệt nói “tu tập hạnh Phổ Hiền
viên măn”. Phổ Hiền hạnh: toàn bộ đạo lư
được nói trong kinh Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm đều là hạnh Phổ Hiền cả.
Mở đầu kinh, ta đă gặp ngay Phổ Hiền Bồ
Tát, đến khi viên măn tối hậu cũng là Phổ Hiền
Bồ Tát. Phổ Hiền đại biểu cho viên măn, kinh
này có lư luận viên măn, có phương pháp tu hành viên măn,
cũng như cảnh giới tối viên măn. Chiếu theo
kinh này tu hành đều là người đại căn
tánh viên đốn cả.
“Cúng
dường quá khứ chư Như Lai, và cúng hiện tại
mười phương Phật”: Cúng dường tối trọng yếu là cúng dường
bằng cách tu hành. Chiếu theo phương pháp mà tu hành,
chính là cúng dường chân chánh. Nếu có thể tuyên
dương, lưu thông kinh này th́ chính là cúng dường thù
thắng.
“Hết
thảy Thầy Trời Người tương lai”: Thiên Nhân Sư là Phật, câu này nói đến
các vị Phật tương lai. Phật tương lai
chính là hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh
đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Học
theo các đức Phật tương lai như thế nào?
Hết thảy chúng sanh hễ có chút điểm lành nhỏ
nhoi nào, chúng ta đều phải tùy hỷ, học theo, huống
hồ là phát tâm Bồ Đề, tu Bồ Tát đạo!
Người khéo học th́ bất luận cảnh giới
nào cũng đều có thể tạo thành tựu cho chính
ḿnh. Mặt thiện của hết thảy chúng sanh chúng ta
phải học theo, nếu là mặt ác, chúng ta nghe thấy,
trông thấy phải phản tỉnh sâu xa, tự ḿnh chẳng
làm ác, đó là “tùy học” vậy. Nói cách khác, thuận hay
nghịch đều là tăng thượng duyên. Người
học Phật trong hết thảy hoàn cảnh đều
tu thành kính, b́nh đẳng, thanh tịnh, từ bi, đó là
Phổ Hiền hạnh.
“Hết
thảy ưa thích đều viên măn”: Hạnh có xứng tánh th́ mới gọi
là hạnh viên măn. Nếu đánh mất cái tâm thành kính th́ dù
có tu hạnh ǵ đi nữa, cũng chẳng thể coi là xứng
tánh được!
“Tôi nguyện học
khắp cả ba đời, mau được thành tựu
đại Bồ Đề”: Câu cuối cùng chính là quả
báo, mà cũng là mục tiêu của việc tùy học. Tác phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ
Sao ghi: “Trong các chúng sanh, chỉ có trời và người
là có thể phát tâm Bồ Đề”. Tam ác đạo mê
rất nặng, nghiệp chướng quá nặng, chẳng
dễ phát tâm Bồ Đề. Chỉ có hai đường
trời và người là có thể phát tâm Bồ Đề,
có thể tu hành mười thiện nghiệp, có thể
đắc Tứ Quả, có thể đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Phương pháp để đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Bởi
thế, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhất
định phải hoàn thành nơi Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Ư nghĩa thù thắng của kinh này nằm
ở đây.
1.9. Kệ tụng
hằng thuận chúng sanh
Chánh kinh:
Sở hữu thập
phương nhất thiết sát,
Quảng đại thanh tịnh diệu
trang nghiêm,
Chúng hội vi nhiễu chư Như Lai,
Tất tại Bồ Đề thọ
vương hạ,
Thập phương sở hữu
chư chúng sanh,
Nguyện ly ưu hoạn thường
an lạc,
Hoạch đắc thậm thâm chánh pháp
lợi,
Diệt trừ phiền năo tận vô
dư.
(Tất
cả cơi nước khắp mười phương,
Rộng
lớn thanh tịnh, trang nghiêm đẹp,
Chúng hội
vây quanh các Như Lai,
Đều
ở dưới cội cây Bồ Đề,
Mười
phương tất cả các chúng sanh,
Nguyện
ĺa buồn khổ thường an lạc,
Đạt lợi rất
sâu nơi chánh pháp,
Diệt trừ phiền
năo chẳng c̣n sót)
Bài tụng
thứ chín là nguyện “hằng thuận chúng sanh”.
“Tất
cả cơi nước khắp mười phương” ư nói cơi nước để
nương vào (thế giới) rất lớn. Tất cả
các chúng sanh trong mười phương hết thảy cơi
Phật, chúng ta phải tùy thuận.
“Rộng
lớn thanh tịnh, trang nghiêm đẹp”: Phàm có tu học pháp môn Phổ Hiền
th́ mới có thể thật sự thấy các cơi Phật
thanh tịnh trang nghiêm vi diệu trong mười
phương, v́ tâm Phổ Hiền là tâm thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh th́ thân thanh tịnh. Thân lẫn tâm thanh tịnh
th́ cảnh giới bên ngoài không ǵ chẳng thanh tịnh. Tất
cả những cảnh giới Thiện Tài đồng tử
đă trải qua, toàn là những tịnh độ thanh tịnh
trang nghiêm vi diệu của chư Phật, không một chỗ
nào chẳng phải là tịnh độ. Chúng ta thấy có
thiện, có ác, chứ Thiện Tài chỉ thấy thuần
thiện không ác; cách thấy, cách cảm nhận của Ngài
khác với chúng ta. Chúng ta trông thấy hết thảy cảnh
giới đâm ra phiền năo, sanh ḷng mừng, giận, buồn,
vui. Thiện Tài đồng tử tiếp xúc cảnh giới
bên ngoài chẳng sanh phiền năo, mà sanh trí huệ, sanh tâm
thanh tịnh. Bởi thế, trong tầm mắt Ngài toàn là
cơi nước thanh tịnh vi diệu trang nghiêm. Chúng ta niệm
Phật đến mức Nhất Tâm Bất Loạn sẽ
chứng nhập cảnh giới đó, cảnh giới ấy
chính là cảnh giới của Lư Nhất Tâm Bất Loạn.
“Chúng hội
vây quanh các Như Lai, đều ở dưới cội
cây Bồ Đề”: Chúng hội
chính là các nơi đại chúng tụ hội, ở đây
chỉ các đại Bồ Tát chúng, Bồ Tát vây quanh đức
Phật, chúng ta phải tùy thuận Bồ Tát.
Bài kệ
thứ hai nói đến việc tùy thuận chúng sanh. “Mười
phương tất cả các chúng sanh”: phạm vi rộng
lớn, Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo chúng sanh.
“Nguyện
ĺa buồn khổ thường an lạc”: Câu này nói lên ư nguyện tu học của
Bồ Tát. V́ sao chúng ta học Phật? Là v́ có thể ĺa khổ
được vui. Nói cách khác: Chúng ta tu hành đừng chỉ
v́ ḿnh, đó là hạnh Phổ Hiền. Ta tu học v́ đại
chúng, chính ḿnh phải chịu nhiều phần khổ sở,
đại chúng chịu ít phần khổ sở, thay thế
chúng sanh chịu khổ mà! Dẫu chúng sanh ai nấy đều
có nghiệp báo, chúng ta chẳng chịu thay được,
nhưng tâm chúng ta viên măn, thật sự có ḷng muốn chịu
khổ thay cho họ th́ niệm niệm viên măn công đức.
Nhờ đó, trong quá tŕnh tu học, đối với hết
thảy khổ nạn phải chịu đựng, bản
thân ḿnh cũng có thể chịu đựng được.
Tự ḿnh chẳng oán trời trách người, v́ đó
[cũng như là] chịu khổ thay cho hết thảy
chúng sanh, đó là ư nguyện của Bồ Tát, là ư nguyện
của chính ḿnh.
“Đạt
lợi rất sâu nơi chánh pháp”: Lợi là ích lợi. Chỉ có tín nguyện viên măn
th́ mới ḥng đạt lợi ích chân thật nơi Phật
pháp. Hiện thời, muốn đạt được
chánh pháp rất sâu rất khó. Trong đời Mạt Pháp, tà
sư thuyết pháp như cát sông Hằng, tà và chánh rất
khó phân biệt. Đi theo đường tà, lầm tưởng
là chánh, tu tŕ một đời chẳng những mất trắng,
c̣n e chuốc lấy rất nhiều tội nghiệp, rất
nhiều quả báo chẳng như ư. Trong lúc chúng ta chẳng
có năng lực phân biệt tà chánh th́ phải thường
đọc tụng kinh điển Đại Thừa,
đăi người tiếp vật lấy kinh điển
làm tiêu chuẩn, dùng tiêu chuẩn đó để tiếp cận
chánh pháp, lấy tiêu chuẩn đó để ngoảnh mặt
cùng tà pháp. Tham cầu danh văn lợi dưỡng là tà
pháp, lợi ích hết thảy chúng sanh là chánh pháp; trong quá
tŕnh phát nguyện tu học, ắt có thể đạt
được lợi ích nơi chánh pháp rất sâu. Chánh
pháp rất sâu chính là thành kính, thanh tịnh, b́nh đẳng,
từ bi.
“Diệt
trừ phiền năo chẳng c̣n sót”: tham, sân, si, mạn, thân kiến, biên kiến,
kiến thủ kiến, giới thủ kiến, thành kiến
rất sâu, đều là cội nguồn phiền năo. Chỉ
cần đạt được chánh pháp, tâm địa
thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi th́ mới dẹp trừ
được tất cả phiền năo từ cội rễ.
Học tập hằng
thuận giúp ta phá được chấp trước. Nếu
phá được Ngă Chấp, niệm Phật sẽ đạt
Sự Nhất Tâm Bất Loạn. Niệm niệm đều
v́ lợi ích chúng sanh; niệm niệm đều nhằm tạo
phước cho xă hội, đấy chính là hạnh Bồ
Tát.
1.10. Kệ tụng
phổ giai hồi hướng
Dưới đây là
hai mươi lăm bài kệ tụng về nguyện thứ
mười “phổ giai hồi hướng”. Trong nguyện
thứ mười có phần phát đại nguyện, tổng
cộng là mười mục nhỏ: nguyện thọ tŕ,
nguyện tu hành được hai thứ lợi ích, nguyện
thành thục chúng sanh, nguyện chẳng ĺa, nguyện cúng
dường, nguyện lợi ích, nguyện chuyển pháp
luân, nguyện Tịnh Độ, nguyện thừa sự,
nguyện thành Chánh Giác. Mười mục nhỏ này đều
được triển khai từ một đại nguyện
“phổ giai hồi hướng” của Bồ Tát Phổ
Hiền, dùng thể tài kệ tụng khiến cho ư nghĩa
“phổ giai hồi hướng” được viên măn hoàn
bị.
1.10.1. Nguyện thọ
tŕ
Chánh kinh:
Ngă vị Bồ Đề tu
hành thời,
Nhất thiết thú trung thành Túc Mạng,
Thường đắc xuất gia tu tịnh
giới,
Vô cấu, vô phá, vô xuyên lậu,
Thiên, Long, Dạ-xoa, Cưu Bàn Trà,
Năi chí nhân dữ phi nhân đẳng,
Sở hữu nhất thiết chúng sanh
ngữ,
Tất giai chư âm nhi thuyết pháp.
(Lúc tôi v́
Bồ Đề tu hành,
Trong hết
thảy loài đắc Túc Mạng,
Thường
được xuất gia, tu tịnh giới,
Không
nhơ, không phá, không ṛ rỉ,
Trời,
Rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà,
Cho đến
nhân cùng phi nhân thảy,
Tất cả
hết thảy tiếng chúng sanh,
Đều
dùng các âm để thuyết pháp)
“Lúc tôi v́
Bồ Đề tu hành, trong hết thảy loài đắc
Túc Mạng”: Tu hành nhằm
để chính ḿnh thật sự giác ngộ. Người
giác ngộ biết “phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Thân là hư vọng, có sanh,
có diệt; linh tánh là chân, bất sanh bất diệt. Chúng ta
phải nhờ vào giả để tu chân, thân là giả, nhờ
vào cái thân thể hư giả để tu tánh linh của
chính ḿnh, tu cái chân tâm của chính ḿnh, tu bổn tánh của
chính ḿnh. Tu đến mức độ tương
đương sẽ được Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ,
Túc Mạng (biết những việc trong các đời quá
khứ), đối với hết thảy sự lư thế
gian, xuất thế gian đều thấy rơ ràng, minh bạch.
Đạt thần thông chớ nên khoe khoang. V́ muốn chánh
pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, đức Phật
chẳng dùng thần thông để giáo hóa. Yêu ma, quỷ
quái đều có thần thông, nhưng chẳng có chánh tri
chánh kiến. Phật, Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp
giáo hóa chúng sanh, dùng chánh tri kiến giáo hóa chúng sanh.
“Thường
được xuất gia tu tịnh giới”: Ở đây “xuất gia” không phải
là thoát ly gia đ́nh ḿnh mà là tâm thoát khỏi nhà vô minh, ra khỏi
nhà phiền năo, c̣n thân th́ thị hiện hoặc xuất
gia hoặc tại gia. Đối với thế gian này tâm
địa chẳng nhiễm mảy trần, đó là “xuất
gia tu tịnh giới”. Trong năm mươi ba lần
tham học của kinh Hoa Nghiêm, trong năm mươi ba vị
Bồ Tát, thân lẫn tâm cùng xuất gia chỉ có năm
người; ngoài ra đều là tâm xuất gia, thân chẳng
xuất gia, là tại gia cư sĩ, nam, nữ, già, trẻ,
các hạnh, các nghiệp đều hành Bồ Tát đạo.
“Không
nhơ, không phá, không ṛ rỉ”:
Giới luật thanh tịnh, không phá giới. Hai câu này
cũng có nghĩa là hộ pháp, giữ cho thân tâm của
chính ḿnh thanh tịnh chính là hộ tŕ Phật pháp. Thân tâm chẳng
thanh tịnh chẳng thể thành Phật được. Cầu
vô thượng Bồ Đề th́ phải giữ cho thân
tâm thanh tịnh.
“Trời,
Rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, cho đến nhân cùng phi
nhân thảy, tất cả hết thảy tiếng chúng
sanh, đều dùng các âm để thuyết pháp”: Trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, lục trần thuyết pháp, t́nh và vô t́nh cùng tuyên
diệu pháp. Cơi này, t́nh và vô t́nh không ǵ chẳng thuyết
pháp, đều dùng các âm thanh để thuyết pháp. Chúng
ta thấy sắc nghe hương đều có thể khai
ngộ vậy! Tâm thanh tịnh bèn khai ngộ.
Lục trần
xác thực có thuyết pháp, tiếc rằng tâm chúng ta chẳng
thanh tịnh, tiếp xúc suốt ngày từ sáng đến tối
chẳng những không thể khai ngộ, trái lại c̣n
tăng trưởng phiền năo. Người tâm địa
thanh tịnh gặp cảnh giới bèn tăng trưởng
Bồ Đề.
Bài kệ này c̣n có
nghĩa là: Tự ḿnh phát tâm đại từ bi, v́ hết
thảy chúng sanh thuyết pháp, cổ vũ chúng ta bắt
chước Bồ Tát, học được một mảy
một giọt pháp ǵ đều xoay vần lưu thông, nhất
là khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, phước báo rất lớn.
1.10.2. Nguyện tu
hành được hai thứ lợi ích
Chánh kinh:
Cần tu thanh tịnh Ba La Mật,
Hằng bất vong thất Bồ
Đề tâm,
Diệt trừ chướng cấu vô hữu
dư,
Nhất thiết diệu hạnh giai
thành tựu.
Ư chư hoặc nghiệp cập ma cảnh,
Thế gian đạo trung đắc giải
thoát,
Do như liên hoa bất trước thủy,
Diệc như nhật nguyệt bất
trụ không.
(Siêng tu
Ba La Mật thanh tịnh,
Thường
chẳng quên mất tâm Bồ Đề.
Diệt
trừ chướng cấu không c̣n sót,
Hết
thảy diệu hạnh đều thành tựu.
Với
các hoặc nghiệp và cảnh ma,
Được
giải thoát nơi đường thế gian,
Ví như
hoa sen chẳng dính nước,
Cũng như nhật,
nguyệt chẳng dừng không)
“Siêng tu
Ba La Mật thanh tịnh”: Ba
La Mật là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng
Hán là Đáo Bỉ Ngạn, (đến bờ bên kia) rốt
ráo viên măn. Thanh tịnh Ba La Mật tức là Lục Độ
của Bồ Tát vừa viên măn rốt ráo vừa thanh tịnh,
hoàn toàn chẳng chấp trước.
Kinh Bát Nhă
nói “tam luân thể không” tức là dạy chúng ta phải
ĺa hết thảy tướng. Ví như tu bố thí, chớ
nghĩ rằng: hôm nay tôi tu bao nhiêu bố thí, làm được
bấy nhiêu việc tốt! Có Ngă, chấp vào Ngă Tướng
th́ dù có tu bố thí vẫn chẳng thanh tịnh. Ta bố
thí cúng dường cho ai đó, tướng người
cũng quên mất, trong tâm chẳng nhớ ai là đối
tượng nhận bố thí. Tiền tài, vật phẩm
dùng để bố thí cũng chẳng ghi trong ḷng. Có làm
cũng như không làm, từ đầu đến cuối
ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, một niệm chẳng sanh.
Đấy chính là như Lục Tổ đại sư
đă nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào
nhuốm bụi trần!” Đấy mới là chân chánh
đạt đến thanh tịnh. Phổ Hiền Bồ
Tát dạy chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu học
thanh tịnh Ba La Mật.
“Thường
chẳng quên mất tâm Bồ Đề”: Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận,
Mă Minh Bồ Tát giảng Bồ Đề tâm là trực tâm,
thâm tâm, đại bi tâm. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ,
đức Thế Tôn cũng giảng Bồ Đề tâm
là chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm. Tổng
hợp lại, chí thành là trực tâm, hồi hướng
phát nguyện tâm là đại bi tâm. Trực là chánh trực,
chánh: chẳng tà, trực: chẳng cong quẹo. Tâm chúng ta phải
chánh, phải trực. Tâm vốn là chánh trực. Chí thành
nghĩa là chân thành đạt đến mức cùng cực,
đó là Trực Tâm. Trong tâm có cong quẹo, trong tâm chẳng
chân thành th́ chẳng phải là Bồ Đề tâm.
Bồ
Đề là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng
Tàu là Giác. Tâm chúng ta vốn là giác. Giác chẳng cần phải
học mà vốn sẵn có. Mă Minh Bồ Tát nói: “Bổn
Giác vốn sẵn có”. Bổn Giác tức là tâm Bồ
Đề, mỗi một chúng sanh chúng ta đều sẵn
có. Dẫu là có, nhưng hiện tại ta chưa có là v́ chẳng
giác. Mă Minh Bồ Tát lại nói: “Bất giác vốn là
không”. Bất Giác vốn chẳng có. Do đây biết rằng,
Bồ Đề tâm chính là chân tâm của chúng ta, chân tâm vốn
sẵn có; Bất Giác là vọng tâm, vọng tâm vốn là
không. Vốn sẵn có th́ đương nhiên có thể khôi
phục, vốn là không th́ đương nhiên có thể
đoạn trừ.
Ba tâm thật
ra chỉ là một tâm, tức là chân tâm. Trực tâm, chí thành
tâm là bản thể của chân tâm. Chân tâm khởi tác dụng,
tác dụng chia làm hai loại: Đối với chính ḿnh th́
gọi là thâm tâm; đối với người khác th́ gọi
là bi tâm. Thâm tâm thanh tịnh, từ bi, thanh tịnh đến
cùng cực, từ bi đến cùng cực. Tâm như thế
tự nhiên hiếu đức, hiếu thiện. Hiếu
đức và hiếu thiện chẳng cần phải học
mà là công đức của tự tánh. Chân tâm (Bồ Đề
tâm) chính là tự tánh. Tự tánh đối với chính ḿnh
khởi tác dụng, chẳng cần người khác dạy,
tự nhiên hiếu đức, hiếu thiện.
Đức
và thiện đạt đến mức cùng cực chính là
Phật pháp, do đây biết rằng: người ấy tự
nhiên yêu thích Phật pháp, tự nhiên quy hướng, chẳng
cần người khác dạy, cũng chẳng cần ai
khuyến khích, cái tâm ấy gọi là thâm tâm. Đối với
người khác cũng tự nhiên sanh khởi bi tâm: Trông thấy
chúng sanh sung sướng, tự ḿnh thật vui sướng,
trông thấy người khác đau khổ tự ḿnh rất
buồn khổ. Bởi vậy, nhất định phải
giúp đỡ chúng sanh ĺa khổ được vui. Chúng
sanh ĺa khổ là chính ḿnh ĺa khổ, chúng sanh được
vui cũng như chính ḿnh được vui. Chúng sanh và bản
thân ḿnh là một thể, chẳng phải hai thể.
Phật
pháp Đại Thừa lấy Bồ Đề tâm làm cơ
sở. Người Tiểu Thừa chẳng có tâm Bồ
Đề, bởi lẽ họ chẳng đại từ
đại bi, chúng sanh t́m cầu họ, họ chịu dạy,
chúng sanh chẳng t́m cầu họ, họ chẳng quan tâm
đến. Đại Thừa Bồ Tát đại từ
đại bi, không phân biệt, giới hạn, làm bạn
chẳng thỉnh của hết thảy chúng sanh, chỉ cần
thấy chúng sanh đau khổ là Ngài bèn đến.
Nho Giáo
cũng kiến lập trên cơ sở Bồ Đề
tâm. Trung tâm sự dạy dỗ của Nho Giáo là thành ư, chánh
tâm, chẳng ngờ rất phù hợp với lời dạy
của nhà Phật. Thành ư là Thể, chánh tâm là Dụng. Nho
giáo nói mỗi cá nhân nếu chẳng thành thật, trọn
chẳng thể trở thành thánh, thành hiền. Mỗi một
cá nhân đều phải vận dụng cái tâm chân thành, sau
đấy mới tu thân (tu dưỡng thành tựu phẩm
đức, học vấn của chính ḿnh), tề gia (gia
đ́nh mỹ măn), trị quốc (quốc gia, chính trị
đi vào quy củ), b́nh thiên hạ (người trong thiên hạ
đều được công b́nh, chẳng có tranh chấp,
thiên hạ thái b́nh). Đấy chính là cơ sở giáo học,
lư tưởng giáo học của Nho gia.
Làm thế
nào để tâm chân thành (Bồ Đề tâm) hiện tiền?
Phải đoạn hai Chướng: Phiền Năo Chướng
và Sở Tri Chướng chướng ngại thân tâm khiến
chân tâm chẳng thể hiện tiền. Người Tiểu
Thừa phá được Phiền Năo Chướng,
nhưng chưa phá Sở Tri Chướng. Sở Tri Chướng
chướng ngại Bồ Đề tâm, Bồ Đề
tâm chẳng thể hiện tiền. Nho gia nói “cách vật
trí tri”, “cách vật” là như nhà Phật nói “đoạn
phiền năo”, “trí tri” là phá Sở Tri Chướng. Vật
là vật dục (danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần), Cách là phải chống cự lại chúng,
phải chiến thắng ư niệm vật dục. Chiến
thắng được vật dục, chẳng để
vật dục lay động, sẽ chẳng c̣n phiền
năo nữa. Buông xuống là đoạn Phiền Năo Chướng,
thấy thấu suốt là phá Sở Tri Chướng. Sau khi
cách vật lại phải trí tri. Cách vật là đoạn
phiền năo, trí tri là học pháp môn. Đột phá hai Chướng,
thành ư hiện tiền, Bồ Đề tâm mới có thể
chân chánh phát khởi.
Đối
với Bồ Đề tâm, Ngẫu Ích đại sư có
một cách giải thích rất đặc biệt,
đơn giản dễ hiểu. Ngài nói: “Nhất tâm nhất
ư cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
cái tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm”.
Nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, đương
nhiên buông bỏ danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần thế gian, phiền năo không c̣n nữa. Nhất
tâm xưng niệm A Di Đà Phật là phá Sở Tri Chướng,
là phá vô minh, đấy là Trí Tri như Nho Gia đă nói. Những
bà già niệm Phật, không biết chữ, cũng chưa từng
nghe kinh, v́ sao họ văng sanh: đứng mà mất, ngồi
mà mất, trông thấy Phật đến tiếp dẫn vậy?
Các bà cụ đó chẳng biết Bồ Đề tâm là
cái ǵ, cớ sao được văng sanh? Là v́ các bà cụ ấy
nhất tâm nhất ư cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ. Cái tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề
tâm, cho nên thành ư, hiếu đức, hiếu thiện, đại
từ đại bi thảy đều đầy đủ.
Bồ Đề tâm, trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm
nghe đến chẳng hiểu rơ cũng không quan trọng,
chẳng cần phải hiểu, cốt sao nhất tâm nhất
ư cầu sanh Tịnh Độ là được!
Ở
đây, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta pháp môn sau: “Hằng
chẳng quên mất Bồ Đề tâm”. Hằng là
thường hằng, thời thời khắc khắc chẳng
quên “tôi muốn cầu sanh Tịnh Độ”. Thời thời
khắc khắc chẳng quên “tôi muốn thấy A Di Đà Phật”.
Người như vậy là chân chánh giác ngộ. Bồ
Đề tâm là đại giác, chân chánh giác ngộ, triệt
để giác ngộ. Trong tâm chúng ta thời thời khắc
khắc niệm niệm chẳng quên Tịnh Độ, niệm
niệm chẳng quên A Di Đà Phật, đấy đúng
thật là đại Bồ Đề tâm, ở đây gọi
là “hằng chẳng quên mất Bồ Đề tâm”.
Chỉ cần có cái tâm này th́ sẽ có thể tiêu nạn diệt
tội, “diệt trừ chướng cấu không c̣n sót”.
Đó là v́ tâm quư vị thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh chẳng
thể chứa đựng tội nghiệp. Chướng
là nghiệp chướng, Cấu là phiền năo, tập khí,
nhiễm ô. “Vô hữu dư” (không c̣n sót): Diệt trừ
sạch sành sanh hết thảy chướng ngại, phiền
năo, thảy đều đoạn hết. Bởi thế,
một câu Phật hiệu công đức chẳng thể
nghĩ bàn. Một câu Phật hiệu ấy phải từ
cái tâm thanh tịnh niệm ra, phải từ cái tâm chánh giác
niệm ra, phải từ tâm chân thành niệm ra mới diệt
được tội.
“Hết
thảy diệu hạnh đều thành tựu”: Một tức là hết thảy. Một
câu Phật hiệu có đủ tám vạn bốn ngàn pháp
môn Bồ Tát tu, vô lượng hạnh môn. Tu một pháp môn
tức là tu hết thảy pháp môn, hết thảy diệu
hạnh đều thành tựu. Phương pháp tu hành này rất
thù thắng!
“Với
các hoặc nghiệp và cảnh ma”: Hoặc nghiệp chính là cái bản thân chúng ta có
đủ, mê hoặc tạo nghiệp! Bây giờ tâm chúng ta
thanh tịnh, tâm chân thành, chẳng c̣n mê hoặc nữa, chẳng
tạo nghiệp nữa, th́ chẳng có mê hoặc tạo
nghiệp nữa! Ma cảnh là cảnh giới bên ngoài. Ma là
chướng ngại, là rắc rối, khiến chúng ta làm
bất cứ chuyện ǵ cũng chẳng thuận lợi,
đều bị trở ngại, đó là ma cảnh. Phải
có các Hoặc (nội ma) th́ ngoại ma mới có cách xâm nhập,
nhiễu loạn ḿnh được!
Theo kinh Bát
Đại Nhân Giác, có bốn loại Ma:
1) Ngũ Ấm ma:
Ai nấy
đều có cả. Thân chúng ta là thân Ngũ Ấm. Ngũ Ấm:
Sắc (vật chất, nhục thể), Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Tâm. Thức
là tâm, Thọ, Tưởng, Hành là tác dụng của Tâm.
Ngũ Ấm là ma, chúng ta không có cách ǵ thoát được.
Niệm Phật niệm đến Lư Nhất Tâm Bất Loạn,
tham thiền đến mức minh tâm kiến tánh mới có
thể thoát được. Tâm kinh chép: “Quán Tự Tại
Bồ Tát lúc thực hành sâu xa Bát Nhă Ba La Mật, chiếu kiến
(soi thấy) Ngũ Uẩn đều không”; Ngài đă
thoát được Ngũ Ấm. Hiện thời chúng ta
Ngũ Ấm chẳng không; công phu nhà Thiền chia thành ba bậc:
a. Thấp
nhất là Quán Chiếu. Quán chiếu có đắc lực
th́ công phu mới vào khuôn khổ. Nếu quán chiếu chẳng
đắc lực, công tu vô ích.
b. Sâu
hơn một tầng là Chiếu Trụ, tức là đắc
Thiền Định. Thiền Định có mức độ
sâu cạn khác nhau, chia thành chín đẳng cấp. Trong tam
giới, Tứ Thiền Thiên thuộc Sắc Giới có bốn
đẳng cấp, Tứ Định thiên thuộc Vô Sắc
Giới có bốn đẳng cấp, đẳng cấp thứ
chín vượt ngoài Tam Giới. A La Hán, Bích Chi Phật chứng
được Định thứ chín, tuy chứng
được Định thứ chín, nhưng công phu chiếu
trụ chưa đạt đến mức “chiếu kiến”.
c. Lên một
tầng nữa là Chiếu Kiến: Chiếu kiến tức
là thấy Tánh, chân tâm hiển lộ, Bồ Đề tâm tự
nhiên hiện tiền.
Công phu thấp
nhất của người niệm Phật là “công phu thành
phiến”, tương đương với mức Quán Chiếu
đắc lực của nhà Thiền. Cao hơn là Sự Nhất
Tâm Bất Loạn, tương đương với Chiếu
Trụ. Cao hơn nữa là Lư Nhất Tâm Bất Loạn
tương đương với Chiếu Kiến. Thiền
tông tu học rất khó, Tịnh Độ Tông dùng một
câu Phật hiệu, một câu Phật hiệu niệm
đến rốt ráo, công phu thành phiến, Sự Nhất
Tâm Bất Loạn, Lư Nhất Tâm Bất Loạn đều
dùng phương pháp này. Thậm chí tương lai thành Phật
cũng vẫn cứ dùng phương pháp này, một câu Phật
hiệu vĩnh viễn chẳng biến cải.
Trong
chương Viên Thông, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy
chúng ta: “Chẳng nhọc phương tiện, tự
được tâm khai”. Chẳng cần nhờ vào bất
cứ phương pháp nào khác, cứ một câu Phật hiệu
niệm đến cùng cực, niệm đến Lư Nhất
Tâm Bất Loạn, tâm khai kiến giải, đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Đến lúc đó,
liền chiếu kiến Ngũ Uẩn đều không, phá
Ngũ Ấm ma.
2) Phiền năo ma:
Phiền năo là ma. Phiền năo do tham, sân, si mà khởi. Bởi thế,
tham - sân - si gọi là ba độc phiền năo. Tu hành phải
tu từ cội rễ. Đă biết tham - sân - si là cội
rễ của tất cả hết thảy phiền năo th́
chúng ta phải đoạn phiền năo, rễ bị nhổ
bứng th́ cành lá tự nhiên chẳng c̣n. Làm thế nào để
nhổ bứng rễ?
Đoạn
Tham phải dùng bố thí, bố thí độ keo tham. Độ
là độ chính ḿnh, chẳng độ người khác.
Công đức của bố thí là đoạn trừ cái tâm
tham của chính ḿnh. Chẳng có tâm tham, tâm địa thanh
lương tự tại. Bố thí là tự ḿnh được
lợi, người khác được lợi ích rất hữu
hạn. Nhổ trừ tham - sân - si vĩnh viễn thoát luân
hồi. Đoạn Sân phải dùng Nhẫn Nhục, Nhẫn
Nhục độ sân khuể. Ngu si là vô minh, Bát Nhă độ
ngu si.
Bồ Tát
tu lục độ vạn hạnh để độ
chính ḿnh, độ chính ḿnh th́ trước hết phải
đoạn phiền năo ma. Phương pháp Bồ Tát Phổ
Hiền dạy chúng ta ở đây so ra cao hơn
phương pháp tu hành của Đại Thừa Bồ Tát
rất nhiều. Ngài Phổ Hiền dạy chúng ta thanh tịnh
Ba La Mật. Có tham ái, sân khuể, ngu si là tâm chẳng thanh tịnh.
Nếu tâm thanh tịnh, tự nhiên chẳng có tham, sân, si,
phiền năo ma. Niệm A Di Đà Phật, nhất tâm cầu
sanh Tịnh Độ, tâm bèn thanh tịnh th́ mới có thể
phá phiền năo ma.
3) Tử ma:
Cũng là
đối với người tu hành mà nói. Dù quư vị rất
dụng công tu hành, tinh tấn chẳng biếng nhác,
nhưng phiền năo khó đoạn, phá Sở Tri Chướng
cũng khó, công phu vẫn chưa đắc lực, kinh
điển vẫn chưa niệm xong, thọ mạng
đă hết. Chết đi, lại phải luân hồi. Dù
quư vị làm toàn việc tốt, chẳng phạm tội,
đời sau được làm người, do mê nơi
cách ấm nên phải học Phật pháp lại từ
đầu.
Tử ma rất
đáng sợ, chỉ có niệm Phật mới có thể
đối phó tử ma. Nhất tâm xưng niệm, nhất
tâm cầu sanh, tương lai văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, là đi ngay trong lúc sống, chẳng
phải chết rồi mới đi. Lúc đi, mắt
được thấy, tai được nghe, mũi vẫn
thở, miệng c̣n nói năng được, bảo với
mọi người: “A Di Đà Phật đến đón rồi,
tôi theo Ngài đi đây, tạ từ giă biệt mọi
người”. Đi trong lúc sống là vậy đó. Văng sanh
thế giới Cực Lạc chẳng chết, tử ma
tránh xa.
4) Thiên ma:
Ba thứ ma kể trên đều
là ma nơi bản thân, chỉ có thiên ma là ở ngoài. Yêu ma,
quỷ quái bên ngoài đến chướng ngại ta, gây
phiền năo cho ta. Nếu chúng t́m đến ta tức là
trong tâm ta ắt có nội gian lôi kéo chúng nó nên chúng nó mới
có sức. Trong tâm ta chẳng có nội gian, dù thiên ma sức
lớn đến đâu cũng không cách ǵ xâm nhập
được, chúng chẳng làm ǵ được hết.
Nội gian chính là phiền năo của chúng ta! Tôi gặp rất
nhiều người bị ma dựa, yêu ma quỷ quái nhập
thân, đau khổ vô cùng, tinh thần suy sụp, thường
nghe có tiếng người nói, hoặc thấy h́nh tướng
hiện ra, cả ngày lẫn đêm đều chẳng yên ổn.
Ở Cựu
Kim Sơn (San Francisco) có một nam đồng tu đến
bảo tôi ông ta bị ma dựa đă hơn một năm,
thỉnh rất nhiều pháp sư đến đuổi
ma, đều không làm ǵ được. Tôi hỏi:
- Có phải
anh rất thích thần thông hay chăng?
Anh ta nói:
- Thưa
đúng, con thích lắm.
Tôi nói:
- Có ǵ lạ
đâu! Ưa thích thần thông chính là nội gian dẫn ma
đến. Chính anh dẫn ma đến, người khác
không cách ǵ đuổi nổi! Từ giờ trở đi,
phải trừ sạch ư niệm thần thông cảm ứng
đi, đừng nghĩ đến nó nữa, thành tâm thành
ư niệm Phật, ma ắt phải đi. V́ anh chẳng yêu
mến chúng nó nữa, chẳng thích chúng nó nữa, tự
nhiên chúng phải đi.
Phàm ai bị
ma dựa, tâm nhất định chẳng thanh tịnh. Quư
vị tu cái tâm thanh tịnh, ma không cách ǵ bén mảng
được, tự nhiên phải bỏ đi. Tâm thanh tịnh
được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm,
được thiện thần hộ pháp bảo vệ,
ma phải bỏ đi; thiên ma chẳng thể xâm phạm.
“Được
giải thoát nơi đường thế gian”: Trong thế
gian này tu tâm, tu nhân, chứng quả, thuận gió căng buồm,
chẳng có chướng ngại, đạt đến tự
tại.
“Ví
như hoa sen chẳng dính nước, cũng như nhật,
nguyệt chẳng dừng không”: Hai câu này là hai câu nổi tiếng của kinh Hoa
Nghiêm, cổ đại đức khi chú giải kinh điển
thường trích dẫn. Hai câu này là nói tỷ dụ nhằm
dạy chúng ta cách tu tâm thanh tịnh. Ví như hoa sen chẳng
dính nước: hăy xem hoa sen, nghĩ đến hoa sen, tâm
chúng ta cũng phải thanh tịnh giống như hoa sen. Rễ
hoa sen sanh trưởng trong bùn nhơ nơi đáy ao, cọng
ngập trong nước, hoa vươn lên khỏi mặt
nước.
Phật ví
bùn như lục đạo (lục phàm), là nhiễm ô.
Nước ví như bốn pháp giới (tứ thánh: Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật), là thanh tịnh. Hoa nở
trên mặt nước tức là chẳng nhiễm lục
phàm, tứ thánh cũng chẳng nhiễm. Nói cách khác, pháp thế
gian chẳng nhiễm, Phật pháp cũng chẳng nhiễm.
Kinh Kim Cang nói: “Pháp c̣n nên bỏ, huống là phi pháp?” Phật
pháp chúng ta tạm thời dùng, thành tựu rồi Phật
pháp cũng bỏ luôn. Giống như mắc bệnh uống
thuốc, bệnh lành, uống thuốc làm chi nữa?
Dùng hoa sen
để diễn tả pháp, phải vượt khỏi lục
phàm tứ thánh. Lục phàm tứ thánh đều phải
vượt thoát hết, đó là cảnh giới nào vậy?
Bất đắc dĩ phải gọi là Nhất Chân Pháp
Giới. Mười pháp giới là giả, chỉ có Nhất
Chân Pháp Giới là thật. Nhất là nhất tâm. Tịnh
Độ Tông hay ở chỗ trực tiếp tu nhất
tâm bất loạn, dùng một câu Phật hiệu, đấy
là phương pháp, đấy là thủ đoạn, mục
đích nhằm đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn.
Đạt đến Nhất Tâm tức là Nhất Chân Pháp
Giới, là siêu việt lục phàm tứ thánh vậy.
Cũng
như mặt trời, mặt trăng chẳng dừng trên
hư không: Nhật, nguyệt vận hành trên không trung, nó chẳng
ngưng lại! Chẳng ngưng th́ chẳng bị trở
ngại. Đấy là điều đức Phật dạy
chúng ta: Đối với hết thảy pháp thế gian hay
xuất thế gian đều chẳng nên chấp trước.
Trụ là chấp trước, tức là trong tâm quư vị
có cái ǵ đó, quư vị nghĩ đến nó chính là “trước”
(dính mắc).
Trong Thiền
Tông, nếu trong tâm có mảy may chấp trước nào bèn
là sai, bởi thế, Thiền Tông khó tu. Tịnh tông dạy
quư vị chấp trước vào A Di Đà Phật, buông bỏ
những chấp trước khác, dùng chấp trước
này thay thế cho tất cả hết thảy chấp
trước khác. Tâm chẳng chấp trước rất
khó, bởi thế dạy quư vị chấp trước A
Di Đà Phật (Phật hiệu). Niệm đến khi
đại khai viên giải, niệm đến lúc đại
triệt đại ngộ, A Di Đà Phật cũng chẳng
cần đến nữa, bởi lẽ bệnh lành rồi,
cần chi đến thuốc nữa!
Bậc
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo dùng phương pháp Niệm
Phật phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân, bèn đại khai viên giải, đại triệt
đại ngộ, đạt được Lư Nhất Tâm
Bất Loạn. Vô minh có bốn mươi mốt phẩm,
quư vị chỉ mới phá được một phẩm,
bệnh tuy lành nhưng bệnh căn (gốc bệnh)
chưa trừ. Nói cách khác, tuy không cần uống thuốc
nhưng vẫn cần điều dưỡng. Để
điều dưỡng th́ vẫn dùng một câu Phật hiệu!
Câu Phật hiệu ấy lại phá những phần vô minh
kế tiếp, măi cho đến khi thành Phật. Lúc đó,
hoàn toàn dứt sạch gốc bệnh rồi, khôi phục
sức khỏe rồi, đương nhiên chẳng cần
đến Phật hiệu nữa; nhưng vẫn chẳng
vứt bỏ Phật hiệu, vẫn tiếp tục niệm
Phật, đó là đại từ đại bi niệm cho
chúng sanh thấy.
Phật nào cũng niệm
A Di Đà Phật, nên chúng ta phải niệm A Di Đà Phật.
Phật niệm A Di Đà Phật để hóa độ
chúng sanh, làm gương cho chúng sanh thấy. Trong Di Đà Yếu
Giải, đại sư Ngẫu Ích viết: “Thích Ca Mâu
Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật”.
Đối với hết thảy pháp, người học
Phật chẳng nên chấp trước; nhưng chúng ta
nghiệp chướng tập khí rất nặng, chẳng
chấp trước mọi thứ th́ chúng ta chưa làm
được. Bởi thế, phương pháp của Tịnh
tông hay ở chỗ dạy quư vị chấp tŕ danh hiệu,
quư vị chấp trước vào một câu Phật hiệu,
dốc tâm vào một chỗ, ngoại trừ danh hiệu
ra, hết thảy thứ ǵ khác đều chẳng chấp
trước.
1.10.3. Nguyện thành
thục chúng sanh
Chánh kinh:
Tất trừ nhất thiết
ác đạo khổ,
Đẳng dữ nhất thiết
quần sanh lạc,
Như thị kinh ư sát trần kiếp,
Thập phương lợi ích hằng
vô tận,
Ngă thường tùy thuận chư chúng
sanh,
Tận ư vị lai nhất thiết
kiếp,
Hằng tu Phổ Hiền quảng đại
hạnh,
Viên măn vô thượng đại Bồ
Đề.
(Thảy
trừ hết thảy khổ ác đạo,
B́nh đẳng
ban vui hết thảy loài,
Trải qua sát trần kiếp như thế,
Luôn lợi ích mười phương vô tận,
Tôi thường tùy thuận các chúng sanh,
Đến tận hết thảy kiếp vị
lai,
Luôn tu hạnh Phổ Hiền rộng lớn,
Viên măn
đại Bồ Đề vô thượng)
Sau khi chính ḿnh đă thành tựu, nhất định
phải tận tâm tận lực giúp đỡ người
khác, lợi ích hết thảy chúng sanh. Giúp đỡ
người khác chính là công đức chân chánh, là phước
báo chân chánh. Đem tiền của giúp đỡ người
khác, của cải chúng ta cuồn cuộn kéo đến,
vĩnh viễn dùng chẳng hết. Bố thí pháp được
thông minh trí huệ, bố thí Vô Úy được mạnh khỏe
trường thọ. Tu nhân nhất định phải
được quả báo. Thiện có thiện báo, ác có ác
báo. Thế gian chỉ là một cuộc nhân quả tuần
hoàn lớn lao mà thôi.
Tu phước đức
chẳng bằng tu công đức, trong công đức tự
nhiên có phước đức, trong phước đức
chưa chắc có công đức. Chỉ tu quả báo
phước đức, đa số thường rất
ngu si, có phước nhưng chẳng có trí huệ chân chánh.
Hưởng hết phước rồi, v́ kẻ đó
không có trí huệ chân chánh, làm việc ǵ cũng bị thiếu
sót, cũng lầm lỗi, chẳng khỏi bị luân hồi,
chẳng khỏi đọa tam đồ, đó là chuyện
rất đáng sợ. Những nơi lạc hậu trong thế
gian này, đời sống vật chất khổ sở phi
thường, như nhiều nơi ở Phi Châu không có
cơm ăn, không có áo mặc, thật đáng cho người
ta thương xót bi cảm. Chúng ta có nhiều tiền
dư hăy lấy ra chút ít giúp đỡ họ. Trong hết
thảy công đức, công đức dạy dỗ rất
lớn. Chẳng hạn như Thích Ca Mâu Ni Phật và Khổng
Tử, không ai chẳng tôn kính.
1.10.4. Nguyện chẳng
ĺa
Chánh kinh:
Sở hữu dữ ngă đồng
hạnh giả,
Ư nhất thiết xứ
đồng tập hội,
Thân, khẩu, ư nghiệp giai
đồng đẳng,
Nhất thiết hạnh nguyện
đồng tu học.
Sở hữu ích ngă thiện tri
thức,
Vị ngă hiển thị Phổ
Hiền hạnh,
Thường nguyện dữ
ngă đồng tập hội,
Ư ngă thường sanh hoan hỷ
tâm.
(Tất cả ai đồng hạnh với
tôi,
Trong hết thảy nơi cùng nhóm họp,
Nghiệp thân, miệng, ư đều giống
nhau,
Cùng chung tu học mọi hạnh nguyện.
Mọi thiện tri thức lợi ích tôi,
V́ tôi chỉ bày hạnh Phổ Hiền,
Thường nguyện cùng tôi chung nhóm họp,
Thường sanh tâm hoan hỷ với tôi)
Chẳng ĺa
chư Phật, chẳng ĺa thiện tri thức. Thiện
tri thức là những người cùng tu hành với ḿnh.
Đại chúng cùng tu một nơi, nhất định phải
nhờ vào Lục Ḥa Kính. Lục Ḥa Kính:
1) Kiến ḥa đồng giải:
Kiến giải
tương đồng. Cùng ưa thích một bộ kinh,
cùng thích một bản chú giải, cùng thích một
phương pháp tu hành như nhau; chí đồng đạo
hợp. Đó là cơ sở để cùng chung tu hành.
2) Giới ḥa đồng tu:
Tuân thủ
phép tắc, cùng nhau tuân thủ những quy định, quy củ
đă đặt ra.
3) Thân ḥa đồng trụ:
Cùng sống
chung một đạo tràng, cùng nghỉ ngủ một
nơi, sửa đổi những tập quán xấu; cùng
nhau nghiên cứu thảo luận những vấn đề
đă học.
4) Khẩu ḥa vô tránh:
Mọi
người cùng tu dưỡng tinh thần nhường nhịn,
chẳng cần phải tranh chấp. Có ư kiến bất
đồng bèn từ từ giải quyết.
5) Ư ḥa đồng duyệt:
Những
người ở chung một chỗ, mỗi một cá nhân
pháp hỷ sung măn, nhân v́ học vấn, đức hạnh
ngày càng tiến bộ, tập khí phiền năo ngày một giảm
thiểu.
6) Lợi ḥa đồng quân:
B́nh đẳng
thọ hưởng cuộc sống vật chất, của
cải, lợi ích đều chia đều.
Gia đ́nh tu Lục Ḥa
Kính nhất định hưng vượng. Công ty, cửa
tiệm, tiệm buôn, những nhà chế tạo nổi tiếng
nếu đối xử với nhân viên bằng Lục Ḥa
Kính th́ sự nghiệp nhất định phát triển, khuếch
trương.
1.10.5. Nguyện
cúng dường
Chánh kinh:
Nguyện thường diện
kiến chư Như Lai,
Cập chư Phật tử
chúng vi nhiễu,
Ư bỉ giai hưng quảng
đại cúng,
Tận vị lai kiếp vô b́ yểm,
Nguyện tŕ chư Phật vi diệu
pháp,
Quang hiển nhất thiết Bồ Tát hạnh,
Cứu cánh thanh tịnh Phổ Hiền
đạo,
Tận vị lai kiếp thường tu
tập.
(Nguyện
thường gặp gỡ các Như Lai,
Cùng chúng
Phật tử vây quanh Phật,
Thảy
đều khởi cúng dường rộng lớn[62],
Hết
kiếp vị lai chẳng chán mệt.
Nguyện
tŕ diệu pháp của chư Phật,
Rạng
rỡ hết thảy hạnh Bồ Tát,
Rốt
ráo thanh tịnh đạo Phổ Hiền,
Hết vị lai kiếp
thường tu tập)
“Nguyện
thường gặp gỡ các Như Lai, cùng chúng Phật tử
vây quanh Phật”: Phật tử
là Bồ Tát. Chư Phật, Bồ Tát thời thời khắc
khắc hiện diện trước chúng ta, vây quanh chúng ta.
Quư vị phải biết như thế! Biết rồi, phải
gieo phước.
“Thảy
đều khởi cúng dường rộng lớn”: Câu này là trọng tâm của bài kệ. Rộng
tu cúng dường là gieo phước. Trong các cách cúng dường,
tối khẩn yếu là Pháp Cúng Dường. Hết thảy
các sự cúng dường bằng tài vật chẳng bằng
được Pháp Cúng Dường. Trong các Pháp Cúng Dường,
trọng yếu nhất là cúng dường bằng cách tu
hành. Thấy người lành, bắt chước họ học
pháp lành, thấy kẻ ác bèn tự cảnh tỉnh, đó gọi
là cúng dường, là chân chánh cúng dường. Trong cảnh
giới tu tâm thanh tịnh, trong cảnh giới đoạn
ác tu thiện.
Thật ra, toàn bộ pháp tu hành nói
gọn lại chỉ có tám chữ: thành kính, thanh tịnh,
b́nh đẳng, từ bi. Đối với người
lành, chân thành cung kính, đối với người ác
cũng chân thành cung kính. Nếu cung kính người thiện,
chán ghét người ác th́ quư vị chẳng cúng dường,
chẳng tu hành!
“Hết
kiếp vị lai chẳng chán mệt”: Tâm lớn lao, không chán mệt. Tâm không
giới hạn là lớn. Giới hạn là phân biệt; chẳng
phân biệt tâm bèn lớn. Tận hư không giới, khắp
pháp giới đều là nhất tâm. Phân biệt, chấp
trước, vọng tưởng khiến cái tâm rộng lớn
của chúng ta biến thành nhỏ hẹp. Hai người ở
cùng một chỗ chẳng chịu đựng nổi nhau
là v́ tự vạch một giới hạn giữa họ. Bỏ
cái giới hạn đó đi th́ tận hư không trọn
pháp giới vốn chỉ là chính ta đó thôi. Kinh dạy: “Nên
quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ là tâm tạo”.
Tận hư không trọn pháp giới, y báo, chánh báo trang
nghiêm, chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến. Tâm
tánh chính là bản lai diện mục của chính ḿnh, là bản
thể tự ta sẵn có, bởi thế tột cùng kiếp
vị lai chẳng hề chán mệt.
“Nguyện
tŕ diệu pháp của chư Phật”: T́nh và vô t́nh đều là chư Phật.
Mỗi một đức Phật đều thị hiện
vi diệu pháp. Đèn cầy tỏa sáng, dần dần cháy
hết từng chút một, đó là vi diệu pháp của
nó. Bàn, ghế sắp xếp ở đây hết sức tề
chỉnh để quư vị thư thả ngồi nghe kinh,
đó là vi diệu pháp của nó. Hết thảy chúng sanh ngồi
ở đây, tỏ vẻ mừng giận, buồn vui sai
khác, đấy là vi diệu pháp của họ. Làm thế
nào dùng pháp môn vi diệu của chư Phật để mở
bày vô lượng trí huệ của chúng ta, biến thành Thiền
Định rất sâu của chúng ta, đấy là “nguyện
tŕ”. Trong lúc lục căn tiếp xúc với cảnh giới
lục trần, thành tựu vô lượng trí huệ, thành
tựu Thiền Định rất sâu.
“Quang hiển
nhất thiết Bồ Tát hạnh (rạng rỡ hết
thảy hạnh Bồ Tát):
Quang là trí quang Bát Nhă. Hiển là sáng rỡ thấu lộ ra
ngoài, chẳng ẩn giấu. Nói cách khác là khởi tác dụng.
Bồ Tát hạnh: Thân, ngữ, ư, hành vi ba nghiệp đều
là giác chẳng mê.
“Rốt
ráo thanh tịnh đạo Phổ Hiền”: Đạo Phổ Hiền rốt ráo là
công đức thù thắng. Phổ Hiền có các địa
vị: Vị Tiền Phổ Hiền, Đương Vị
Phổ Hiền, và Đạo Hậu Phổ Hiền. Ở
đây là Đương Vị Phổ Hiền, tức
Đẳng Giác Bồ Tát. Nhà Phật tu học chỉ là tu
cái tâm thanh tịnh đó thôi. Tâm thanh tịnh là nhất tâm bất
loạn, tâm thanh tịnh là Thiền. Tâm thanh tịnh, thân bèn
thanh tịnh, thân thanh tịnh th́ cảnh giới bên ngoài
không ǵ chẳng thanh tịnh, đó là tịnh độ.
Kinh dạy: “Tâm tịnh th́ cơi nước tịnh” và “cảnh
theo tâm chuyển” chẳng sai! Muốn tâm được
thanh tịnh th́ ngoài chí thành ra c̣n phải b́nh đẳng; chẳng
b́nh đẳng nhất định chẳng thể thanh tịnh
được. Chẳng phân biệt, chấp trước
là b́nh đẳng. Muốn tu tâm b́nh đẳng th́ phải
tu tâm từ bi; tâm từ bi dùng để khảo nghiệm
sự thanh tịnh b́nh đẳng của quư vị. Quư vị
có từ bi th́ mới có thể tiếp xúc hết thảy mọi
người, sự vật. Trong hết thảy người,
hết thảy sự, hết thảy vật, tu tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, dùng mọi sự để luyện
tâm; nếu thật sự thanh tịnh, công phu thành tựu
th́ gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Lại bỏ sạch
một niệm sanh tướng vô minh đi th́ gọi là “rốt
ráo thanh tịnh”. Đấy là mục tiêu tu hành cùng cực
của chúng ta, đó cũng là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
“Hết
vị lai kiếp thường tu tập”: Câu này nói sau cùng, ư nghĩa rất rộng
sâu. Đă đạt đến rốt ráo, rốt ráo là viên
măn. Đă viên măn rồi sao lại phải thường tu tập?
Viên măn rồi lại phải phát tâm thường tu tập;
đó gọi là đại từ đại bi, làm
gương cho người khác, giúp người chưa viên
măn; đó gọi là đạo hậu Phổ Hiền.
Đă thành Phật, trở
lại địa vị Bồ Tát th́ gọi là “thả chiếc
bè từ”, có thể người ngồi kế bên bạn
là Bồ Tát. Bồ Tát không có tướng nhất định,
tùy loại hóa thân. Quư vị dùng tâm thanh tịnh nh́n hết
thảy chúng sanh th́ mỗi một chúng sanh đều
như Phật, Bồ Tát. Bởi vậy, Phật, Bồ
Tát ở quanh chúng ta, Phật, Bồ Tát vốn chẳng ĺa
chúng ta, nhưng chính chúng ta chẳng nhận biết. Chư
Phật, Bồ Tát thị hiện, tu học Giác - Chánh - Tịnh.
1.10.6. Nguyện lợi
ích:
Chánh kinh:
Ngă ư nhất thiết
chư hữu trung,
Sở tu phước trí hằng
vô tận,
Định, huệ, phương
tiện cập giải thoát,
Hoạch chư vô tận công
đức tạng,
Nhất trần trung hữu trần
số sát,
Nhất nhất sát hữu nan
tư Phật,
Nhất nhất Phật xử
chúng hội trung,
Ngă kiến hằng diễn Bồ
Đề hạnh.
(Tôi ở
trong hết thảy các cơi[63],
Tu tập
phước trí hằng vô tận,
Định,
huệ, phương tiện và giải thoát,
Được
vô tận các kho công đức,
Trong mỗi
trần có trần số cơi,
Mỗi một
cơi có nan tư Phật,
Mỗi một
đức Phật ngự chúng hội,
Tôi thấy thường
diễn hạnh Bồ Đề)
Năm
đoạn đầu thiên trọng tự học, thành tựu
chính ḿnh. Trong nguyện này, ḿnh đă thành tựu rồi th́
phải giúp đỡ người khác giống như
chư Phật, Bồ Tát. Tự ḿnh đă tu thành, không c̣n việc
ǵ nữa th́ phải giúp đỡ người khác sao cho họ
cũng không c̣n có việc ǵ nữa. Phật, Bồ Tát một
ngày từ sáng đến tối bận suốt, nhưng
cũng chẳng vui lắm ư! Vô sự mà bận, bận
nhưng vô sự, tự tại thay! Khoái lạc khôn sánh!
Chúng sanh bận bịu v́ hữu sự, v́ hữu sự nên
bận, bởi thế bù đầu héo mặt, chẳng
được tự tại, khổ chẳng thể nói!
“Tôi ở
trong hết thảy các cơi”:
Chữ “nhất thiết hữu” (hết thảy cơi)
chỉ tam giới lục đạo. Có nghiệp nhân
đương nhiên có quả báo. Các Hữu là cảnh giới
phàm phu, chẳng phải là cảnh giới của thánh nhân.
Câu này ư nói: Thả bè từ trong tam giới lục đạo
để độ chúng sanh. Độ là phục vụ,
giúp đỡ. Giúp đỡ hết thảy chúng sanh, v́ hết
thảy chúng sanh phục vụ, th́ gọi là “độ
chúng sanh”.
“Tu tập
phước trí hằng vô tận”: Câu này nói đến sự tu học trong quá khứ,
luôn tu vô tận phước trí. Vô tận công đức do
trí huệ sanh ra. Định là phước, do Định
mà có phước. Tâm chẳng định, chẳng có
phước. Người niệm Phật tu nhất tâm bất
loạn, nhất tâm bất loạn chính là phước báo lớn
nhất; làm chủ được nhân sanh vũ trụ,
đó là đại phước, vô lượng phước.
Trên thực tế, lợi ích chúng sanh cũng chính là lợi
ích chính ḿnh, đúng là “người dạy cùng kẻ học
cùng phát triển”. Quư vị nhất định phải
phát tâm hoằng pháp lợi sanh, việc đó có vô tận
công đức đối với sự tu học phước
huệ của chính quư vị.
Câu “định,
huệ, phương tiện và giải thoát”: nói đến
sự phát khởi tác dụng của phước huệ.
Quyền Trí là ứng dụng trí huệ vào sanh hoạt
thường nhật, vào sự đăi người, tiếp
vật, đó gọi là “phương tiện giải thoát”.
Giải thoát là tự tại.
“Được
vô tận các kho công đức”: Ba câu trước nói về tu nhân, câu này luận về
quả báo. Người đó tu học đúng là có thâu hoạch,
cái thâu hoạch được là vô tận công đức.
Tạng là tỷ dụ, giống như kho báu. Nói một
cách cụ thể, “công đức tạng” là trí huệ
vô tận, đức năng vô tận, tài nghệ vô tận,
phú quư vô tận. Thứ nào cũng đều chân thật,
đều là đạt được ngay trong một
đời. Y báo, chánh báo trang nghiêm nơi thế giới Cực
Lạc cũng hiển hiện trong vô tận công đức
tạng, tuyệt đối chẳng phải giả.
“Trong mỗi
trần có trần số cơi”:
Một Phật sát là một đại thiên thế giới.
Trong một hạt vi trần có vi trần số đại
thiên thế giới. Kinh Hoa Nghiêm dạy: Đó là cảnh giới
một và nhiều chẳng trở ngại lẫn nhau,
cũng là cảnh giới sự sự vô ngại. Trong lớn
hiện nhỏ, chúng ta hiểu được; nhưng
trong nhỏ hiện lớn, chúng ta không cách ǵ hiểu
được. Muốn dùng tỷ dụ để diễn
tả t́m chẳng ra tỷ dụ, nhưng đó là sự
thật.
“Mỗi
một cơi có nan tư Phật”:
“Nan tư” (không thể nghĩ tưởng) là chẳng
thể nghĩ bàn. Trong mỗi một cơi có vô lượng
vô biên Phật.
“Mỗi
một đức Phật ngự chúng hội”: Mỗi một đức Phật trong
lúc thuyết pháp giáo hóa độ sanh có vô lượng vô
biên hải hội Bồ Tát vây quanh. Trong mỗi một hạt
vi trần đúng là mầu nhiệm chẳng thể
nghĩ bàn.
“Tôi thấy thường
diễn hạnh Bồ Đề”: Ngài trông thấy, Ngài nhập cảnh giới đó,
“diễn” là biểu diễn. Ngài cũng vào trong các
chúng hội ấy, cũng thị hiện tu Phổ Hiền
hạnh, giúp Phật giáo hóa. Đó là quyền trí
phương tiện giải thoát hạnh, cảnh giới ấy
tối thiểu phải là bậc Bồ Tát Sơ Trụ
trong Viên Giáo mới có thể làm nổi. Từ bậc
Sơ Trụ trở lên trong Viên Giáo chính là người niệm
Phật đạt đến Lư Nhất Tâm Bất Loạn,
nói nghiêm túc th́ phải là Bát Địa Bồ Tát mới có
thể thật sự chứng nhập cảnh giới này.
Phật tuyệt đối chẳng nói dối, chúng ta dù là
sơ học, đọc đến câu này vẫn phải bắt
chước. Chỉ cần thấy nơi nào có đại
chúng tụ tập, chẳng cần biết quư vị hiểu
được bao nhiêu, cũng phải giảng cho mọi
người đôi chút để cùng tu học pháp Giác -
Chánh - Tịnh, thuyết minh công đức lợi ích của
lễ kính, tán thán cho đến hồi hướng, tự
lợi, lợi người. Hiện thời chúng ta có thể
tu học cái nguyện lợi ích này như thế đó.
1.10.7 Nguyện chuyển
pháp luân
Chánh kinh:
Phổ tận thập
phương chư sát hải,
Nhất nhất mao đoan tam thế
hải,
Phật hải cập dữ quốc
độ hải,
Ngă biến tu hành kinh kiếp hải,
Nhất thiết Như Lai ngữ
thanh tịnh,
Nhất ngôn cụ chúng âm thanh hải,
Tùy chư chúng sanh ư nhạo âm,
Nhất nhất lưu Phật biện
tài hải,
Tam thế nhất thiết chư Như
Lai,
Ư bỉ vô tận ngữ ngôn hải,
Hằng chuyển lư thú diệu pháp luân,
Ngă thâm trí lực phổ năng nhập.
(Khắp
tận mười phương biển các cơi,
Mỗi
đầu lông có biển ba đời,
Biển
Phật và biển các cơi nước,
Tôi tu hành
khắp suốt biển kiếp,
Hết
thảy Như Lai ngữ thanh tịnh,
Một lời
trọn đủ biển âm thanh,
Thuận
theo tiếng chúng sanh ưa thích,
Mỗi
âm sanh biển Phật biện tài,
Ba đời
hết thảy các Như Lai,
Trong biển
ngôn ngữ vô tận kia,
Hằng
chuyển lư thú diệu pháp luân,
Sức trí sâu tôi
đều nhập được)
Chuyển
pháp luân là giáo học. Bài kệ thứ nhất nói về những
nơi chuyển pháp luân. Những nơi để chuyển
pháp luân có thể nói là vượt ngoài tận hư không trọn
pháp giới.
“Khắp
tận mười phương biển các cơi”: trước hết nói đến đại
thế giới.
“Mỗi
đầu lông có biển ba đời”: cũng có nghĩa giống như trong một
vi trần bao gồm tam thiên đại thiên thế giới
ở phần trên.
“Biển
Phật và biển các cơi nước”: Phật hải tiêu biểu cho hữu
t́nh (hữu t́nh thế gian), quốc độ hải
tượng trưng cho vô t́nh (khí thế gian). Chín pháp giới
là hữu t́nh thế gian, các vị Phật của Tạng
Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo cũng là hữu t́nh thế gian,
chỉ có Phật thuộc Viên Giáo mới không là hữu t́nh
thế gian.
“Ngă biến
tu hành kinh kiếp hải” (tôi tu hành khắp suốt biển
kiếp): “Ngă biến”
là “biến nhất thiết xứ” (trọn khắp hết
thảy nơi), “Kinh kiếp”: thời gian dài lâu, suốt
hết thảy thời; hết thảy xứ, hết thảy
thời đều tu hành. Mê tà nhiễm là bệnh, là lầm
lạc. Tu hành là sửa đổi những những hành vi
sai trái. Giác - Chánh - Tịnh là tiêu chuẩn để chúng ta
tu hành.
Trong bài kệ
thứ hai, Phật pháp thù thắng v́ nó viên dung, đúng là chẳng
thể nghĩ bàn, v́ mỗi cá nhân mà thiết lập cách
giáo hóa, trọn chẳng dùng một phương pháp để
giáo hóa hết thảy chúng sanh. Nếu dùng một
phương pháp [mà có thể giáo hóa hết thảy chúng
sanh], cần ǵ phải giảng tám vạn bốn ngàn pháp
môn, vô luợng pháp môn? Có thể nói: Chỉ có một nguyên tắc
bất biến, tức là Giác - Chánh - Tịnh. Chỉ cần
đạt được Giác - Chánh - Tịnh th́ giáo học
bèn viên măn, hiệu quả bèn hiện tiền. Phương
pháp chẳng phù hợp căn tánh th́ công phu luống uổng,
chẳng thể thành tựu. Phật có đủ vô lượng
trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng
biện tài, ứng bệnh cho thuốc, Phật tiếp xúc
người thuộc căn tánh nào bèn giảng cho người
ấy pháp đúng như thế ấy.
Trong bài kệ
thứ ba, “Ba đời hết thảy các Như Lai”:
Tam thế chư Như Lai là quá khứ Phật, hiện tại
Phật, vị lai Phật. Chúng ta thấy tất cả hết
thảy chúng sanh đang hiện hữu đều là vị
lai Phật. Vị lai Phật là hiện tại Phật, là
quá khứ Phật, ba đời như một, ba đời
chẳng hai. Nếu chia ba đời thành ba phần, quư vị
chẳng thể nhất tâm, chẳng thể nhập cảnh
giới đó. Hiểu rơ một chính là ba, ba chính là một,
tâm quư vị bèn thanh tịnh v́ tâm quư vị chẳng có phân
biệt. Có quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng chẳng
có phân biệt, mầu nhiệm ở chỗ đó. Ba đời
hết thảy các Như Lai hiện diện trước
chúng ta.
“Trong biển
ngôn ngữ vô tận kia”: Mỗi
một ngày từ sáng đến tối, quư vị nghe vô tận
ngôn ngữ, nếu nghe hiểu được, quư vị sẽ
giống như Phổ Hiền Bồ Tát.
“Hằng
chuyển lư thú diệu pháp luân”: Họ đều thuyết pháp cho quư vị nghe
đấy. Thuyết những pháp nào? Dạy cho tâm địa
quư vị thanh tịnh. Tất cả hết thảy chúng
sanh thảy đều nói kinh Hoa Nghiêm. Một ngày từ
sáng đến tối, toàn là nghe kinh Hoa Nghiêm, toàn là dạy
chúng ta lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, rộng
tu cúng dường cho đến hồi hướng khắp
tất cả, thành kính, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ
bi, nhưng quư vị nghe chẳng hiểu ǵ cả! Bất
cứ ai đang căi cọ, ta cũng đều nghe như kẻ
đó đang giảng kinh Hoa Nghiêm. Nếu được
như vậy, quư vị thật sự lănh hội
được lư thú diệu pháp luân nơi đó.
“Sức trí sâu tôi
đều nhập được”: Phải có trí huệ sâu mới có thể
nhập được cảnh giới ấy.
1.10.8. Nguyện Tịnh
Độ
Chánh kinh:
Ngă năng thâm nhập ư vị
lai,
Tận nhất thiết kiếp
vi nhất niệm,
Tam thế sở hữu nhất
thiết kiếp,
Vi nhất niệm tế ngă
giai nhập.
Ngă ư nhất niệm kiến
tam thế,
Sở hữu nhất thiết
Nhân Sư Tử,
Diệc thường nhập
Phật cảnh giới trung,
Như huyễn giải thoát cập
oai lực.
(Tôi có thể thâm nhập vị lai,
Tột hết thảy kiếp làm một
niệm,
Tất cả hết thảy kiếp ba
đời,
Làm thành một niệm, tôi đều nhập.
Trong một niệm tôi thấy ba đời,
Tất cả hết thảy Nhân Sư Tử,
Cũng thường nhập trong cảnh
giới Phật,
Như huyễn giải
thoát và oai lực)
Hai bài kệ
này xem ra chẳng ngoài ư nguyện Tịnh Độ, phải
quan sát kỹ mới hiểu được thế nào là Tịnh
Độ; điều này liên quan mật thiết đến
việc niệm Phật cầu văng sanh Tây Phương của
chúng ta; kinh văn quả thật gồm chứa những ư
nghĩa thanh tịnh. Bài kệ thứ nhất nói về
pháp giới tánh. Kinh Đại Thừa dạy: “Nên quán
tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo”.
Tánh tức là bản thể; pháp giới tánh tức là bản
thể của pháp giới. Phạm vi bao quát của pháp giới
vô cùng rộng lớn; hết thảy pháp bao hàm trong không
gian và thời gian đều gọi là pháp giới. Bài kệ
thứ nhất giống như phần trên: Cảnh giới
được niệm là cảnh giới lư sự vô ngại,
sự sự vô ngại.
“Tôi có thể
thâm nhập vị lai”: Vị
lai c̣n chưa đến, do một câu này, cho thấy
đương nhiên Bồ Tát cũng có thể thâm nhập
quá khứ. Nói cách khác, quá khứ, hiện tại, vị lai
vốn là một, chẳng phải là ba. Mê th́ tựa hồ
có ba giai đoạn, ngộ th́ chỉ một, nhất chân
mà! Kinh Kim Cang nói: “Ba tâm bất khả đắc”. Quá
khứ tâm, hiện tại tâm, vị lai tâm, ba tâm ấy bất
khả đắc, t́m lấy ba đời cũng chẳng
thể được. Về tướng th́ có, nhưng về
Lư th́ không. Mê th́ có, ngộ rồi chẳng c̣n có nữa. Tiếp
đó, Ngài nói thâm nhập bằng cách nào?
“Tột
hết thảy kiếp làm một niệm”: Vừa mới mở đầu kinh
đă giảng về Nhất Chân pháp giới, toàn là nói về
một: nhất chân, nhất âm, nhất niệm. Nhưng
pháp môn Niệm Phật đây dạy trực tiếp phải
tu một thứ, tức là tu nhất tâm bất loạn
đấy! Toàn thể pháp giới gọi là Nhất Chân, Nhất
Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là Sở Nhập
(đối tượng để được chứng
nhập), Nhất Tâm Bất Loạn là Năng Nhập (chủ
thể thực hiện sự chứng nhập đó). Nhất
Tâm Bất Loạn là Phổ Hiền hạnh nguyện.
Phương pháp thuận tiện nhất để tu học
Phổ Hiền hạnh nguyện là niệm A Di Đà Phật.
Nếu thật sự niệm cho tốt một câu A Di
Đà Phật, th́ trong một câu A Di Đà Phật đă bao
gồm trọn vẹn mười đại nguyện
vương, không sót một điều nào của hạnh
nguyện Phổ Hiền. Bởi lẽ, mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc, Nhất
Tâm Bất Loạn cũng là văng sanh Cực Lạc, chẳng
khác ǵ nhau.
Muốn
nghĩ đến vị lai, hoặc muốn trở về
quá khứ, phải dùng phương pháp nào đây? Chỉ một
niệm là được. Hễ “một” th́ chẳng có giới
hạn, chứ hai niệm bèn có giới hạn. Hễ có giới
hạn th́ không cách ǵ đạt được quá khứ,
vị lai cả. Tiêu trừ giới hạn th́ quá khứ, vị
lai, hiện tại đều hiện tiền. Nói “thâm nhập”
vốn là dư thừa, bởi lẽ chúng đă hiện tiền
rồi.
Đại
Kinh nói: “Mười pháp giới một hiện chín ẩn”.
Chúng ta hiện đang sống trong nhân pháp giới (pháp giới
loài người), nhân pháp giới hiện tiền chúng ta
trông thấy rất rơ ràng, c̣n chín pháp giới kia chẳng thấy.
Chín pháp giới vẫn tồn tại, v́ sao lại ẩn?
Là v́ quư vị có giới hạn! Tiêu trừ được
giới hạn th́ mười pháp giới thảy đều
hiện tiền, ấy là Nhất Chân pháp giới.
Làm thế
nào mới chứng được Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác? Nhất niệm bèn chứng đắc,
nhị niệm là trật rồi. Những ai tam tâm nhị
ư chính là phàm phu. Tiểu Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền
Giáo Bồ Tát đều dùng tam tâm nhị ư. Tam tâm là tâm ư thức,
tâm là A Lại Da thức, Ư là Mạt Na thức, Thức là
thức thứ sáu. Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo
phàm phu thảy đều dùng cái tâm ấy, tâm đó gọi
là vọng tâm. Nhất niệm là chân tâm.
Ai sử dụng
nhất niệm? Chính là Thật Giáo Bồ Tát, cũng
như hàng Pháp Thân đại sĩ được nói trong
kinh này: trong Viên giáo th́ từ Sơ Trụ trở lên, trong
Biệt Giáo th́ từ Sơ Địa trở lên đều
dùng Nhất Tâm này. Dùng được chân tâm th́ là chân tu
hành. Tột cùng hết thảy kiếp làm thành một niệm,
hiểu theo mặt văn tự nghĩa là kiếp và niệm
viên dung. Một kiếp thời gian dài lâu, một niệm
thời gian ngắn ngủi. Thời gian dài và thời gian
ngắn là một chứ không phải là hai, bởi thế
Ngài mới có thể nhập được quá khứ,
đến được vị lai. Trên mặt thời
gian chẳng có chướng ngại, sự sự vô ngại.
“Tất
cả hết thảy kiếp ba đời, làm thành một
niệm, tôi đều nhập”: hết thảy kiếp quá khứ, hết thảy
kiếp hiện tại, hết thảy kiếp vị lai.
Kinh Thiên Phật Danh nói đến ba ngàn vị Phật, quá
khứ một ngàn vị Phật, hiện tại một
ngàn vị Phật, vị lai một ngàn vị Phật. Phật
thuyết pháp như vậy đều là tùy thuận chúng
sanh mà phương tiện nói, bởi lẽ trong cảnh giới
của chúng sanh đúng thật là như thế. Phật
thuyết pháp chia thành hai loại lớn, Phật dùng Nhị
Đế để thuyết pháp: Chân Đế và Tục
Đế. Tục Đế là tùy thuận sự thấy
biết của chúng sanh mà nói, Chân Đế là thuận theo
cảnh giới chính Ngài đă chứng để nói. Chân, Tục
chẳng hai. Ở đây hoàn toàn giảng pháp môn Bất Nhị,
cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn,
chúng ta chẳng dễ ǵ lănh hội nổi.
Một và
nhiều tương tức (một tức là nhiều, nhiều
tức là một), niệm và kiếp viên dung, sự lư vô ngại,
sự sự vô ngại. Đấy vốn là cảnh giới
của chúng ta. Hôm nay chúng ta trông thấy thần thông rộng
lớn chẳng thể nghĩ bàn, nhờ đó chúng ta hiểu
được ḿnh vốn là như thế. Hiện tại
đâu đâu ta cũng gặp chướng ngại, gặp
phải cảnh đáng thương như thế, rất
phải nên hổ thẹn. Sa chân đến nông nỗi này
là v́ chúng ta chẳng biết dụng tâm, dùng nhầm cái tâm,
dùng nhầm vọng tâm. Chúng ta càng phân biệt nhiều, càng
chấp trước nhiều, vọng tưởng càng nhiều,
đau khổ càng nhiều. Phân biệt, chấp trước,
vọng niệm càng ít th́ tinh thần càng sung sướng,
càng ít phiền năo.
Phiền
năo do tự quư vị sanh, chẳng phải người
ngoài tạo ra. Người khác chửi quư vị, quư vị
có nhận lấy th́ quư vị mới phiền năo; giống
như người ta tặng quà cho ḿnh, ḿnh nhận lấy
vậy. Nếu quư vị chẳng tiếp nhận, làm sao
phiền năo sanh? V́ sao người ta chửi người
khác, quư vị chẳng sanh phiền năo? Là v́ người
khác bị chửi, chính ḿnh chẳng sanh phân biệt, chấp
trước. Danh tự là giả danh. Nương vào danh tự
để chửi th́ chửi không được,
nương vào thân thể để chửi th́ thân thể
là giả tướng Tứ Đại Ngũ Ấm ḥa hợp,
thân cũng chẳng phải là Ta. Người ta chửi quư
vị, quư vị chẳng nhận lấy bèn được
đại tự tại. Quư vị dùng vọng tâm bèn tiếp
nhận; quư vị dùng chân tâm th́ trong chân tâm một pháp chẳng
lập. Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm
bụi trần? Đó là chân tâm, trong chân tâm vốn chẳng
có một vật, không ǵ dính vào được, bởi thế
tự tại. Người học Phật phải biết
dùng tâm.
“Trong một
niệm tôi thấy ba đời, tất cả hết thảy
Nhân Sư Tử”: Hiện tại
chúng ta dùng pháp môn Niệm Phật, niệm A Di Đà Phật
tức là huấn luyện “nhất niệm” của chúng ta.
Muốn khôi phục “nhất niệm” chẳng dễ dàng
ǵ, bởi lẽ phiền năo tập khí từ vô lượng
kiếp đến nay sức chúng quá lớn. Đi, đứng,
nằm, ngồi đều khởi vọng niệm. Dùng
phương pháp nào để khôi phục “nhất niệm”?
Dùng một câu Phật hiệu. Một câu Phật hiệu
này là thủ đoạn, là phương pháp. Trong lúc chúng ta
khởi vọng niệm, chẳng cần phải quán sát ư
niệm ấy là thiện niệm hay ác niệm, đáng khởi
hay không nên khởi, niệm nào cũng mặc kệ, cứ
một niệm vừa khởi lên bèn thay bằng A Di Đà
Phật, dùng một câu A Di Đà Phật để thay thế
cái niệm đó, sao cho không khởi niệm th́ thôi, hễ
khởi niệm bèn thành A Di Đà Phật. Đó cũng là
“nhất niệm”.
Nhưng
đấy chẳng phải là “nhất niệm” thật sự,
chỉ là tương tự “nhất niệm”, từ quá
tŕnh tương tự mới có thể chứng đắc
nhất niệm chân thật. Nhất niệm chân thật là
vô niệm. Nếu chúng ta nghĩ đến vô niệm th́
cái vô niệm đó cũng là một ư niệm lầm lạc,
chẳng phải là “nhất niệm” chân chánh. Nhất niệm
chân chánh là hữu niệm lẫn vô niệm đều chẳng
có, chẳng những ĺa hết thảy hữu niệm mà
cũng ĺa vô niệm luôn, đấy mới là nhất niệm.
“Nhân
Sư Tử”: Sư tử
trong loài người, là ví dụ dùng để chỉ Phật.
Lúc niệm đến nhất niệm, tất cả hết
thảy các Như Lai trong ba đời quư vị đều
thấy hết. Nhất niệm là thanh tịnh, nhị niệm
chẳng thanh tịnh. Tâm tịnh cơi nước tịnh, tịnh
độ vốn từ đó mà có. Câu nào cũng bao gồm
ư nghĩa thanh tịnh. Công phu, cương lănh tu hành đều
nằm trong “nhất niệm”. Thời thời khắc khắc
chẳng quên mất nhất niệm là tốt. Trong giai
đoạn hiện tại th́ thời thời khắc khắc
chẳng quên A Di Đà Phật, hết thảy mọi niệm
đều quy về A Di Đà Phật.
“Cũng
thường nhập trong cảnh giới Phật”: Tâm tịnh, thân bèn thanh tịnh. Thân
thanh tịnh, trong tâm chẳng có phiền năo, thân chẳng có
bệnh khổ. Thân tâm thanh tịnh th́ ngoại cảnh chẳng
có ǵ không thanh tịnh, ngay khi đó, Tịnh Độ lập
tức hiện tiền. Đấy là nguyên tắc, nguyên lư
được giảng bởi Hoa Nghiêm, cảnh chuyển
theo tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói: “Nếu
chuyển được cảnh th́ giống hệt Như
Lai”. Bởi thế chúng ta phải chuyển cảnh, chớ
để cảnh chuyển ḿnh.
Chuyển cảnh
bằng cách nào? Cảnh giới có hai thứ thuận và nghịch,
cũng tức là thuận duyên và nghịch duyên. Hai thứ cảnh
giới hiện tiền, sáu căn của chúng ta tiếp
xúc, hiểu rành rẽ phân minh cảnh giới (thật sự
thấy tướng rốt ráo, tướng viên măn); như
thế th́ trí huệ tăng trưởng, như như bất
động, đó là Nhất Niệm. Rèn luyện Nhất
Tâm Bất Loạn từ nơi đó, ấy là chuyển cảnh
giới. Trong thuận cảnh, đối với thể,
tướng, dụng, nhân duyên, quả báo, sự lư của
thuận cảnh, quư vị hoàn toàn thấy rơ ràng, th́ gọi
là rành rẽ phân minh. Rành rẽ phân minh, tự ḿnh như
như bất động, quyết định chẳng khởi
tâm động niệm phân biệt nơi tướng cảnh
giới. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm,
chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, lại
càng rành rẽ phân minh th́ cảnh giới trở thành Phật,
Bồ Tát, càng làm cho chúng ta thành tựu vô lượng trí huệ,
thiền định rất sâu. Tu hành chỉ là có biết dụng
tâm nơi cảnh giới hay không!
Phật
pháp sợ quư vị chấp tướng, nên từ đầu
đến cuối Đại Thừa Phật pháp chỉ
phá chấp trước mà thôi. Ĺa hết thảy phân biệt,
chấp trước, chân tướng bèn sáng tỏ. Có
như vậy mới thường nhập trong cảnh giới
Phật, cảnh giới ấy là cảnh giới của
chư Phật Như Lai. Quư vị nhập được
cảnh giới Phật mà quư vị không là Phật, th́ c̣n
ai là Phật nữa đây? Khéo dụng tâm th́ cảnh giới
nhăn tiền, cuộc sống thực tế đều thành
kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm hết.
Thấy sắc, nghe tiếng, không ǵ chẳng phải [là
kinh Hoa Nghiêm]. Trong mỗi một vi trần có trần số
Phật đều v́ chúng ta giảng kinh Hoa Nghiêm, đều
v́ chúng ta chuyển diệu pháp luân. Do trong tâm ta khởi tâm
động niệm nên tự ḿnh bèn sanh chướng ngại,
gây chướng ngại cho diệu pháp của hết thảy
Như Lai, tự ḿnh chẳng thấy, chẳng nghe, như
điếc, như ngây. Phải nhập cảnh giới, phải
giữ được nhất niệm th́ mới nên.
“Như
huyễn giải thoát”: Cảnh
giới được chứng bởi bậc địa
thượng Bồ Tát[64]
đều có một chữ Huyễn, ư nói y báo, chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới có Tướng, nhưng
không có Thể.
Thể là
không, bởi vậy cái Hữu ấy là Huyễn Hữu, chẳng
phải là Chân Hữu. Hiểu được hết thảy
pháp đều là huyễn hữu, quư vị sẽ thọ dụng
tự tại, bởi quư vị chẳng chấp trước.
Chẳng chấp trước th́ đối với hết
thảy pháp, quư vị chẳng chấp trước
được mất, nên chẳng mê hoặc, chẳng tạo
nghiệp, chẳng sanh phiền năo, chẳng thọ quả
báo. Trong hết thảy pháp, quư vị du hư thần thông, tự
tại lắm! Có thể hưởng thọ hết thảy
pháp, nhưng chớ có chấp trước, hễ chấp
trước bèn sanh phiền năo. Phải hiểu hết thảy
pháp trọn chẳng thể được. Cũng giống
như nằm mộng, mộng là giả, thời gian nằm
mộng ngắn, lúc tỉnh bèn biết mộng là giả.
Nếu
trong mộng, quư vị nhận biết ḿnh đang mộng,
th́ trong mộng quư vị sẽ có thể tận hưởng
hết mức. Trong mộng được vàng, quư vị
chẳng sanh hoan hỷ; quư vị biết đó là giả.
Trong mộng thấy cọp ăn quư vị, quư vị
cũng rất khảng khái, phát tâm từ bi đem thân nuôi
nó, bởi quư vị hiểu đấy là giả, chính ḿnh
không có chết, chỉ là du hư thần thông. Cuộc sống
hiện tại của chúng ta thật sự là mộng cảnh,
thời gian dài hơn một chút đó thôi, sao quư vị c̣n
chưa biết ḿnh đang nằm mộng? Nếu quư vị
giác ngộ thế gian giống như mộng cảnh,
đối với danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần thế gian, quư vị cũng có thể tận
t́nh hưởng thọ, nhưng trọn chẳng có ư niệm
chấp trước.
Trong thế
gian này, hết thảy vạn vật, chúng ta có quyền sử
dụng, nhưng chẳng có quyền sở hữu. Chẳng
có một thứ ǵ là sở hữu của quư vị cả!
Nếu nói có sở hữu th́ chỉ là một ư niệm
hư vọng, lầm lạc; ngay đến thân thể c̣n
chẳng sở hữu được, huống ǵ vật
ngoài thân? V́ quyền sở hữu mà tranh giành đến
đầu rơi máu chảy, một ngày từ sáng đến
tối tạo phiền năo, thật chẳng đáng ǵ! Lầm
lạc quá lớn, đó gọi là mê hoặc điên đảo.
Nếu dẹp được cái tâm được - mất
là dẹp được tám mươi phần trăm phiền
năo. Dẹp được tám mươi phần trăm phiền
năo th́ tội nghiệp cũng tiêu trừ quá nửa.
Chẳng phải
là con người đến chết mới biết “mọi
sự là không”, thật ra, mỗi ngày chúng ta đều chết
một lần. Lúc quư vị ngủ, chẳng giống
như đă chết rồi sao? Lúc ngủ say, c̣n cái ǵ là quư
vị? Những thứ quư vị sở hữu đâu cả
rồi? Một khi quư vị đă mộng say rồi, quư vị
hoàn toàn ly khai thế giới hiện thực này. Thế giới
này chẳng có một thứ là quư vị cả. Quư vị
phải thường suy nghĩ đạo lư này th́ mới
có thể chân chánh lănh hội sự giải thoát như huyễn
của Bồ Tát: Ngài thọ dụng hết thảy đại
tự tại, Ngài tuyệt đối chẳng chiếm hữu
cái ǵ, ngay cả thân thể của chính Ngài. Thân thể
cũng chẳng phải là ḿnh th́ cái ǵ là ḿnh vậy? Tận
hư không khắp pháp giới chẳng có một pháp nào chẳng
là ḿnh cả!
Nếu một
ngày nào đó, quư vị nhận ra ḿnh đang nằm mộng,
tất cả cảnh giới trong mộng đúng hay sai
đều là chính ḿnh cả thôi! Mộng do tâm chính ḿnh biến
ra, vậy th́ trong mộng cảnh chẳng có pháp nào chẳng
phải là ḿnh. Trong mộng có ḿnh, có người khác, có
sơn hà đại địa, không ǵ chẳng phải là
ḿnh. Toàn tâm tức mộng, toàn mộng tức là tâm. Tâm là
Thể, là Năng Biến, mộng cảnh là Sở Biến,
là tướng phần, là hiện tượng.
Phật
pháp nói: “Toàn vọng tức là chân, toàn chân tức là vọng”.
Nói Chân là nói về Tâm. Tâm Năng Biến là chân, mộng cảnh
Sở Biến là vọng. Chân - vọng chẳng hai, chân - vọng
nhất như. Nhập cảnh giới này th́ gọi là chứng
đắc Pháp Thân thanh tịnh. Một pháp là vạn pháp, vạn
pháp chính là tự ḿnh. Bởi vậy, đạt đến
nhất niệm nhất tâm (Lư Nhất Tâm Bất Loạn)
th́ tận hư không khắp pháp giới chỉ là chính ḿnh
mà thôi, đó là Pháp Thân, Pháp Thân chẳng sanh chẳng diệt.
Mỗi một
cá nhân chúng ta đều có Pháp Thân, tiếc là ta mê mất
Pháp Thân. Người ngộ là ngộ Pháp Thân, người
mê là mê Pháp Thân, mê ngộ chẳng hai. Mê là mê điều này,
mà ngộ cũng là ngộ điều này. Lúc mê, cái chi
cũng chẳng ít, lúc ngộ cái ǵ cũng chẳng nhiều,
chẳng tăng giảm chút nào, mê - ngộ bất nhị.
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm chỉ
giảng một sự việc này; nhập cảnh giới
này được đại tự tại. Giải thoát là
tự tại.
“Oai lực”: Oai là oai đức, mà cũng là năng
lực, năng lực chẳng thể nghĩ bàn, quư vị
có năng lực đến nỗi trong vũ trụ vạn
hữu chẳng có một sự nào quư vị chẳng làm
được. Năng lực ấy là đức năng
của tự tánh. Chẳng hạn như: Người sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ăn
mặc tự nhiên, nghĩ muốn ăn thứ ǵ, thứ
đó liền biến hiện ra ngay trước mặt.
Đó là oai lực. Nh́n thấy liền no, những thứ ấy
tự động biến mất. Khoa học gia giải
thích đạo lư này như sau: Đó là sự chuyển biến
giữa năng lượng và vật chất. Khoa học
gia hiểu được lư luận, nhưng chẳng biết
cách biến như thế nào.
Đức Phật dạy
chúng ta: Nhất tâm là Năng Biến. Hiện thời chúng
ta dùng vọng tâm nên chẳng biến được, hễ
nhất tâm bèn khôi phục được năng lực ấy.
Bây giờ đến nơi xa xôi chúng ta phải ngồi máy
bay, phải mất mấy tiếng đồng hồ mới
đến nơi. Nếu dùng nhất niệm th́ tận
hư không, trọn pháp giới, chẳng cần phải dựa
vào bất cứ máy móc nào, trong khoảng một niệm liền
đến ngay. Ở chỗ này chẳng thấy thân thể,
ở chỗ kia thân thể hiện hữu, thật quá nhiệm
mầu, tốc độ vượt xa tốc độ
ánh sáng. Đó chính là oai lực.
1.10.9. Nguyện thừa
sự
Chánh kinh:
Ư nhất mao đoan cực
vi trung,
Xuất hiện tam thế trang
nghiêm sát,
Thập phương trần sát
chư mao đoan,
Ngă giai thâm nhập nhi nghiêm tịnh,
Sở hữu vị lai Chiếu
Thế Đăng,
Thành đạo chuyển pháp ngộ
quần hữu,
Cứu cánh Phật sự thị
Niết Bàn,
Ngă giai văng nghệ nhi thân cận.
(Trong một
cực vi đầu sợi lông,
Xuất hiện ba đời cơi trang nghiêm,
Mười phương đầu lông trần
số cơi,
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh,
Tất cả Đấng Soi Đời vị
lai,
Thành đạo chuyển pháp giác quần sanh,
Phật sự rốt ráo hiện Niết Bàn,
Tôi đều
đi đến ḥng thân cận)
Bài tụng này
nói về nguyện Thừa Sự, tức là thân cận
chư Phật Như Lai, hoặc có thể hiểu là thân cận
hết thảy thiện tri thức cũng được.
Bài kệ thứ nhất hoàn toàn nói về cảnh giới.
“Trong một
cực vi đầu sợi lông”: rất ư là nhỏ bé. Vi trần đă rất nhỏ,
cực vi so với vi trần càng nhỏ hơn nữa, gọi
là “lâm hư trần”, không có ǵ nhỏ bằng. Đem vi trần
chẻ ra th́ gọi là “sắc tụ vi”, sắc tụ vi lại
chia nhỏ ra gọi là cực vi vi. “Vi” nói ở đây là cực
vi vi, gần với hư không (quá nhỏ, hầu như không
có ǵ), chẳng thể chia nhỏ hơn nữa. Chia nhỏ
ra là không có ǵ hết, biến thành hư không.
Trong cực
vi lại: “Xuất hiện ba đời cơi trang nghiêm”
(xuất hiện tam thế trang nghiêm sát): Sát là
sát-độ (ksetra), tức tam thiên đại thiên thế
giới, là khu vực giáo hóa của một đức Phật.
Tam thiên đại thiên thế giới thanh tịnh trang
nghiêm nằm trong một cực vi vi. Vi trần “cực vi
vi” chẳng phóng đại, tam thiên đại thiên thế
giới chẳng rút nhỏ, lớn - nhỏ chẳng hai.
Đó là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh
giới hiện lượng của Phật, chẳng thể
dùng lư luận để suy lường được nổi.
“Mười
phương đầu lông trần số cơi”: Trong mười phương có vô lượng
vô biên các cực vi trần nơi những đầu sợi
lông như thế, trong mỗi một cực vi nơi đầu
một sợi lông ấy, các cơi Phật ba đời
được hiện ra đương nhiên là vô lượng
vô biên.
“Tôi đều
thâm nhập để nghiêm tịnh”: Phổ Hiền Bồ Tát nói Ngài đều
có thể thâm nhập [những cơi ấy], đều có thể
tham dự vào việc trang nghiêm các cơi Phật. Tịnh độ
của mỗi một đức Phật, Ngài đều
đến được, không sót một cơi nào. Những
điều đó đều từ nhất tâm hiển hiện.
Nhất tâm là quư báu, hết thảy của cải thế
gian đều là giả, nhất tâm mới là của báu
chân chánh, hăy nên tu nhất tâm.
“Tất
cả Đấng Soi Đời vị lai”: Chiếu Thế Đăng là biệt
hiệu của Phật.
“Thành đạo chuyển pháp giác quần sanh”: Chư Phật sau khi thị hiện
thành Phật, nhất định chuyển pháp luân giáo hóa
chúng sanh. Mục đích của việc giáo hóa là giác ngộ
quần hữu. Chữ “hữu” chỉ chúng sanh. Có
nghiệp nhân Dục Giới bèn thọ sanh trong Dục Giới.
Có nghiệp nhân Sắc Giới bèn thọ sanh trong Sắc Giới.
Phật thuyết pháp khiến cho ba cơi sáu đường hết
thảy chúng sanh khai ngộ.
“Phật sự rốt ráo hiện Niết Bàn”: Phật sự là sự nghiệp giáo
hóa chúng sanh; “rốt ráo” là viên măn. Giáo hóa viên măn rồi, tối
hậu bèn thị hiện nhập Niết Bàn. Thích Ca Mâu Ni
Phật trụ thế tám mươi năm, những chúng
sanh căn cơ chín muồi được độ không
c̣n sót một ai, đă độ hết cả rồi. Dẫu
Phật chẳng tại thế, cứ tu học đúng
theo kinh điển Phật cũng được thành tựu
giống như thế. Tín nguyện trọn vẹn trăm
phần trăm là kẻ “căn cơ chín muồi”.
Sau khi Phật
diệt độ, pháp môn thật sự có thể tiếp
dẫn kẻ căn cơ thuần thục chỉ có mỗi
ḿnh pháp môn Tịnh Độ. Đối với pháp môn Tịnh
Độ tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ, phát nguyện
cầu sanh, không ai không sanh về. Chỉ cần văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới bèn được
độ thoát, chẳng khác ǵ thành tựu của hàng đệ
tử được Phật Thích Ca Mâu Ni độ khi Ngài
c̣n tại thế, thậm chí c̣n thù thắng hơn. Tướng
căn cơ chín muồi là: chẳng xen tạp, chẳng
gián đoạn. Nếu tu hành tin tưởng sâu, nguyện
thiết tha, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp,
người ấy là căn tánh thượng thượng,
trong ṿng ba năm nhất định có thành tựu lớn.
“Tôi đều đi đến
ḥng thân cận” là câu nói tổng
kết. Phổ Hiền Bồ Tát thân cận thừa sự
chư Phật Như Lai, chẳng bỏ sót một vị
Phật nào.
1.10.10. Nguyện
thành Chánh Giác
Chánh kinh:
Tốc tật châu biến
thần thông lực,
Phổ môn biến nhập Đại
Thừa lực,
Trí hạnh phổ tu công đức
lực,
Oai thần phổ phú đại
từ lực,
Biến tịnh trang nghiêm thắng
phước lực,
Vô trước vô y trí huệ lực,
Định huệ phương
tiện oai thần lực,
Phổ năng tích tập Bồ
Đề lực,
Thanh tịnh nhất thiết
thiện nghiệp lực,
Tồi diệt nhất thiết
phiền năo lực,
Hàng phục nhất thiết
chư ma lực,
Viên măn Phổ Hiền chư hạnh
lực.
(Sức
thần thông trọn khắp mau chóng,
Sức
phổ môn nhập khắp Đại Thừa,
Sức
trí hạnh tu mọi công đức,
Sức
đại từ oai thần che khắp,
Sức
trang nghiêm khắp tịnh thắng phước,
Sức
trí huệ không vướng, không nương,
Sức
định huệ phương tiện oai thần,
Sức
tích tập Bồ Đề rộng khắp,
Sức
thanh tịnh hết thảy thiện nghiệp,
Sức dẹp
tan hết thảy phiền năo,
Sức
hàng phục hết thảy các ma,
Sức viên măn các hạnh
Phổ Hiền)
Bài tụng
nói về nguyện thành Chánh Giác. Kinh văn nêu lên mười
hai sức, chín loại đầu nói về nghiệp dụng,
ba loại sau nói về “kết nhân thành quả”. Nghiệp
là sự nghiệp, hành động, hoạt động.
Trong hết thảy hoạt động đều
được đại tự tại.
Thứ nhất,
Ngài có “sức thần thông trọn khắp mau chóng”: “Tốc
tật” là mau chóng. Các cơi Phật trong mười
phương, Ngài vừa nghĩ đến liền đến,
c̣n có thể trở về quá khứ, đi đến vị
lai, mười phương ba đời thông đạt vô
ngại, cứ nghĩ đến bèn đến được,
đủ thấy sức hoạt động của Ngài thật
chẳng thể nghĩ bàn. Nhất niệm nhất tâm chẳng
có chướng ngại, tam tâm nhị ư bèn có chướng
ngại.
“Sức
phổ môn nhập khắp Đại Thừa”: Giảng về pháp môn. Pháp môn vô lượng
vô biên, bởi thế gọi là “phổ môn”. Vô lượng
vô biên pháp môn Ngài đều có thể thông đạt. Vô
lượng pháp môn đều lưu xuất từ nhất
tâm. Bây giờ, chúng ta từ bất cứ pháp môn nào mà nhập,
hễ nhập được th́ cái mà ta chứng đắc
chính là nhất tâm; bởi thế mới nói: “Thông một
môn, hết thảy môn đều thông” (thông đạt).
Môn nào cũng thông với nhất tâm, nhất chân, bởi thế
gọi là “bất nhị pháp môn”. Mở ra nhiều môn
như thế là v́ phương tiện tiếp dẫn. Phật
đại từ đại bi chẳng ép buộc quư vị
học một môn nào, nếu miễn cưỡng học, sẽ
học chẳng giỏi. Vô lượng pháp môn khiến cho
mỗi cá nhân tu học đều sung sướng, thoải
mái. Nếu thấy học Phật rất khổ th́ phải
phản tỉnh, nhất định là ḿnh đă đi theo
con đường chưa đúng.
“Sức
trí hạnh tu mọi công đức”: Tu hành nhất định phải dựa
vào trí huệ. Trí hạnh là Bát Nhă Ba La Mật, nếu hành vi
ba nghiệp thân - khẩu - ư là hành vi mê lầm th́ phải sửa
đổi, giác chứ không mê th́ gọi là “trí hạnh”.
Hết thảy hành vi đều chiếu theo lư trí, chẳng
bị mê hoặc, gọi là “phổ tu” (tu khắp cả).
Có vậy mới thành tựu công đức. Công đức
chỉ định huệ. Định là tâm thanh tịnh, tức
là nhất tâm. Huệ là điều ǵ cũng đều hiểu
rơ.
“Sức
đại từ oai thần che khắp”: Đặt nặng từ bi, phải
dùng tâm đại từ bi đối đăi hết thảy
chúng sanh. Trông thấy người ác, hay nói tổng quát là thấy
những chuyện trái mắt, đó đều là những
cảnh giới dạy ta tu tâm đại từ bi. Nếu
trong những hoàn cảnh ấy, quư vị tu thành tựu tâm
đại từ bi th́ kẻ ác trở thành thiện tri thức
của quư vị, là Bồ Tát. Không có họ, quư vị chẳng
thể tu thành tâm từ bi.
“Biến
tịnh trang nghiêm thắng phước lực” (sức trang nghiêm khắp tịnh thắng
phước): Phước báo lớn nhất, thù thắng
nhất là thân tâm thanh tịnh. Tâm địa thanh tịnh mới
là sự hưởng thọ chí cao vô thượng. “Biến
tịnh”: thân thanh tịnh, tâm thanh tịnh, hết thảy
cảnh giới thanh tịnh, chẳng có một pháp nào không
thanh tịnh, chẳng có một chỗ nào không thanh tịnh.
“Sức
trí huệ không vướng, không nương”: Tự hành, dạy người đều
phải không vướng mắc, dựa dẫm th́ mới
có thể thành tựu trí huệ viên măn. Tự ḿnh tu hành tâm
thanh tịnh, giáo hóa chúng sanh tâm địa thanh tịnh, quyết
định chẳng chấp trước. Tam Quy Y là quy y
Giác - Chánh - Tịnh nơi tự tánh.
“Sức
Định Huệ phương tiện oai thần”: Câu này thiên trọng vấn đề
giáo hóa chúng sanh. Không có Định Huệ th́ phương tiện
trở thành có vấn đề. Nhà Phật thường
nói: “Từ bi lắm họa hại, phương tiện
thành hạ lưu”. Phải có Định và Huệ th́ Phật
mới có thể nhiếp thọ hết thảy chúng sanh.
Định Huệ khởi tác dụng chính là phương tiện
từ bi. “Sức oai thần”: Oai là chữ để
h́nh dung, Thần là chẳng thể nghĩ bàn, chỉ
phương pháp giáo học. Thân giáo, ngôn giáo, pháp
phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
“Sức
tích tập Bồ Đề rộng khắp” (Phổ
năng tích tập Bồ Đề lực): Phổ là phổ biến, tùy thời tùy
chỗ tu tập vô thượng Bồ Đề.
“Sức
hàng phục hết thảy các ma”[65]
a) Ngũ Ấm
Ma: là bản thân chúng ta. Thân thể ta do ngũ ấm, tứ
đại tụ tập thành. Hàng phục được
Ngũ Ấm Ma th́ sanh tử tự tại.
b) Phiền
Năo Ma: Dẹp yên được ma phiền năo th́ xa ĺa
được bệnh khổ nơi thân tâm.
c) Tử
Ma.
d) Thiên ma:
Là oán thân trái chủ từ vô thỉ kiếp đến nay.
Quư vị muốn vượt thoát tam giới, chúng bèn đến
quấy rối. Lúc lâm chung thấy thân quyến đă chết
của ḿnh, thật ra là oán gia trái chủ biến hiện
thành thân quyến, người nhà của ḿnh đến lôi
kéo người chết đi theo để trả thù. Lúc
lâm chung bị bệnh ngặt nghèo cho thấy ḿnh chưa
được hàng phục được ma. Người
niệm Phật công phu giỏi, biết trước lúc chết,
không bệnh mà mất. Phải dùng cái tâm thanh tịnh để
hàng phục ma. Tâm thanh tịnh ma chẳng dám quấy quư vị.
“Sức viên măn các hạnh
Phổ Hiền”: Nhân hạnh
thù thắng của Phổ Hiền đều tu được,
Phổ Hiền hạnh vô lượng vô biên, vậy th́ phải
một ngày hay một kiếp mới có thể tu được
viên măn? Niệm và kiếp viên dung, một niệm cũng
như vô lượng kiếp, vô lượng kiếp
cũng như một niệm. Tâm thanh tịnh bèn tu viên măn,
tâm chẳng thanh tịnh bèn tu vô lượng kiếp.
Chánh kinh:
Phổ năng nghiêm tịnh
chư sát hải,
Giải thoát nhất thiết
chúng sanh hải,
Thiện năng phân biệt
chư pháp hải,
Năng thậm thâm nhập trí
huệ hải,
Phổ năng thanh tịnh
chư hạnh hải,
Viên măn nhất thiết chư
nguyện hải,
Thân cận cúng dường
chư Phật hải,
Tu hành vô quyện kinh kiếp hải,
Tam thế nhất thiết
chư Như Lai,
Tối thắng Bồ Đề
chư hạnh nguyện,
Ngă giai cúng dường viên măn
tu,
Dĩ Phổ Hiền hạnh ngộ
Bồ Đề.
(Nghiêm tịnh
trọn khắp các biển cơi,
Giải
thoát hết thảy biển chúng sanh,
Khéo hay
phân biệt các biển pháp,
Thâm nhập
biển trí huệ rất sâu,
Thanh tịnh
trọn khắp các biển hạnh,
Viên măn hết
thảy các biển nguyện,
Thân cận
cúng dường các biển Phật,
Tu hành
không mệt trải biển kiếp,
Ba đời
hết thảy các Như Lai,
Các hạnh
nguyện Bồ Đề tối thắng,
Tôi đều
cúng dường, tu viên măn,
Dùng Phổ
Hiền hạnh ngộ Bồ Đề)
Ba bài kệ
này tổng kết mười khoa mục nhỏ trong phần
“phổ giai hồi hướng”. Chữ “hải”
biểu thị rộng sâu chẳng có ngằn mé. Phổ Hiền
hạnh nguyện phải dùng tâm thanh tịnh mà tu, dùng cái
tâm chân thành mà tu. Chân thành, thanh tịnh chẳng có chướng
ngại, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước;
bởi thế tâm lượng rộng sâu vô biên. Dùng tâm
như thế để tu hành th́ bất cứ hạnh nào
cũng đều tương ứng tự tánh, bởi thế
hạnh nào cũng sâu rộng không ngằn mé.
“Nghiêm tịnh
trọn khắp các biển cơi”: Nghiêm là trang nghiêm, Tịnh là thanh tịnh. “Chư
sát” là các cơi nước Phật. Câu này ư nói trang nghiêm cơi
Phật. Các cơi Phật vô lượng vô biên, bởi thế
dùng chữ “hải” để làm tỷ dụ h́nh
dung. Câu này mang ư nghĩa rất sâu, rất rộng. Trong một
lỗ chân lông có vô lượng vô biên các cơi nước Phật;
mỗi một lỗ chân lông đều giống như thế.
Đó là “đại tiểu tương dung” (lớn nhỏ
chứa đựng lẫn nhau), “đại tiểu vô ngại”.
Đại thế giới trang nghiêm và tiểu thế giới
trang nghiêm chỉ là một việc. Có thể trang nghiêm tiểu
thế giới sẽ có thể trang nghiêm đại thế
giới; trang nghiêm được đại thế giới
nhất định trang nghiêm được tiểu thế
giới.
Đại
thế giới và tiểu thế giới cái nào khó, cái nào dễ?
Thưa cùng quư vị, không có khó dễ ǵ cả! Nếu
đại thế giới là khó, tiểu thế giới là
dễ, tức là có sai biệt, làm sao b́nh đẳng
được? Xứng tánh chẳng có sai biệt. V́ thế
nói “hết thảy vạn pháp b́nh đẳng nhất vị”.
Sát (cơi nước) là hoàn cảnh sanh sống của chúng
ta. Lớn th́ cũng là hoàn cảnh sanh sống, mà nhỏ
th́ cũng là hoàn cảnh sanh sống. Phải từ đây
mà hiểu câu này th́ mới được thọ dụng.
Hoàn cảnh
sanh sống phải tính từ tấm áo lót ḿnh của chúng
ta trở đi. Áo lót ḿnh thuộc hoàn cảnh sanh sống.
Những ǵ ngoài thân thể ra đều là hoàn cảnh sanh sống
cả. Trang nghiêm cơi Phật phải bắt đầu từ
hoàn cảnh sanh sống. Hoàn cảnh sanh sống của
chúng ta chưa tốt làm sao trang nghiêm cơi Phật cho
được? Y phục là hoàn cảnh sanh sống của
chúng ta; mặc áo th́ y phục phải sạch sẽ, tề
chỉnh, thay giặt quần áo cho sạch sẽ, khô ráo, xếp
gọn ghẽ cất vào tủ, đó là trang nghiêm. Ăn
cơm, lau bàn cho sạch, chớ để dính dầu mỡ,
tro bụi; bát đĩa phải rửa sạch, úp ngay ngắn.
Đối người, đối sự, đối vật,
chẳng những tâm phải thanh tịnh, mà c̣n phải chân
thành. Với sự cũng phải làm cho đến thật
viên măn. Chẳng tận tâm tận lực làm là tâm ta chẳng
thành, chẳng kính.
Bồ Tát
nói Ngài có năng lực trang nghiêm khắp các biển cơi,
chúng ta phải học theo. Trong sanh hoạt, mọi sự mọi
vật phải cẩn thận lưu ư, điều ǵ
cũng rất viên măn là đă thực hiện được
việc trang nghiêm cơi Phật vậy. Kinh Hoa Nghiêm dạy rất
rơ: “Một là hết thảy, hết thảy tức là một”.
Trong cuộc sống, ta đạt được thanh tịnh
trang nghiêm th́ mười phương các cơi Phật
đương nhiên thanh tịnh trang nghiêm. Nói từ căn
bản th́ trang nghiêm chỉ là cái tâm thanh tịnh. Tâm tịnh,
thân bèn thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, lẽ nào hoàn cảnh
sống của chúng ta chẳng thanh tịnh? Tự nhiên nó
phải thanh tịnh theo. Đối người, đối
vật đều thanh tịnh. Đó là “phổ năng”
(khắp có thể), chúng ta phải nên tu học. Học Phật
là học ở chỗ này.
“Giải
thoát hết thảy biển chúng sanh”: Hết thảy chúng sanh, đặc biệt
là phàm phu lục đạo, cuộc sống chẳng tự
tại, quư vị phải giúp họ được giải
thoát. V́ sao họ chẳng được tự tại? Là
v́ có rất nhiều ràng buộc, giống như bị dây
rợ chằng trói, chẳng cử động được,
chẳng tự do. Cái ǵ ràng buộc vậy? Phiền năo, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự,
vướng víu… đều là dây trói. Những dây trói đó
đều do mê mất tự tánh mà sanh khởi. Bồ Tát
là người đă chân chánh giác ngộ, bởi thế phải
giúp những chúng sanh ấy khai ngộ.
Trước
hết, phải hiểu v́ sao chúng sanh chẳng khai ngộ?
Giống như thầy thuốc chữa bệnh, trước
hết phải t́m ra gốc bệnh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Thế Tôn đă nêu ra cái gốc bệnh, Ngài giảng rất
minh bạch. Đức Phật nói: “Hết thảy chúng
sanh đều có trí huệ, đức tướng của
Như Lai, đều v́ vọng tưởng, chấp
trước, mà chẳng thể chứng đắc”. Nói
cách khác, mỗi một cá nhân đều là Phật. Đức
Phật có trí huệ nhiều và lớn, mỗi cá nhân chúng
ta ai nấy đều có.
Đức
tướng là thân tướng khỏe mạnh nhất,
viên măn nhất, chúng ta ai nấy đều có, toàn là thân kim
cang bất hoại cả! Có những đồng tu thân thể
hư nhược, tinh thần chẳng phấn chấn,
quanh năm bệnh tật, gốc bệnh là do vọng
tưởng, chấp trước. Bỏ được vọng
tưởng, chấp trước, trí huệ bèn khôi phục,
sức khỏe khôi phục, vô lượng công đức
nơi tự tánh, vô lượng đức năng thảy
đều khôi phục hết. Phật pháp chỉ là dạy
chúng ta đoạn trừ vọng tưởng, chấp
trước mà thôi.
Bồ Tát
giúp hết thảy chúng sanh được đại tự
tại như thế nào? Phải dẹp trừ gốc bệnh
của chúng sanh, dạy chúng sanh hiểu rơ t́nh trạng sự
thật. Vọng tưởng, chấp trước do chính
ḿnh khởi th́ phải do chính ḿnh đoạn. Chúng ta chẳng
biết gốc bệnh là vọng tưởng, chấp
trước; Phật, Bồ Tát một lời vạch trần,
đấy là các ngài gia tŕ chúng ta, giúp đỡ chúng ta. Từ
nay trở đi, chúng ta dẹp được vọng
tưởng là thành công. Vọng chẳng phải là chân, phàm
là có tưởng đều là vọng, chân tâm chẳng có
tưởng.
Ngày ngày niệm
A Di Đà Phật th́ câu Phật hiệu này là chân hay là vọng?
Ở đây, tôi thưa thật cùng quư vị, chỉ có một
câu Phật hiệu này chẳng vọng; v́ nếu vọng
tưởng những cái khác, quư vị phải luân hồi lục
đạo. Lục đạo luân hồi lẫn mười
pháp giới đều chẳng phải là chân, Nhất Chân
Pháp Giới mới là chân. Thế giới Cực Lạc của
Phật A Di Đà là Nhất Chân Pháp Giới.
Chúng ta
nghĩ đến Phật A Di Đà, niệm Phật A Di
Đà, tuyệt đối chẳng phải là khởi vọng
tưởng; ngoài ra hết thảy đều là vọng
tưởng. Tự ḿnh đắc độ, từ nay trở
đi chẳng khởi vọng tưởng. Quá khứ
đă qua rồi, chẳng cần phải nghĩ đến
nữa, hệt như một giấc mộng. Vị lai vẫn
chưa tới, nghĩ đến để làm ǵ? Nói đến
hiện tại th́ hiện tại đă chẳng có, đă
qua mất rồi.
Kinh Kim Cang
dạy: “Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai,
ba tâm bất khả đắc”. Nghĩ đến quá khứ,
nghĩ đến hiện tại, nghĩ đến vị
lai đều là vọng tưởng. Quá khứ, hiện tại,
vị lai đều chẳng nghĩ đến, tự tại
thay! Việc ǵ chẳng liên quan đến cuộc sống
của ḿnh, ta chẳng cần biết đến. Chẳng
phải là nhân vật ta phải nhận biết, ta chẳng
cần biết đến, tâm bèn thanh tịnh. Cổ nhân
nói: “Càng biết nhiều việc, phiền năo càng lắm”.
Tôi khuyên các
đồng tu: chẳng cần phải xem truyền h́nh,
đừng nghe radio, chớ xem báo chí. Nghe kinh là để
đoạn nghi sanh tín, tín tâm thanh tịnh bèn sanh Thật
Tướng. Dùng tín tâm thanh tịnh chấp tŕ danh hiệu
bèn có thể giúp cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ,
ĺa khổ được vui. Nói chung, phải nhận thức
rơ ràng chính ḿnh và hoàn cảnh sanh sống của chính ḿnh,
ngàn kinh muôn luận chỉ nói một chuyện này, đó
chính là luận đề trung tâm của Phật pháp vậy.
“Khéo hay
phân biệt các biển pháp”:
Pháp là hết thảy pháp. Trong hết thảy pháp, có pháp
chân thật, có pháp sai biệt; chân thật là Thể. Phật
nói vạn pháp đều không, nói Không là nói về Thể,
đó là chân thật. Hết thảy vạn pháp đều
chẳng phải thật tồn tại. Kinh Kim Cang nói: “Phàm
những ǵ có tướng đều là hư vọng… Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng” đều là nói về thể tánh của các pháp.
Đó là chỗ giống nhau. Nếu từ Tướng và
tác dụng của hết thảy pháp mà nói th́ có sai biệt.
Trong vũ
trụ, vạn pháp sai biệt vô lượng, vô biên, có nhiễm
- tịnh, chân - vọng, tà - chánh, thị - phi, thiện - ác,
quư vị phải có năng lực phân biệt. Chỉ có giáo
dục mới có thể làm cho quảng đại chúng sanh
phân biệt các pháp sai biệt là đúng hay sai, thiện hay
ác, lợi hay hại. Phân biệt được thiện -
ác, nhất định có thể đoạn ác tu thiện;
phân biệt được lợi - hại, tự nhiên sẽ
hướng đến cái tốt, tránh cái xấu. Chẳng
nhận thức pháp sai biệt, sẽ thường coi xấu
là tốt, coi ác là lành, lúc quả báo hiện tiền, có hối
chẳng kịp nữa. Người niệm Phật nhiều,
người văng sanh ít là do chính ḿnh tạo nghiệp chướng
mà thôi. V́ sao tạo nghiệp? V́ chẳng hiểu rơ sự
tướng chân thật. Bởi thế, chúng ta phải
thường coi trọng giáo dục.
“Thâm nhập
biển trí huệ rất sâu”:
Mục đích của việc thọ tŕ Phật pháp là khai
trí huệ, nhưng trí huệ vốn sẵn có, chứ chẳng
phải từ bên ngoài đưa đến. Đọc nhuần
kinh điển, đọc nhuần cổ văn, tu Căn
Bản Trí là bước khởi đầu để “thâm
nhập biển trí huệ rất sâu”; từ Vô Lượng
Thọ kinh, Tứ Thư, Ngũ Kinh mà khởi sự. Chỉ
có khôi phục nền giáo học Khổng Mạnh và Đại
Thừa, chúng ta mới đạt được hạnh
phúc chân chánh. Lợi ích công đức thù thắng nói đến
trong kinh Phật chúng ta có thể đạt được,
dẫu chẳng đạt được viên măn, nhưng
nhất định đạt được ít phần.
Gia đ́nh mỹ măn, sự nghiệp thành công, đều nhờ
những sách giáo khoa ấy.
“Thanh tịnh
trọn khắp các biển hạnh”: Có thể phân biệt tà - chánh, thị -
phi, có thể thành tựu trí huệ chân thật rồi th́
sau đấy tự nhiên quư vị có năng lực thanh tịnh
ba nghiệp thân - khẩu - ư. Tâm thanh tịnh: tư tưởng,
kiến giải thanh tịnh, chẳng bị nhiễm ô, chẳng
bị cảnh giới bên ngoài lay động. Ngữ thanh tịnh:
nói năng câu nào, chữ nào cũng đều lợi ích
chúng sanh, đều là dẫn dụ, chỉ dạy chúng
sanh hướng thiện, dẫn dụ chúng sanh chứng
chân; hành vi nhất định là gương mẫu cho thế
gian. Đấy là thanh tịnh trọn khắp các biển hạnh;
có vậy rồi th́ nguyện vọng của chúng ta mới
ḥng đạt được viên măn.
“Viên măn hết
thảy các biển nguyện”:
Bốn hoằng thệ nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn,
pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành. Mười
đại nguyện Phổ Hiền, bốn mươi tám
nguyện A Di Đà, chúng ta muốn chân chánh tu hành th́ cũng
có thể viên măn những nguyện đó; huống chi những
sở nguyện sở cầu thế gian, trọn chẳng
hư uổng. Trong nhà Phật, hữu cầu tất ứng,
nhất định nguyện vọng sẽ được
thỏa măn. Cầu nguyện chẳng thể măn nguyện ắt
phải là do có chướng ngại. Trừ được
chướng ngại rồi, có nguyện ắt thành, chuyện
ǵ cũng xứng tâm vừa ư.
“Thân cận
cúng dường các biển Phật”: Đây cũng như nói muốn chân thật
tu hành th́ phải nỗ lực đem những tập khí xấu,
những hành vi chẳng tốt trong cuộc sống sửa
đổi cho đúng, đó gọi là “tu hành”. Muốn sửa
đổi cho đúng th́ phải bắt đầu từ
việc thân cận thiện hữu. Gần son th́ đỏ,
gần mực th́ đen. Phổ Hiền Bồ Tát dạy
chúng ta thân cận chư Phật (thiện tri thức) th́ mới
chẳng bắt chước cái xấu, đạo nghiệp
quyết định thành tựu. Ngài dạy chúng ta cúng
dường chư Phật, cúng dường chân chánh là y
giáo phụng hành, thầy chỉ dạy sao phải nỗ lực
làm như thế. Thân cận một vị giáo sư tốt
chỉ đường, thân cận bạn lành thiết tha
chính là mấu chốt cho việc tu hành thành công trong một
đời.
“Tu hành
không mệt trải biển kiếp”: Đây là Tinh Tấn. Phát tâm dài lâu, tâm
thường hằng, tâm nghị lực, vĩnh viễn chẳng
lùi, dũng mănh tinh tấn, chớ sợ người khác phỉ
báng. Chúng ta tu học là nhằm viên măn thành tựu đạo
nghiệp, là chân thật cống hiến cho hết thảy
chúng sanh. Sự cống hiến ấy chẳng cần
người khác biết, cũng chẳng cần ai tán thán.
Người khác phỉ báng, lăng nhục, chửi rủa
quư vị th́ phải gấp cảm ơn, bởi lẽ
nghiệp chướng được họ tiêu trừ
giùm.
Phổ Hiền
dạy cho chúng ta tấm gương như sau: Khi chưa
thành Phật, tu hành trải vô lượng kiếp, thành Phật
rồi, lại lui xuống làm Bồ Tát, lại phải tu
hành, lại phải khởi sự từ đầu, thật
là phi thường! Chẳng cần biết là trước
khi thành Phật hay đă thành Phật rồi, Ngài tu hành
vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Hiện tại
chúng ta tu hành v́ chính ḿnh, các Bồ Tát tu hành v́ chúng sanh. Ở
đây, Phổ Hiền Bồ Tát thị hiện, cũng là
tŕ giới niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ,
nêu gương tốt cho chúng ta.
“Ba đời
hết thảy các Như Lai”:
Ư nghĩa trọng yếu trong bài kệ này là ba người
cùng đi, ắt có người là thầy ta, đó cũng
chính là điều Thiện Tài đă hiển thị trong
kinh này: Hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức
của chúng ta, hết thảy chúng sanh trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ đều là “học xứ”
(nơi để chúng ta học tập). Tam thế chư Phật:
Quá khứ chư Phật và hiện tại chư Phật
đều đă thành Phật, vị lai chư Phật là hết
thảy chúng sanh, c̣n chưa thành Phật. Tất cả hết
thảy chúng sanh đều là vị lai Phật. Trọng
điểm của câu này là vị lai Phật. Hết thảy
chúng sanh c̣n chưa thành Phật, có kẻ ác, có người
lành, đều là học xứ của chúng ta cả. Quá khứ
Phật, hiện tại Phật, trong kinh điển đức
Thế Tôn đă giới thiệu, đă trần thuật những
giáo huấn của hết thảy chư Phật đối
với chúng sanh, chúng ta đọc đến th́ phải
như thuyết tu hành.
Hiện tại
hết thảy đại chúng (vị lai Phật), thiện
tâm, thiện nguyện, thiện hạnh của họ, ta
trông thấy, nghe thấy phải sanh tâm hoan hỷ, khởi
tâm cung kính, muốn học theo. Nếu chúng ta không có những
thiện hạnh th́ phải học theo. Những thiện
nhân ấy là thiện tri thức của chúng ta. Gặp phải
kẻ ác khởi ác tâm ác niệm, tạo tác hết thảy
tội nghiệp, chúng ta trông thấy, nghe thấy phải
phản tỉnh, chúng ta có những lỗi ấy hay
chăng? Nếu có, phải gấp sửa lỗi đổi
mới. Những kẻ ác đó cũng là thầy ta (thiện
tri thức). Chẳng có ai chẳng phải là thầy! Chẳng
có ai chẳng phải là thiện tri thức, đều thời
thời khắc khắc chỉ dạy, giúp đỡ chúng
ta. Chỉ có ḿnh ta là học tṛ; trừ ta ra, ai nấy đều
là thầy ḿnh hết. Bài kệ này chủ yếu dạy
chúng ta đạo lư này.
“Các hạnh
nguyện Bồ Đề tối thắng”: Tối thù thắng là quư vị biết
học theo người thiện, chẳng học người
ác. Gặp được người thiện phải học
theo; gặp kẻ ác, phải phản tỉnh ḿnh có những
điều ác như thế chăng, họ dạy chúng ta
kiểm điểm tâm hạnh của chính ḿnh. Con người
rất thường hay chẳng thấy lỗi ḿnh. Thấy
lỗi người khác phải quay trở lại xét kỹ
ḿnh có hay không có, phải t́m cho ra. T́m thấy lỗi ḿnh phải
sửa đổi. Những kẻ đó là ân nhân của ta,
không có họ chúng ta chẳng thể phát hiện lỗi lầm
của ḿnh. Đấy là sự khai ngộ thù thắng. Tất
cả hết thảy hạnh nguyện phải tu theo cách ấy.
“Tôi đều
cúng dường, tu viên măn”:
Đối với hết thảy chúng sanh, b́nh đẳng
cúng dường, b́nh đẳng lễ kính, bồi dưỡng
cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng của chính ḿnh.
Người lành, kẻ ác, chúng ta biết phải học
theo ai; thuận cảnh, nghịch cảnh, cũng phải
biết nên tu như thế nào. Thuận cảnh hay nghịch
cảnh đều là cảnh giới tốt, người
thiện lẫn kẻ ác đều là người tốt.
Người tu học như thế nhất định
viên măn thành Phật ngay trong một đời, bởi lẽ
tất cả chướng ngại thảy đều chẳng
có. Chướng ngại nằm trong tâm ḿnh, tự ḿnh tạo
chướng ngại, cảnh giới bên ngoài thật sự
chẳng có chướng ngại.
Chúng ta chẳng
biết là tự ḿnh chướng ngại ḿnh, cứ sợ
chướng ngại bên ngoài làm khó ḿnh, người này
chướng ngại ta, việc nọ chướng ngại
ta, hoàn cảnh kia chướng ngại ta, đâu đâu
cũng đều là t́m pháp ngoài tâm, chẳng biết chướng
ngại thật sự phát sanh từ trong tâm! Nội tâm
thanh tịnh, chân thành, sẽ đột phá tất cả hết
thảy chướng ngại bên ngoài; hết thảy
chướng ngại đều biến thành trợ duyên,
đều giúp cho quư vị, đều thành tựu quư vị.
Sáu bài kệ tiếp
theo đây quy kết Văn Thù, Phổ Hiền, nguyện
đồng nhị thánh.
2. Nguyện đồng
nhị thánh
Chánh kinh:
Nhất thiết Như Lai hữu
trưởng tử,
Bỉ danh hiệu viết Phổ
Hiền tôn,
Ngă kim hồi hướng chư
thiện căn,
Nguyện chư trí hạnh tất đồng
bỉ,
Nguyện thân khẩu ư hằng thanh tịnh,
Chư hạnh, sát độ diệc phục
nhiên,
Như thị trí huệ hiệu Phổ
Hiền,
Nguyện ngă dữ bỉ giai đồng
đẳng.
(Hết
thảy Như Lai có trưởng tử,
Danh hiệu
Ngài là đức Phổ Hiền,
Tôi nay hồi
hướng các căn lành,
Nguyện
các trí hạnh đều giống Ngài,
Nguyện
thân - khẩu - ư luôn thanh tịnh,
Các hạnh,
cơi nước cũng giống thế.
Trí huệ
như thế gọi Phổ Hiền,
Nguyện tôi cùng Ngài
đều đồng đẳng)
Bài kệ
này khuyên chúng ta lấy Phổ Hiền Bồ Tát làm
gương, học theo Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền
Bồ Tát ở đâu? Phổ Hiền Bồ Tát chính là toàn
bộ kinh Hoa Nghiêm, nhưng phẩm kinh này chính là tổng kết
của kinh Hoa Nghiêm, tổng kết hết thảy những
lư luận, phương pháp tu hành, cảnh giới đă giảng
trong kinh Hoa Nghiêm, đúc kết thành mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Có đọc
Hoa Nghiêm Sớ Sao mới thật sự hiểu rơ Phổ
Hiền Bồ Tát, hiểu rơ Văn Thù Bồ Tát, biết phải
học theo các ngài như thế nào.
Những
tượng Phật thờ trong Phật môn đều nhằm
biểu thị pháp. Chính giữa thờ Phật, Phật
tượng trưng cho bản thể, tượng
trưng cho Chân Như Bản Tánh. Chân Như Bản Tánh là
thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh một pháp chẳng lập.
Bởi thế, trong hội Hoa Nghiêm, Phật chẳng thuyết
pháp (Ngài là bản thể, không cách ǵ diễn tả
được), chỉ có Bồ Tát thuyết pháp. Bồ
Tát biểu thị từ Thể khởi Dụng, khởi dụng
là pháp. Khởi Dụng nhất định phải dùng
đến hai vị Bồ Tát làm đại biểu: Một
là khởi tác dụng trí huệ (Trí), hai là khởi tác dụng
hành vi (Hạnh).
Hoa Nghiêm Tam
Thánh, chính giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, bên phải là
Phổ Hiền Bồ Tát (biểu thị hạnh nguyện),
bên trái là Văn Thù Bồ Tát (biểu thị trí huệ).
Trong hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền là trưởng tử,
Văn Thù là con thứ, nghĩa là giáo học Hoa Nghiêm lấy
hạnh nguyện (thực tiễn) làm chủ, nhưng hạnh
nguyện phải kiến lập trên cơ sở trí huệ.
Hạnh nguyện Phổ Hiền tối hậu là mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.
Chắc thật niệm Phật cầu sanh Tây Phương
Tịnh Độ chính là viên măn hạnh nguyện Phổ Hiền.
Kinh khuyên chúng ta phải học theo Phổ Hiền Bồ
Tát.
“Nguyện
thân khẩu ư luôn thanh tịnh”:
Người giác không mê, chánh không tà, tịnh chẳng nhiễm
th́ thân - ngữ - ư của người đó
đương nhiên thanh tịnh. Thân - ngữ - ư thanh tịnh
là thân tâm thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, cảnh giới
bèn thanh tịnh.
“Các hạnh,
cơi nước cũng giống thế”: Cảnh giới
thanh tịnh.
“Trí huệ
như thế gọi Phổ Hiền”: thân tâm, cảnh giới không ǵ chẳng
thanh tịnh, đó gọi là Phổ Hiền.
“Nguyện
tôi cùng Ngài đều đồng đẳng”: Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, là diệu pháp duy nhất được sử
dụng bởi các vị Văn Thù, Phổ Hiền. Nếu
chúng ta niệm Phật, tâm định nơi nhất tâm bất
loạn th́ sẽ chẳng khác ǵ Phổ Hiền cả.
Chánh kinh:
Ngă vị biến tịnh Phổ Hiền
hạnh,
Văn Thù Sư Lợi chư đại
nguyện,
Măn bỉ sự nghiệp tận vô
dư,
Vị lai tế kiếp hằng vô quyện,
Ngă sở tu hành vô hữu lượng,
Hoạch đắc vô lượng
chư công đức,
An trụ vô lượng chư hạnh
trung,
Liễu đạt nhất thiết thần
thông lực,
Văn Thù Sư Lợi dũng mănh trí,
Phổ Hiền huệ hạnh diệc
phục nhiên,
Ngă kim hồi hướng chư thiện
căn,
Tùy bỉ nhất thiết thường
tu học.
(Tôi v́ tịnh
khắp hạnh Phổ Hiền,
Và các
đại nguyện của Văn Thù,
Trọn
sự nghiệp ấy không c̣n sót,
Đến
tận vị lai thường chẳng mệt,
Hạnh
tôi tu hành không hạn lượng,
Đạt
được vô lượng các công đức,
An trụ
trong vô lượng các hạnh,
Thấu
rơ hết thảy sức thần thông,
Văn
Thù Sư Lợi trí dũng mănh ,
Huệ hạnh
Phổ Hiền cũng giống thế,
Tôi nay hồi
hướng các căn lành,
Thường
tu học theo hết thảy đó)
Nguyện
kiến lập trên cơ sở tín giải; hạnh lấy
nguyện làm cơ sở. Phải có đại nguyện
th́ mới có thể tu đại hạnh.
“Tôi v́ tịnh
khắp hạnh Phổ Hiền”: Hạnh pháp Phổ Hiền thanh tịnh trang nghiêm trọn
khắp. Trên thực tế, trong cuộc sống thường
nhật của chúng ta, một ngày từ sáng đến tối
những sự đăi người, tiếp vật đều
là những hạnh ấy.
“Và các
đại nguyện của Văn Thù”: Đại nguyện của Văn Thù
Sư Lợi cũng là cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ.
“Trọn
sự nghiệp ấy không c̣n sót”: Sự nghiệp của Phật, Bồ Tát là giáo hóa
chúng sanh, giúp đỡ người khác phá mê khai ngộ, ĺa
khổ được vui.
“Đến
tận vị lai thường chẳng mệt”: Đây là tinh thần của Phổ Hiền
Bồ Tát, mười đại nguyện vương mỗi
nguyện đều chẳng mệt chán.
“Hạnh
tôi tu hành không hạn lượng, đạt được
vô lượng các công đức”: Hai câu này nói lên thành tựu của chính ḿnh. Trong hết
thảy những ǵ ḿnh hành tŕ, ḿnh đă thành tựu vô
lượng công đức. Công đức là định huệ,
thành tựu vô lượng trí huệ cho chính ḿnh, vô lượng
thiền định (tam-muội, nhất tâm bất loạn).
“An trụ
trong vô lượng các hạnh, thấu rơ hết thảy sức
thần thông”: hai câu này nói
đến việc giáo hóa chúng sanh. Liễu đạt là
giác không mê, thị hiện năng lực lợi ích người
khác.
“Văn Thù Sư Lợi
trí dũng mănh”: Bài kệ này
nói lên nguyện vọng của chính ḿnh. Chúng ta muốn
được trí huệ như ngài Văn Thù, hạnh
đồng Phổ Hiền. Đem hết thảy những
thiện căn chính ḿnh đă tu học hồi hướng
chúng sanh, hồi hướng Bồ Đề, hồi
hướng pháp giới, thường học theo Phật,
thường học theo Văn Thù, Phổ Hiền.
Chánh kinh:
Tam thế chư Phật sở xưng
tán,
Như thị tối thắng chư
đại nguyện,
Ngă kim hồi hướng chư thiện
căn,
Vị đắc Phổ Hiền thù thắng
hạnh.
(Các đại
nguyện tối thắng như thế,
Được
tam thế chư Phật khen ngợi,
Tôi nay hồi
hướng các căn lành,
Để được
hạnh Phổ Hiền thù thắng)
Kết quy
hồi hướng. Trước tiên nói Bồ Tát hạnh
nguyện chẳng thể nghĩ bàn, là những hạnh
nguyện được tam thế chư Phật khen ngợi.
Tu mười đại nguyện, đem công đức hồi
hướng có nghĩa là trọn chẳng chấp trước.
Chẳng hồi hướng th́ công đức chỉ riêng
ḿnh có, đâu đâu cũng chấp vào chính ḿnh, chẳng phá
được Ngă Chấp. Hồi hướng là phá Ngă Chấp.
Có phá Ngă Chấp th́ văng sanh Cực Lạc sẽ có thể
vượt khỏi phẩm vị của chính ḿnh.
Phần kệ
tụng của mười đại nguyện
vương đến đây là hết, tŕnh bày xong hết
những ư nghĩa của phần Trường Hàng ở phần
trước. Tiếp theo đây là phần trần thuật
tánh đức thù thắng của kinh, đặc biệt là
khen ngợi những công đức thù thắng của bộ
kinh này.
3. Tán thán công đức
thù thắng của kinh này
Chánh kinh:
Nguyện ngă lâm dục mạng
chung thời,
Tận trừ nhất thiết chư
chướng ngại,
Diện kiến bỉ Phật A Di
Đà,
Tức đắc văng sanh An Lạc sát,
Ngă kư văng sanh bỉ quốc dĩ,
Hiện tiền thành tựu thử đại
nguyện,
Nhất thiết viên măn tận vô dư,
Lợi lạc nhất thiết chúng sanh
giới,
Bỉ Phật chúng hội hàm thanh tịnh,
Ngă thời ư thắng liên hoa sanh,
Thân đổ Như Lai Vô Lượng
Quang,
Hiện tiền thọ ngă Bồ Đề
kư,
Mông bỉ Như Lai thọ kư dĩ,
Hóa thân vô số bách câu-chi,
Trí lực quảng đại biến thập
phương,
Phổ lợi nhất thiết chúng sanh
giới.
(Nguyện
tôi lúc mạng sắp chấm dứt,
Trừ sạch
hết thảy mọi chướng ngại,
Tận mắt
thấy Phật A Di Đà,
Liền
được văng sanh cơi An Lạc,
Tôi đă
văng sanh cơi ấy rồi,
Hiện
tiền thành tựu đại nguyện này,
Viên măn hết thảy không c̣n sót,
Lợi lạc hết thảy chúng sanh giới,
Chúng hội Phật kia đều thanh tịnh,
Khi đó tôi sanh trong sen đẹp,
Chính mắt thấy Phật Vô Lượng Quang,
Liền được Phật thọ kư Bồ
Đề,
Được đức Như Lai thọ kư rồi,
Hóa thân vô số trăm câu-chi,
Trí lực rộng lớn trọn mười
phương,
Lợi
khắp hết thảy chúng sanh giới)
Bốn bài kệ
này là phần kệ tụng trọng yếu nhất của
phẩm kinh này, khải thị cho chúng ta điều trọng
yếu nhất, khiến chúng ta kiên định tín tâm, học
đ̣i Phổ Hiền Bồ Tát niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ. Mười sáu câu này là đại nguyện
do chính Phổ Hiền Bồ Tát phát ra, Ngài cũng niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Mười sáu câu này
cho thấy Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện văng sanh,
thọ kư thành Phật, thả chiếc bè từ phổ
độ chúng sanh. Mười sáu câu này là tinh hoa của bản
kinh, là phần tối tinh hoa trong những tinh hoa của
kinh Hoa Nghiêm, là đoạn văn tinh vi đẹp đẽ
nhất, chúng ta phải nhớ nằm ḷng.
Bài kệ thứ nhất nói lên t́nh h́nh văng sanh
và điều kiện để văng sanh.
“Nguyện
ngă lâm dục mạng chung thời” (nguyện tôi lúc mạng
sắp chấm dứt): Tôi ở
đây là Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ
Tát niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Lăo nhân gia phát nguyện, nguyện chính ḿnh
lúc lâm chung. “Dục” là sắp sửa, lúc c̣n chưa chết.
Lúc mạng sắp chấm dứt là cửa ải khẩn
yếu nhất. Lúc ấy, chẳng sanh Tây Phương ắt
phải luân hồi; đường đi đă đến
chỗ giao thoa, xem quư vị chọn lựa như thế
nào, có quan hệ thiết thân đối với mỗi cá
nhân đấy, phải nhớ kỹ! Đấy là cửa
ải sanh tử; gọi là “cửa ải sanh tử” v́ từ
đó sẽ sanh về đâu, ải này tối khẩn yếu.
“Trừ
sạch hết thảy mọi chướng ngại”: Chẳng trừ khử chướng ngại,
chẳng thể văng sanh. Một đời niệm Phật,
nếu lúc lâm chung chướng ngại hiện tiền, vẫn
chẳng thể văng sanh. Trừ khử chướng ngại
để trong sát-na cuối cùng chẳng bị chướng
ngại không thể văng sanh là một điều kiện tối
trọng yếu. Những chướng ngại nào? Vọng
niệm. Trong lúc đó khởi lên một vọng niệm là
hỏng rồi, chẳng đến Tây Phương
được! Có đảm bảo lúc ấy chẳng khởi
vọng niệm hay không? Rất khó. Bởi thế, thời
khắc mấu chốt ấy phải nhờ vào b́nh thường
dụng công, như thường nói: “Luyện binh ngàn
ngày, dùng binh một buổi”. Niệm Phật là luyện
binh, hy vọng dốc toàn bộ tinh thần chuyên chú vào một
câu Phật hiệu, trừ khử ư niệm vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước.
Lúc niệm
Phật chẳng khởi vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước là tâm thanh tịnh. B́nh thường làm
chủ được như thế, trong lúc bệnh làm chủ
được như thế, làm chủ được khi
bệnh sẽ làm chủ được khi sanh tử. Thấy
việc vừa ư tâm bèn hoan hỷ là tâm động; thấy
việc chẳng vừa ḷng tâm bèn nổi nóng; mừng, giận,
buồn vui, yêu ghét, muốn, thất t́nh, ngũ dục là
chướng ngại.
Trong sanh hoạt
thường ngày, xử sự, đăi người, tiếp
vật chẳng bị ngũ dục, lục trần lay
động, tâm chúng ta bèn được tự tại. Tự
tại là chẳng bị hoàn cảnh mê hoặc, lay động,
th́ Phật hiệu quư vị niệm đó mới tính là
đắc lực, công phu thành phiến. Chẳng bị cảnh
giới chuyển, một ngày niệm mười niệm
là đủ rồi, nếu vẫn c̣n bị cảnh giới
chuyển th́ một ngày niệm mười vạn tiếng
cũng chưa thấm vào đâu!
Làm sao mới
chẳng bị ngoại cảnh lay chuyển? Đây là học
vấn chân chánh, là công phu chân thật. Học vấn là thấy
thấu suốt, công phu là buông bỏ. Buông bỏ chẳng
phải là buông bỏ cảnh giới, chẳng phải là
buông bỏ trên mặt Sự, mà là buông bỏ nơi tâm. Sự
sự vô ngại, sự chẳng gây trở ngại. Trở
ngại là do ư niệm, là tâm. Sự th́ vẫn làm như
cũ, nhưng lại làm càng viên măn. Người chẳng
thấy thấu suốt, buông xuống, nh́n chẳng ra thiện
ác, thị phi sẽ làm chuyện lầm lạc. Thấy thấu
suốt, buông xuống, tâm thanh tịnh; đối với sự
vật thấy rơ ràng minh bạch, xét đoán sự việc
hợp lư, chẳng lầm lỗi tí nào.
Ngàn vạn
phần quư vị chớ vướng mắc vào thế sự
nhân t́nh. Cái ǵ cũng buông xuống hết th́ có phải là
người gỗ bất nhân chăng? Có phải là biến
thành kẻ ngây cuồng ư? Quư vị hiểu lầm rồi!
Buông thân tâm thế giới xuống sẽ biến thành một
người trí huệ nhất, đầu năo là trái cầu
thủy tinh, lưu ly, trong suốt lại có thể chuyển
động. [Chưa buông xuống được], năo chúng
ta là cục gỗ vuông vức, xoay không được, phía
nào cũng không hở một kẽ. Quư vị mới biết
thấy thấu suốt, buông xuống là cao minh vậy! Phải
nên học như thế.
Bồ Tát
thấy thấu suốt, buông xuống, bởi thế trong
sát-na lâm chung, trừ sạch hết thảy mọi chướng
ngại. Lúc b́nh thường, có lúc nào Bồ Tát lại chẳng
trừ sạch hết thảy mọi chướng ngại?
Chướng ngại ǵ cũng không có, bất luận khi
nào, bất luận ở đâu, tâm Ngài vĩnh viễn thanh
tịnh, giống như hoa sen chẳng dính nước.
Đối với thế giới ấy (Cực Lạc) có
thể văng sanh bất cứ lúc nào. Lúc nào muốn đi là
đi ngay lúc đó, nghĩ không đi cũng chẳng ăn
nhằm ǵ, không đi cũng được, sanh tử tự
tại. Thân như hoa sen chẳng dính nước, sanh tử
tự tại.
Muốn
đến được thế giới ấy (Cực Lạc)
nhất định phải buông xuống. Phải thật sự
buông xuống, nhất định phải thấy thấu
suốt. Thấy thấu suốt, buông xuống là công phu
viên măn thành tựu. Có những người thấy thấu
suốt, nhưng buông xuống không được. Có
người buông xuống được, nhưng không thấy
thấu suốt. Ngày thứ nhất buông xuống được,
ngày hôm sau lại hối; ngày thứ ba lại nắm giữ
lấy, buông xuống không được. Thật sự thấy
thấu suốt th́ lẽ đâu chẳng thể buông xuống
được? Buông xuống là được đại
tự tại. Buông xuống được rồi, hết
thảy thọ dụng thuận theo ḷng muốn.
Người
chân chánh buông xuống th́ mới có thể tâm tưởng sự
thành, vừa khởi ư niệm sự việc liền thành tựu,
rất tự tại! Ở đâu, lúc nào đều phải
trừ chướng ngại, chẳng được đợi
đến lúc lâm chung mới trừ. Đấy thật sự
là mấu chốt thành hay bại của công phu học Phật,
niệm Phật. Trong tâm thanh tịnh, chẳng có nhiễm
trước, công việc vẫn làm, giống như năm
mươi ba vị thiện tri thức đă nói trong kinh
Hoa Nghiêm. Người kinh doanh vẫn cứ buôn bán như
cũ, tâm địa thanh tịnh chẳng nhiễm trước,
dù thương trường qua lại là bùn nhơ hay là
nước trong, đóa sen của quư vị vẫn nở
trên mặt nước, chẳng nhiễm trước; vẫn
cứ làm việc như cũ, đó gọi là công phu thành tựu.
Làm việc theo kiểu đó, bất luận hạnh nghiệp
nào cũng không có ǵ chướng ngại; ấy là tu tâm.
Một câu
Phật hiệu khiến thân tâm ta thanh tịnh. Có vậy mới
có năng lực “tận mắt thấy Phật A Di
Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc”. Cơi
An Lạc tức là Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đến thế giới Cực Lạc như thế nào?
Trước hết là thấy Phật, sau đó văng sanh. Phật
đến tiếp dẫn cho nên trước hết thấy
Phật. Lúc thấy Phật, quang minh của Phật chiếu
soi người ấy, trong quang minh người ấy thấy
Phật, theo chân Phật sanh về thế giới Cực Lạc.
Thật ổn thỏa, thích đáng, chẳng sai chút ǵ! Phàm
là người văng sanh, không ai chẳng có cảnh giới
như thế. Lúc dứt hơi thở bèn mỉm cười,
nhất định văng sanh, bởi họ đă thấy
đức Phật. Lúc tắt thở, sắc mặt chẳng
tươi, tựa hồ có ǵ đau khổ, có hoảng sợ,
người ấy chẳng được văng sanh. Sanh về
Tây Phương rồi, t́nh trạng mỗi cá nhân phần lớn
tương đồng.
“Tôi
đă văng sanh cơi ấy rồi, hiện tiền thành tựu
đại nguyện này”: Phổ
Hiền Bồ Tát tại cơi này phương khác tu mười
đại nguyện, đều không có cách ǵ viên măn
được. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, được hoằng nguyện oai thần của
Phật A Di Đà gia tŕ, và được oai thần của
tận hư không trọn pháp giới hết thảy
chư Phật Như Lai gia tŕ, mười đại nguyện
bèn viên măn. Đấy là xứng tánh viên măn, là chân viên măn.
Tuy chúng ta
là phàm phu, dù chưa phá được một phẩm vô minh
nào, văng sanh Tây Phương Cực Lạc bèn giống hệt
như Phổ Hiền Bồ Tát, đều là tu tín nguyện
tŕ danh, nhân đă tương đồng th́ quả báo phải
giống hệt. Tất cả hết thảy chúng sanh trong
mười phương thế giới trên đến
Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chúng sanh
trong địa ngục, nơi nhân địa thảy đều
là tín nguyện tŕ danh; bởi thế, đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới thảy đều
b́nh đẳng.
“Viên măn hết thảy không c̣n sót”: Câu này chẳng thể nghĩ bàn, hết
thảy viên măn, không có ǵ chẳng viên măn. “Vô dư”
(không c̣n sót) là không c̣n mảy may nào khiếm khuyết, không
mảy may ǵ bỏ sót, mọi thứ đều viên măn. Chẳng
hạn như: trí huệ viên măn, đức năng viên măn,
dung mạo viên măn, năng lực viên măn, nguyện vọng
viên măn, giống như chư Phật Như Lai, hết
thảy đều viên măn.
Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ khuyên những vị
đồng tu nào học Mật Giáo th́ nhất định
phải xem ba bản kinh: Vô Lượng Thọ Kinh, A Di
Đà Kinh Yếu Giải của đại sư Ngẫu
Ích và Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Nếu chẳng
chiếu theo lư luận, phương pháp trong ba kinh ấy
để tu hành, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới th́ học Mật rất khó thành tựu! Hết
thảy viên măn, có năng lực trí huệ như thế,
đương nhiên là có thể “lợi lạc hết thảy
chúng sanh giới”. Giống như chư Phật, Như
Lai, cho nên có thể phổ độ hết thảy chúng
sanh, ban cho chúng sanh lợi ích lớn nhất, ban cho chúng sanh
khoái lạc chân chánh.
“Chúng hội Phật kia đều thanh tịnh”: Bài kệ này tường thuật t́nh
h́nh Tây Phương Cực Lạc thế giới; đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy thế
giới ấy thanh tịnh. Chữ “chúng hội” chỉ
t́nh huống tâm trạng con người trong xă hội. Tâm
địa mọi người đều thanh tịnh. Tâm thanh
tịnh, thân thanh tịnh, cùng tu cùng học một chỗ.
Phổ Hiền Bồ Tát thấy tướng lục ḥa
kính viên măn nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Khi đó tôi sanh trong sen đẹp”: Khi ấy, Bồ Tát hóa sanh trong hoa sen
nơi ao bảy báu trước đại giảng
đường của Phật A Di Đà. Chân chánh giác ngộ,
minh bạch thế giới này mọi thứ đều là
hư giả. Kinh Kim Cang nói: “Phàm cái ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Chẳng có ǵ là thật cả.
Kinh lại dạy: “Hết thảy pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi là pháp có
sanh, có diệt; trong thế gian này có một pháp nào chẳng
sanh diệt chăng? Con người có sanh, lăo, bệnh, tử;
tế bào hủy diệt, sanh mới trong từng sát-na.
Đó là pháp hữu vi. Ư niệm của chúng ta suốt ngày
suy bậy nghĩ bạ, vọng tưởng này dấy
lên, vọng tưởng này đi mất, lại có vọng
tưởng khác đến. Đó là pháp hữu vi. Tâm là pháp
hữu vi, thân cũng là pháp hữu vi. Hoa, cỏ, cây cối
cũng là pháp hữu vi, Xuân mọc, Hạ lớn, Thu rụng,
Đông khô; sơn hà đại địa cũng là pháp sanh
diệt, có thành - trụ - hoại - không. Nhờ viễn vọng
kính, các nhà khoa học thấy mỗi ngày đều có tinh cầu
bùng nổ hủy diệt; họ cũng phát hiện những
tinh cầu mới, chứng minh điều đức Phật
đă nói: Thế giới có thành - trụ - hoại - không.
Chỉ có hư không chẳng có sanh diệt, mấy
ngàn năm trước hư không như thế nào, mấy
ngàn năm sau hư không vẫn giống như thế.
Hư không chẳng phải là pháp hữu vi mà là pháp vô vi. Trừ
hư không ra, có ǵ chẳng phải là pháp hữu vi chăng?
Hết thảy pháp hữu vi như mộng, như huyễn,
như bọt nước, như h́nh bóng, đều chẳng
thật, đều giả cả. Nhận thức rơ ràng là
thấy thấu suốt, thấy thấu suốt nhân sanh,
thấy thấu suốt thế gian. Thấy thấu suốt
rồi, tự nhiên đối với chúng nó chẳng
lưu luyến, chẳng vướng mắc, chẳng quan
tâm đến chúng nó nữa. Quan tâm đến chúng để
làm ǵ cơ chứ? Chẳng phải là tự chuốc phiền
ư?
Nếu có
ai hỏi: Trong thế gian này, tôi có gia đ́nh, vợ con, lại
c̣n rất nhiều sự nghiệp, tôi phải làm sao
đây? Th́ cứ như đóng kịch, như diễn tuồng
trên sân khấu vậy thôi! Đóng kịch là lên sân khấu,
phân vai diễn tuồng rất thật, trong tâm biết rất
rơ ḿnh đang đóng tuồng, tất cả hết thảy
chẳng ăn nhập ǵ đến ta cả, sao trong tâm
không thanh tịnh cho được? Quư vị sống trong
thế gian này là đang nhập vai đóng tuồng, rất
tự tại, bởi chỉ là giả, chẳng phải thật.
Lúc đóng tuồng, lúc nào phải cười bèn cười,
lúc nào phải khóc bèn khóc, lúc nào phải vỗ bàn bèn vỗ
bàn, chẳng phải do ư ḿnh, mà phải theo kịch bản
đă soạn, toàn là giả, hoàn toàn là không. Sống
được như vậy có khác ǵ chư Phật, Bồ
Tát đâu!
Chư Phật,
Bồ Tát du hư thần thông trong thế gian này, chúng ta
cũng đến du hư thần thông trong thế gian này, tự
tại khoái lạc lắm! Ta đóng vở tuồng này là
nhằm lợi lạc hết thảy chúng sanh giới,
chúng ta giúp họ giải quyết vấn đề. Bọn
họ tưởng vở tuồng ấy là thật, bèn
đau khổ. Bồ Tát hóa sanh trong hoa sen, mỗi một
người chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thảy đều liên hoa hóa sanh. Thân tâm
thanh tịnh, tất nhiên cảm được liên hoa hóa
sanh. Nhân gian dục t́nh nặng nề, cảm được
thai sanh; đoạn dục t́nh, cảm được hóa
sanh. Bởi thế, nhất định phải thấy thấu
suốt, buông xuống.
“Chính mắt thấy Phật Vô Lượng
Quang”: Sanh về thế giới
Cực Lạc, thấy được Báo Thân Phật A Di
Đà. A Di Đà Phật là vô lượng đại viên
măn; trong vô lượng đại viên măn, Phổ Hiền Bồ
Tát chỉ nêu một thí dụ: quang minh, vô lượng quang
minh. Phàm ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, mỗi mỗi đều viên măn hệt như Phật
A Di Đà.
“Liền được Phật thọ kư Bồ
Đề”: Ở trước
đức Phật A Di Đà, được Phật thọ
kư. Thọ kư là báo trước cho người ấy biết:
“Lúc nào đó, ông sẽ thành Phật, trong tương lai
thành Phật ở nơi đâu, danh xưng của thế
giới là ǵ, danh hiệu lúc thành Phật, chúng sanh được
độ như thế nào”.
“Được đức Như Lai thọ kư
rồi”: Phổ Hiền Bồ
Tát được thọ kư rồi, thấy tiền đồ
rạng rỡ, thấy A Di Đà Phật được
đại tự tại. Đương nhiên là chưa
thành Phật, nhưng tự tại chẳng kém Phật chi
mấy! Ngài bèn có thể“hóa thân vô số trăm câu-chi”, có
năng lực hiện vô lượng vô biên thân. Phẩm Phổ
Môn nói: Nên dùng thân nào để được độ,
bèn hiện thân ấy. Thật tự tại quá! Bởi thế,
Phật, Bồ Tát chẳng có tướng nhất định.
Sanh về
Cực Lạc, tự ḿnh có năng lực giống như
Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Thế Chí. Chúng sanh cơ
duyên chín muồi, nên dùng thân nào để độ bèn có
năng lực thị hiện thân ấy. Tự ḿnh chẳng
ĺa khỏi thế giới Tây Phương, mà hóa thân đến
thị hiện. Tự ḿnh theo A Di Đà Phật nghe kinh,
nghe pháp, chẳng rời khỏi chỗ ḿnh, mười
phương đều có hóa thân của quư vị đến
giáo hóa chúng sanh. Sanh về Cực Lạc bèn có năng lực
như thế đó.
“Trí lực
rộng lớn trọn mười phương”: Trí huệ Bát Nhă từ tự tánh thấu
lộ, chẳng có chướng ngại, thấu xuất
ra. Trí huệ ấy rộng lớn khắp trọn mười
phương, tận hư không trọn pháp giới. Phật
pháp từ đầu đến cuối là cầu trí huệ,
từ đầu đến cuối là giảng trí huệ.
Chẳng có trí huệ, chẳng thể giải quyết vấn
đề. Cậy vào phước báo, cậy vào thần
thông, giải quyết vấn đề hữu hạn; chỉ
có trí huệ chân thật mới giải quyết được
viên măn hết thảy mọi vấn đề. Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, được
quang minh của Phật tưới rọi, nghiệp
chướng tiêu trừ, đức năng trí huệ của
bản tánh hiện tiền, có năng lực đến
mười phương thế giới hiện đủ
mọi thân, “lợi khắp hết thảy chúng sanh giới”,
khiến cho hết thảy chúng sanh được lợi
ích chân thật, trụ nơi trí huệ chân thật.
Chánh kinh:
Năi chí hư không thế giới
tận,
Chúng sanh cập nghiệp, phiền năo tận,
Như thị nhất thiết vô tận
thời,
Ngă nguyện cứu cánh hằng vô tận.
(Cho đến
hư không thế giới tận,
Chúng sanh
và nghiệp, phiền năo tận,
Do hết
thảy vô tận như thế,
Nguyện tôi rốt
ráo hằng vô tận).
Trùng tuyên lời tổng
kết mười đại nguyện ở phần trên,
cũng là nhằm bảo chúng ta phải học theo Phổ
Hiền Bồ Tát: Nguyện tâm chúng ta chẳng có lúc
ngưng nghỉ. Hiện tại chúng ta cầu học, học
Phật, hy vọng thành Phật, nguyện của ta chẳng
có cùng tận. Thành Phật rồi, nguyện này của ta
cũng chẳng ngưng dứt, giúp cho mười
phương hết thảy chúng sanh. Giống như học
hành ở trường, tốt nghiệp xong bèn phục vụ
xă hội, đem sở học cống hiến xă hội, lợi
ích đại chúng. Bồ Tát cũng giống thế,
đem sở học hết thảy đại viên măn của
ḿnh ra ứng dụng vào thân của hết thảy chúng sanh
tận hư không trọn pháp giới, khiến cho hết
thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ được
vui, tâm nguyện ấy vĩnh viễn chẳng ngưng dứt.
Chánh kinh:
Thập phương sở hữu vô biên
sát,
Trang nghiêm chúng bảo cúng Như Lai,
Tối thắng an lạc thí thiên nhân ,
Kinh nhất thiết sát vi trần kiếp,
Nhược nhân ư thử thắng
nguyện vương,
Nhất kinh ư nhĩ năng sanh tín,
Cầu thắng Bồ Đề tâm khát
ngưỡng,
Hoạch thắng công đức quá ư
bỉ.
(Mười
phương tất cả vô biên cơi,
Các báu trang nghiêm cúng Như Lai,
An lạc tối thắng thí trời người,
Trải hết thảy cơi vi trần kiếp,
Nếu với nguyện vương thù thắng
này,
Vừa thoảng qua tai bèn tin tưởng,
Cầu thắng Bồ Đề tâm khát ngưỡng,
Được
công đức vượt hơn người trước)
Nói lên công
đức lợi ích thù thắng của mười đại
hạnh nguyện Phổ Hiền. Trong vô lượng vô biên
tất cả thế giới chư Phật thuộc mười
phương, chúng ta dùng các báu để trang nghiêm cúng dường
Như Lai, dùng những sự an lạc tối thắng thí
cho trời người; nào phải chỉ tu một hai
ngày, mà là trải số kiếp nhiều như số vi trần
của hết thảy cơi, thời gian dài lâu không cách ǵ tính
đếm được. Công đức bố thí cúng
dường ấy rất lớn.
“Nếu
với nguyện vương thù thắng này, vừa thoảng
qua tai bèn tin tưởng”: Giả sử có kẻ nào
đó, có thiện căn, gặp được mười
đại nguyện vương thù thắng này, nghe xong hoàn
toàn tin tưởng, tin rồi bèn y giáo phụng hành, “cầu
thắng Bồ Đề tâm khát ngưỡng, được
công đức vượt hơn người trước”:
Bồ Đề là giác ngộ, nhất tâm nhất ư cầu
đại giác thù thắng, giống như người miệng
khát mong được uống nước, tâm t́nh khát
ngưỡng giác tánh viên măn thù thắng cũng giống
như thế.
Mười đại
nguyện vương là tổng cương lănh căn bản
của hết thảy Như Lai giáo pháp, bởi thế nguyện
vương tối thù thắng. Chẳng tu hạnh Phổ
Hiền, chẳng thể thành Phật (Viên giáo Phật), chẳng
thể thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nghe
mười đại nguyện vương, nhất tâm nhất
ư cầu Vô Thượng Bồ Đề, phát tâm tu hành
như thế (cúng dường bằng cách y giáo tu hành), công
đức ấy vượt xa công đức dùng trân bảo
cúng dường các Như Lai trong mười phương
vô lượng cơi Phật như trên đă nói.
Chánh kinh:
Tức thường viễn
ly ác tri thức,
Vĩnh ly nhất thiết
chư ác đạo,
Tốc kiến Như Lai Vô
Lượng Quang,
Cụ thử Phổ Hiền tối
thắng nguyện.
(Liền
thường xa ĺa ác tri thức,
Măi ĺa hết thảy các ác đạo,
Mau thấy Như Lai Vô Lượng Quang,
Đầy
đủ nguyện Phổ Hiền tối thắng)
Thực hiện
được mọi điều Phật giáo huấn gọi
là “tin Phật”. Vĩnh viễn ĺa ác tri thức, vĩnh viễn
ĺa các ác đạo, đấy là tiêu chuẩn của việc
tin Phật; chúng ta có làm được hay chăng?
“Vĩnh
viễn ĺa ác tri thức”:
Người ác, việc ác, hoàn cảnh ác, chúng ta phải
tách rời, phải tránh xa, chẳng được thân cận,
sợ tự ḿnh bị nhiễm dơ (kẻ sơ học
phải ĺa trên mặt sự, nhưng Bồ Tát có trí huệ
th́ phải ĺa nơi tâm).
“Măi
ĺa hết thảy các ác đạo”: Khởi tâm động
niệm đều phải thận trọng kiểm điểm:
Niệm này của chúng ta là thiện hay ác? Tất cả hết
thảy ác niệm phải ngưng dứt, tự nhiên chẳng
đọa ác đạo.
Người tu hành phải
thân cận thiện tri thức, xa ĺa ác tri thức. Xa ĺa là
“kính nhi viễn chi”, tôn kính họ, nhưng chẳng học
theo họ. Phải học theo thiện tri thức, lấy
họ làm gương. Phải giữ tấm ḷng tốt,
nói lời lành, phải làm việc tốt. Tiêu chuẩn của
“tốt” là lợi ích hết thảy chúng sanh, giúp hết thảy
chúng sanh khai trí huệ, tu tâm thanh tịnh. Tu hành được
như vậy, chẳng những được trí huệ
mà c̣n được phước báo phú quư, mạnh khỏe,
trường thọ.
Chánh kinh:
Thử nhân thiện đắc thắng
thọ mạng,
Thử nhân thiện lai nhân trung sanh,
Thử nhân bất cửu
đương thành tựu,
Như bỉ Phổ Hiền Bồ Tát hạnh.
(Người
ấy khéo được thắng thọ mạng,
Người
ấy khéo sanh trong loài người,
Người
ấy chẳng lâu sẽ thành tựu,
Các hạnh như Phổ
Hiền Bồ Tát)
“Người
ấy khéo được thắng thọ mạng”: Người tu hành chiếu theo đúng
phương pháp, lư luận trong kinh này, người ấy
sẽ được thọ mạng thù thắng. “Thắng
thọ mạng” là Pháp Thân thanh tịnh. Người ấy
chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh. Pháp Thân thanh tịnh
là vô lượng thọ chân chánh, vô thỉ vô chung. Nếu
căn cứ vào một đời này mà luận th́ thọ
mạng người ấy tối thù thắng, bởi lẽ
người ấy có thể nương theo kinh này tu học,
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, một
đời thành tựu.
“Người
ấy khéo sanh trong loài người”: Nương theo kinh này tu hành th́ thân
người quư vị có được trong đời này,
thọ sanh trong loài người là khéo sanh, chứ chẳng
phải là sống uổng, sống phí. Nếu quư vị chẳng
hiểu giáo nghĩa Hoa Nghiêm, chẳng biết cầu sanh Tịnh
Độ, một đời này thật là luống uổng,
thọ mạng của cả một đời này chẳng
có ư nghĩa, chẳng có giá trị ǵ, chẳng thể coi là
thù thắng được!
“Người
ấy chẳng lâu sẽ thành tựu”: Thành tựu là thành Phật. Nói kém
hơn th́ thành tựu là quyết định văng sanh. Trong một
đời này của người ấy, chẳng lâu sẽ
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân
trong thế giới Sa Bà đây là thân tối hậu, đời
sau là thân thượng thiện nhân trong thế giới Cực
Lạc.
“Các hạnh như Phổ
Hiền Bồ Tát”: Hạnh
của Phổ Hiền Bồ Tát là một đời niệm
Phật, cầu sanh Tịnh Độ, công đức viên
măn. Mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc.
Chánh kinh:
Văng tích do vô trí huệ lực,
Sở tạo cực ác ngũ vô gián,
Tụng thử Phổ Hiền đại
nguyện vương,
Nhất niệm tốc tật giai tiêu diệt.
(Xưa
kia do không sức trí huệ,
Đă tạo
ngũ vô gián cực ác,
Tụng
đại nguyện vương Phổ Hiền này,
Một niệm nhanh
chóng tiêu diệt hết)
Trong quá khứ
chẳng có trí huệ, ngu si, nên tạo rất nhiều nghiệp
chướng, thậm chí ngu si đến độ đáng
thương xót, chẳng hiểu rơ thiện ác. Người
khác làm ác, cứ tưởng họ tạo rất nhiều
sự nghiệp. Người khác làm lành, chẳng nhận
ra, chẳng biết đấy mới là sự nghiệp.
Do chính ḿnh ngu si, nên tư tưởng, ngôn ngữ, tạo
tác bất tri bất giác gây nên rất nhiều việc ác
nghiêm trọng, tạo tội nghiệp địa ngục
Vô Gián, nhưng chính ḿnh đều chẳng biết.
Nếu có kẻ
hỏi: Làm thế nào phân biệt đúng sai, thiện ác? Có
một phương pháp: Đọc tụng kinh điển
Đại Thừa. Ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát
nói: “Tụng đại nguyện vương Phổ Hiền
này”, đó là Ngài dạy chúng ta phương pháp. Nếu
có thể thực hành theo những giáo huấn trong kinh th́ là
đúng; nếu chẳng làm được như thế
th́ sai rồi, tạo nghiệp rồi.
Chẳng hạn
như: Phật dạy hiếu dưỡng phụ mẫu,
chúng ta có làm được hay không, làm được đến
đâu? Đối với chúng ta, cha mẹ chẳng cách
ngăn, chẳng có giới hạn, ta cùng cha mẹ là một
thể. Ta yêu thương, chăm sóc, quan tâm cha mẹ hoàn
toàn giống như chiếu cố thân ḿnh. Nếu nghĩ
cha mẹ già cả, rồi căi lẫy, chán ghét, khởi ư niệm
đó là bất hiếu, là tạo tội nghiệp vậy.
Đọc tụng Đại Thừa, đọc rồi
hành theo đó th́ hết thảy những tội nghiệp
đă tạo trong quá khứ đều tiêu trừ.
“Một
niệm nhanh chóng tiêu diệt hết”: Một niệm là nhất tâm. Có hai niệm
tội nghiệp chẳng tiêu được! Nhất niệm
tội nghiệp bèn tiêu trừ. Nhất niệm là chân tâm,
nhị niệm là vọng tâm. Vọng tâm là không trí huệ,
là tạo nghiệp. Nhất niệm là chân tâm, chân tâm chính là
trí huệ, chân tâm chẳng tạo nghiệp. Do đây biết
rằng: Kinh Di Đà thẳng thừng dạy chúng ta phải
tu nhất tâm bất loạn, đó là phương pháp bậc
nhất trong rất nhiều phương pháp tu hành
được giảng bởi kinh Hoa Nghiêm.
Làm thế nào để
đạt đến nhất niệm? Văn Thù dạy Thiện
Tài, Phổ Hiền dạy Thiện Tài đều là niệm
A Di Đà Phật. Chúng ta buông hết mọi ư niệm xuống,
chỉ giữ mỗi một niệm A Di Đà Phật, chỉ
chấp trước một niệm. Trong mười hai thời,
niệm niệm đều là A Di Đà Phật, điều
này chúng ta có thể làm được, chứ nhất niệm
thật sự th́ chúng ta chưa thể làm được.
Trong mười hai thời, một câu A Di Đà Phật
công phu thành phiến, quyết định văng sanh, văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ tội
nghiệp vô gián tự nhiên tiêu diệt.
Chánh kinh:
Tộc tánh chủng loại cập dung sắc,
Tướng hảo, trí huệ hàm viên
măn.
(Ḍng họ,
chủng loại và dung mạo,
Tướng tốt,
trí huệ đều viên măn)
“Tộc
tánh chủng loại”: Cổ
Ấn Độ có bốn giai cấp chủng tánh bất
b́nh đẳng. Phật thuộc giai cấp Sát Đế Lợi,
là ḍng vua, sanh trong nhà đế vương quư tộc. Phật
xuất gia rồi bèn đề xướng bốn chủng
tánh b́nh đẳng. Bất luận trong xă hội mang thân phận
địa vị nào đều chẳng quan trọng, Phật
pháp b́nh đẳng. Thân tâm thanh tịnh, theo lời Phật
răn dạy thực hành Ngũ Giới th́ quư vị
đúng thật là Bồ Tát. “Dung sắc”: dung mạo sắc
tướng. Sắc thể hiện sự khỏe mạnh
cường tráng. Chẳng những dung mạo đoan chánh,
thân thể c̣n cường tráng, đó là phước báo
đă tu từ đời trước.
Đệ tử Phật
chân chánh y giáo phụng hành, tất nhiên “tướng hảo,
trí huệ đều viên măn”. Tướng chuyển theo
tâm. Tâm thanh tịnh, tướng mạo thanh tịnh; tâm từ
bi, tướng mạo bèn từ bi; tâm sung sướng,
tướng mạo cũng sung sướng. Trong thế
gian, đức Phật thị hiện ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp, tướng
hảo viên măn. Chư Phật trí huệ, tướng hảo
viên măn cũng là do nhiều đời nhiều kiếp tu học
hạnh Phổ Hiền nên mới được thành tựu
thù thắng như thế.
Chánh kinh:
Chư ma ngoại đạo bất
năng tồi,
Kham vi tam giới sở ứng cúng
(Các ma ngoại
đạo không khuấy được,
Đáng để ba
cơi cùng cúng dường)
Người
chân chánh học Phật, hết thảy yêu ma quỷ quái, hết
thảy ngoại đạo, chẳng thể làm khó dễ,
cũng chẳng thể chướng ngại được.
Bởi lẽ, người ấy được chư Phật
hộ niệm, long thiên hộ pháp thần thủ hộ, chẳng
gặp phải yêu ma quỷ quái.
“Đáng để ba
cơi cùng cúng dường”: Câu
này ư nói đáng làm bậc Thiên Nhân Sư. Có thể làm
gương cho trời người, có tư cách tiếp nhận
sự cúng dường của trời người, bởi
lẽ người ấy là phước điền của
ba cơi. Trời người cúng dường người ấy
sẽ thật sự có phước báo.
Chánh kinh:
Tốc nghệ Bồ Đề đại
thọ vương,
Tọa dĩ, hàng phục chư ma chúng,
Thành Đẳng Chánh Giác chuyển pháp
luân,
Phổ lợi nhất thiết chư
hàm thức.
(Mau đến
cội Bồ Đề thọ vương,
Ngồi
rồi, hàng phục các loài ma,
Thành
Đẳng Chánh Giác chuyển pháp luân,
Lợi khắp hết
thảy các hàm thức)
Quả báo
là tám tướng thành đạo. Dùng thân phận Phật
xuất hiện trong thế gian giáo hóa chúng sanh.
“Tốc
nghệ” (mau đến) ư
nói tốc độ rất nhanh. Có thể thành tựu nhanh
chóng như thế, cũng là do tu học hạnh nguyện
Phổ Hiền đắc lực. Lấy Phổ Hiền hạnh
nguyện giúp cho việc niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ th́ quư vị mới có thể mau được
thượng phẩm thượng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới.
“Ngồi
rồi”: dưới gốc
Bồ Đề, đức Phật thị hiện tướng
thành đạo. Ngồi là bất động, tâm bất
động chứ không phải thân bất động. Nếu
thân chẳng động, làm sao giúp đỡ chúng sanh
được?
“Hàng phục
các ma”: Hàng ma phải nhờ
vào định huệ, ngoài chẳng chấp tướng,
trong tâm chẳng động, như như bất động,
ma phải bó tay.
“Thành
Đẳng Chánh Giác chuyển pháp luân”: Thị hiện thành Phật phải
giáo hóa chúng sanh, chuyển pháp luân. Chuyển pháp luân tức
là triển khai nền giáo dục của đức Phật.
“Hàm thức” là hữu t́nh chúng sanh. “Lợi khắp”:
lợi ích rộng khắp, giúp cho chúng sanh niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ.
Thành tựu
viên măn rồi th́ phải thực hiện hoằng nguyện
của chính ḿnh. Lúc mới học Phật, phát nguyện
độ chúng sanh, nhưng chưa có năng lực, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu đến
rốt ráo viên măn mới có năng lực độ chúng
sanh. Muốn thực hiện nguyện độ hết thảy
chúng sanh th́ nhất định phải thị hiện thành
Phật trong mười phương thế giới giảng
kinh, thuyết pháp phổ độ chúng sanh.
Phần
đầu kệ tụng, Phổ Hiền Bồ Tát dạy
chúng ta; phần sau, Ngài làm gương cho chúng ta. Trong phần
sau, Ngài nói về chính ngài, khuyên chúng ta nên bắt chước,
học theo Ngài. Thật là từ bi đến cùng cực,
so với tấm ḷng yêu thương, che chở, chiếu cố
của cha mẹ đối với con cái lại càng khẩn
thiết, châu đáo hơn. Chúng ta không thể không cảm
động!
Ba bài kệ tiếp
theo đây là tổng kết, khuyên chúng ta phát tâm thọ tŕ,
phát tâm học tập.
4. Khuyến chúc thọ
tŕ
Chánh kinh:
Nhược nhân ư thử Phổ Hiền
nguyện,
Độc tụng, thọ tŕ cập diễn
thuyết,
Quả báo duy Phật năng chứng
tri,
Quyết định hoạch thắng Bồ
Đề đạo.
(Nếu
ai với nguyện Phổ Hiền này,
Đọc
tụng, thọ tŕ và diễn nói,
Quả
báo chỉ Phật chứng biết nổi,
Quyết định
đắc Bồ Đề tối thắng)
Nếu có
ai đối với hạnh nguyện Phổ Hiền này mà
có thể đọc tụng, thọ tŕ, diễn thuyết,
đọc tụng th́ phải dùng tâm Phật, tâm Bồ Tát,
phải dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính để
đọc tụng. Lúc đọc tụng phải giống
như đang đối trước Phật, Bồ Tát tiếp
nhận lời giáo huấn, phải có ư cung kính.
“Thọ
tŕ” là tiếp nhận rồi
làm theo. “Diễn thuyết” là lợi tha. Diễn là biểu
diễn, Thuyết là giải nói. Biểu diễn mười
đại nguyện vương, chẳng hạn như: lễ
kính chư Phật, chúng ta trông thấy bất cứ ai
đều rất thành tâm thành ư cung kính, tỏ ra lễ
độ, đó là biểu diễn; chứ chẳng phải
là suốt ngày từ sáng đến tối đối
trước tượng Phật, Bồ Tát niệm mười
đại nguyện vương, nhưng đối với
người khác chẳng có lấy một điểm lễ
phép.
Tự ḿnh
làm rồi lại c̣n giải nói cho người khác, khiến
người ta cũng chịu làm. Đối với những
người chưa từng học Phật bèn đối xử
rất tốt với họ, dần dần dẫn dụ
họ học Phật. Đó là đại từ đại
bi, ban cho họ lợi ích chân thật. Phải giúp đỡ
chúng sanh học Phật, phá mê khai ngộ. Phải giúp đỡ
cho người trong một nhà, một nhà được
độ th́ cḥm xóm làng nước bèn được độ.
Bởi lẽ nhà ấy là gia đ́nh gương mẫu, gia
đ́nh ḥa thuận, trẻ nhỏ ngoan ngoăn, chăm chỉ,
lễ phép, điều hay đó mọi người đều
học theo; cho nên sự học Phật của quư vị sẽ
thành công. Nỗ lực đọc tụng, nỗ lực học
tập. Tiếp nhận sự giáo huấn của Phật,
có thực hiện được trong cuộc sống
thường nhật th́ sau đó mới diễn thuyết
được. Quư vị chẳng thể giảng lầm
ư nghĩa kinh điển là v́ quư vị có kinh nghiệm thực
hành tâm đắc, quư vị kể cho mọi người
biết th́ mới có thể lôi cuốn, cảm động
người khác được.
“Quả
báo chỉ Phật chứng biết nổi”: Tu học theo đúng hạnh nguyện
Phổ Hiền, quả báo chẳng thể nghĩ bàn, chỉ
ḿnh đức Phật hiểu được nổi, hàng
Đẳng Giác Bồ Tát đều chẳng thể biết
rơ ràng, người khác càng chẳng thể hiểu
được.
“Quyết định
đắc Bồ Đề tối thắng”: Thắng Bồ
Đề đạo là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, là quả vị Phật trong Viên Giáo. Công đức
lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh kinh:
Nhược nhân tụng thử Phổ
Hiền nguyện,
Ngă thuyết thiểu phần chi thiện
căn,
Nhất niệm nhất thiết tất
giai viên,
Thành tựu chúng sanh thanh tịnh nguyện.
(Nếu
ai tụng nguyện Phổ Hiền này,
Tôi nói
chút phần căn lành ấy,
Nhất
niệm hết thảy đều viên măn,
Thành tựu chúng sanh
thanh tịnh nguyện)
Nếu
như có người (chỉ mọi người) đọc
tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. “Ngă”
là tiếng Phổ Hiền Bồ Tát tự xưng. Có chút phần
thiện căn, gặp được, nghe được
kinh này bèn có tâm hoan hỷ. Nếu không thiện căn, chẳng
thể sanh tâm hoan hỷ. Chớ nên xem thường một
điểm thiện căn. Phổ Hiền Bồ Tát nói một
điểm thiện căn ngày nào đó nó sẽ thành đại
thiện căn phi thường; so với ai khác th́ nó nhỏ,
nhưng so với lục đạo chúng sanh nó là đại
thiện căn.
“Nhất niệm hết
thảy đều viên măn”:
Nhất niệm phải tương ứng, nhất niệm
tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật th́ hết thảy
đều thành tựu viên măn. Thành tựu đó là “thành tựu
nguyện thanh tịnh hết thảy chúng sanh”, khiến
cho chúng sanh thân tâm thanh tịnh.
Chánh kinh:
Ngă thử Phổ Hiền thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi
hướng,
Phổ nguyện trầm nịch chư
chúng sanh,
Tốc văng Vô Lượng Quang Phật
sát.
(Hạnh
Phổ Hiền thù thắng của tôi,
Vô biên
phước quư đều hồi hướng,
Nguyện
khắp mọi chúng sanh ch́m đắm,
Mau sanh cơi Phật Vô
Lượng Quang)
Chữ “chúng
sanh ch́m đắm” chỉ chúng sanh trong sáu đường.
Phổ Hiền Bồ Tát nguyện tất cả hết thảy
chúng sanh trong sáu đường đều nhanh chóng văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những
đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát đă tu trong niệm
niệm đều v́ chúng ta hồi hướng như thế.
III. KẾT QUY
Chánh kinh:
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát Ma
Ha Tát ư Như Lai tiền, thuyết thử Phổ Hiền
quảng đại nguyện vương thanh tịnh kệ
dĩ. Thiện Tài đồng tử dũng dược vô
lượng, nhất thiết Bồ Tát giai đại hoan
hỷ. Như Lai tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai!”
Nhĩ thời, Thế Tôn dữ chư thánh giả
Bồ Tát Ma Ha Tát, diễn thuyết như thị bất khả
tư nghị giải thoát cảnh giới thắng pháp môn
thời, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nhi vi thượng
thủ chư đại Bồ Tát cập sở thành thục
lục thiên tỳ-kheo. Di Lặc Bồ Tát nhi vi thượng
thủ Hiền kiếp nhất thiết chư đại
Bồ Tát. Vô Cấu Phổ Hiền Bồ Tát nhi vi thượng
thủ nhất sanh bổ xứ, trụ quán đảnh vị
chư đại Bồ Tát, cập dư thập
phương chủng chủng thế giới phổ lai tập
hội nhất thiết sát hải cực vi trần số
chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng. Đại Trí Xá Lợi Phất,
Ma Ha Mục Kiền Liên đẳng nhi vi thượng thủ
chư đại Thanh Văn. Tịnh chư nhân thiên, nhất
thiết thế chủ, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu
La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng,
nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết,
giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
(Lúc bấy
giờ, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát nói bài kệ thanh tịnh
mười nguyện vương Phổ Hiền rộng lớn
này xong, Thiện Tài đồng tử hớn hở vô
lượng, hết thảy Bồ Tát đều đại
hoan hỷ. Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay!”
Lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn cùng
các thánh giả Bồ Tát Ma Ha Tát diễn thuyết pháp môn thù
thắng cảnh giới giải thoát chẳng thể
nghĩ bàn như thế, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
làm thượng thủ [66] của các đại
Bồ Tát và sáu ngàn thầy tỳ-kheo do Ngài thành thục; Di
Lặc Bồ Tát làm thượng thủ của hết thảy
các đại Bồ Tát trong Hiền kiếp[67]; Vô Cấu Phổ
Hiền Bồ Tát làm thượng thủ của các đại
Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ trụ địa vị
Quán Đảnh[68], và các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát khác nhiều như số cực vi trần của
hết thảy biển cơi nước trong mười
phương đủ mọi thế giới khắp đến
nhóm hội. Đại Trí Xá Lợi Phất, Đại Mục
Kiền Liên v.v… là thượng thủ của các đại
Thanh Văn, và các trời người, hết thảy chúa
thế gian, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca
Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… hết thảy
đại chúng nghe lời Phật dạy, đều đại
hoan hỷ, tin nhận vâng làm)
Pháp hội giảng
kinh lần này đến đây viên măn, đem hạnh nguyện
Phổ Hiền báo cáo đại lược. Kinh văn
đem lại cho chúng ta rất nhiều chỉ dạy quư
báu, hy vọng các vị đồng tu thường nhớ
kỹ, tu hành đúng như lời dạy, nhất tâm
xưng niệm A Di Đà Phật, chẳng phụ ḷng kỳ
vọng của Phổ Hiền Bồ Tát đối với
chúng ta.
Lược Giảng
Giáo Nghĩa
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
hết
(dịch xong ngày 25 tháng 11 năm 2004)
HỒI HƯỚNG
Nguyện sanh về chốn Lạc Bang,
Hoa sen chín phẩm náu nương thân vàng,
Hoa nở thấy Phật chứng Vô
Sanh,
Bồ Tát Bất Thoái bạn lành với
ta.
[1] Bản Lục Thập Hoa Nghiêm
được ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch
vào thời Đông Tấn, gồm 7 xứ, 8 hội, 34 phẩm.
Bản này gọi là Cựu Dịch. Bát Thập Hoa Nghiêm do
ngài Thật Xoa Nan Đà dịch dưới thời
Đường, nhằm trào Vơ Tắc Thiên. Khi Sư dịch
xong, chính Vơ Hậu đă cầm bút ngự phê bài Khai Kinh Kệ
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp…” lên b́a cuốn
kinh này (theo Ḥa Thượng Tịnh Không). Bản này gọi
là Tân Dịch. Bản Tứ Thập Hoa Nghiêm tuy ghi là một
phẩm, đặt tên là Nhập Bất Tư Nghị Giải
Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm,
nhưng thật ra gồm hai phần: phần thứ nhất
(39 quyển đầu) tương ứng với phẩm
Nhập Pháp Giới trong Bát Thập Hoa Nghiêm và Phổ Hiền
Thập Chủng Hạnh Nguyện (quyển này là quyển
40, thường được tách ra lưu truyền
như một phẩm riêng, thường gọi là Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm). Tứ Thập Hoa Nghiêm
do ngài Bát Nhă Tam Tạng xứ Kế Tân (thuộc địa
phận Kashmir, Ấn Độ) dịch từ Phạn sang
Hán.
[2] Cách phân chia các hội ở đây dựa
theo bản Bát Thập Hoa Nghiêm, Ḥa Thượng Tịnh
Không cho biết:
1) Hội thứ nhất
tại Bồ Đề đạo tràng gồm sáu phẩm,
mười một quyển. Phổ Hiền Bồ Tát giảng
về y báo nhân quả của đức Tỳ Lô Giá Na Phật.
2) Hội thứ hai giảng
tại điện Phổ Quang Minh, cũng là do Phổ Hiền
Bồ Tát nói về chánh báo nhân quả của Phật, gồm
ba phẩm. Nửa phần sau hội thứ hai, Văn Thù Bồ
Tát giảng Thập Tín, giảng về Sơ Phát Tâm, tổng
cộng ba phẩm.
3) Hội thứ ba trên
trời Đao Lợi, giảng trên cung trời Đao Lợi
do Pháp Hội Bồ Tát chủ giảng. V́ thế, hội
thứ ba do Pháp Hội Bồ Tát giảng Thập Trụ,
có sáu phẩm, ba quyển.
4) Hội thứ tư
tại trời Dạ Ma, do Công Đức Lâm Bồ Tát giảng
pháp môn Thập Hạnh, cũng gồm bốn phẩm, ba
quyển.
5) Hội thứ
năm trên trời Đâu Suất – Di Lặc Bồ Tát sống
trên trời Đâu Suất – Hội này do Kim Cang Tạng Bồ
Tát giảng pháp môn Thập Hồi Hướng, có ba phẩm,
gồm mười hai quyển.
6) Hội thứ sáu tại
trời Tha Hóa Tự Tại, do Kim Cang Tạng Bồ Tát làm
hội chủ, giảng pháp môn Thập Địa. Hội
này chỉ có một phẩm, nhưng là một phẩm rất
dài đến cả sáu quyển.
7) Hội thứ bảy
lại là điện Phổ Quang Minh, trong hội này, đức
Phật làm chủ, giảng về Đẳng Giác, về
Diệu Giác. Phần này gồm mười một phẩm,
mười ba quyển.
8) Hội thứ tám
cũng tại điện Phổ Quang Minh, Phổ Hiền
Bồ Tát giảng, chủ yếu nói về các pháp môn tu
hành. Phổ Hiền Bồ Tát nói hai ngàn pháp môn tu hành. Phần
này chỉ có một phẩm, gồm bảy quyển.
9) Hội thứ chín tại
rừng Thệ Đa, tức là vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc, diễn tả cuộc cầu pháp tham học
với năm mươi ba vị thiện tri thức của
Thiện Tài Đồng Tử.
[3] Theo đại sư Thanh Lương
phán định, kinh Hoa Nghiêm chia làm bốn khoa:
a) Cử
Quả Khuyến Yếu Sanh Tín Phần (Phần nêu quả
để khuyên phải sanh ḷng tin), tức là Tín phần: Gồm
hai hội đầu trong mười hội, giảng về
Y Báo, Chánh Báo trang nghiêm của Phật Tỳ Lô Giá Na, thuyết
minh thế giới của đức Phật để
hành nhân từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên ngưỡng
mộ quả báo, phát sanh ḷng tin chân thật.
b) Tu Nhân Khế Quả
Sanh Giải Phần (phần tu nhân, khế nhập quả,
sanh hiểu), c̣n gọi là Giải Phần: Giảng về
lư luận, nhân như thế nào, quả như thế nào.
Phần này gồm các hội thứ ba, tư, năm, và sáu.
c) Thác Pháp Tấn Tu
Thành Hạnh Phần, tức là nói về Hạnh của bậc
Diệu Giác, Đẳng Giác, gồm toàn bộ kinh văn
thuộc hội thứ bảy và hội thứ tám.
d) Y Nhân Chứng Nhập
Thành Đức Phần, tức Chứng Phần, nói về
cách dùng Tu Đức để hiển Tánh Đức, cụ
thể là việc tham học của Thiện Tài Đồng
Tử và mười đại nguyện Phổ Hiền
[4] Lục Tướng: sáu tướng của
sự vật trong vạn hữu:
a) Tổng
tướng: một pháp duyên khởi đầy đủ
nhiều đức, như thân người đầy
đủ các căn.
b) Đồng
tướng: nhiều đức ḥa hợp nương nhau
tạo thành một pháp, nhưng không chống trái nhau.
c) Dị
tướng: nhiều đức khác nhau tạo thành một
pháp, như các căn tạo thành thân người, nhưng mỗi
căn mỗi khác.
d) Thành
tướng: nhiều đức nương nhau tạo
thành một tướng, như sáu căn hợp thành thân
người.
d) Hoại
tướng: mỗi căn đều trụ nơi bản
vị, không dời đổi, nên không thành tổng tướng.
Thập Huyền Môn:
xin xem phần Chú Giải kinh Vô Lượng Thọ của
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, quyển thứ nhất.
Tứ pháp giới: tức
Sự vô ngại, Lư vô ngại, Lư Sự vô ngại và Sự
Sự vô ngại.
[5] Đại Phương Quảng: Đại
gồm ba nghĩa:
a) Pháp thân
của Phật rộng lớn vô lượng vô biên. Tất
cả hết thảy cảnh giới thảy đều
trọn khắp đầy đủ. Bởi thế gọi
là Đại.
b) Các môn trí huệ của
Phật vừa cao vừa rộng, nhiều vô cùng vô tận
nên gọi là Nhất Thiết Chủng Trí (thấu đạt
chân tánh của hết thảy pháp), nên gọi là Đại.
c) Đức Phật chứng được diệu pháp tối thắng, không cảnh giới Bồ Tát nào vượt trỗi hơn được, chỉ ḿnh đức Phật có khả năng hóa độ mọi chúng sanh ứng theo c