Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 1

觀無量壽佛經疏鈔演義

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Thời gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990

Địa điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

      Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 1

 

      Xin chư vị mở phần Lời Tựa trong sách Sớ Sao Diễn Nghĩa, cũng là trang thứ nhất theo cách đánh số bằng chữ số Ả Rập[1] ở cuối trang, mở trang thứ nhất, tức trang thứ nhất sau phần Khoa Phán.

      Lần này tôi được Diệp cư sĩ khải thỉnh, giảng bộ Quán Kinh Diệu Tông Sao. Chúng tôi đang in Sớ Sao[2], có thể sẽ gởi tới ngày hôm nay. Sau khi nhận được sách, sẽ chia ra biếu tặng các vị đồng tu. Sớ Sao không chỉ phân lượng lớn, lại c̣n có mức độ khá tinh vi, sâu thẳm, trong kỳ hạn một tuần ngắn ngủi rất khó giảng xong! Khóa giảng này, chúng tôi chọn bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa. [Có danh xưng] Diễn Nghĩa là do lăo pháp sư Đế Nhàn đă viết một bản tinh giản cho bộ Diệu Tông Sao, tức là chọn lọc những phần trọng yếu và tinh hoa. V́ thế, sách Diễn Nghĩa chính là tinh hoa của Sớ Sao. Lần này, chúng tôi cùng chư vị chung sức nghiên cứu, cũng dùng phương thức tinh giản, ngơ hầu trong khoảng thời gian ngắn ngủi chư vị có thể nhận biết khái lược lư luận, cách tu học, nhân quả, và thành tựu của Tịnh Tông, như vậy th́ mục đích của khóa giảng này đă đạt được! Do đó, tôi cũng chẳng bỏ qua lời tựa của lăo pháp sư, v́ Ngài viết lời tựa rất hay; những điểm trọng yếu trong lời tựa cũng cần phải đề cập.

Chúng ta xem lời tựa, “Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa tự”, trước hết, hăy đọc đoạn ấy một lượt: “Di Đà kinh dĩ tín nguyện lực tŕ Phật danh hiệu, vi chí trực tiệp, chí viên đốn, tối cực ổn đáng, tối dị thành tựu, thị Thế Tôn triệt để bi tâm, phổ linh nghiệp trọng chúng sanh hoành siêu tam giới, đới nghiệp văng sanh, cố xưng dị thắng phương tiện chi pháp môn dă” (Kinh Di Đà dùng sức tín nguyện để tŕ danh hiệu Phật, là [cách tu] thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, ổn thỏa, thích đáng tột bậc nhất, dễ thành tựu nhất, đó là bi tâm triệt để của đức Thế Tôn, khiến cho khắp các chúng sanh vượt khỏi tam giới theo chiều ngang, đới nghiệp văng sanh, nên được gọi là “pháp môn có phương tiện thù thắng lạ thường”).

Ba bộ kinh trọng yếu nhất trong Tịnh Độ Tông là kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và kinh này, được gọi là Tịnh Độ Tam Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ là khái luận của Tịnh Độ Tông, giới thiệu viên măn y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, nên là một bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh Độ Tông. Kinh Di Đà là tinh yếu của kinh Vô Lượng Thọ, điểm đặc sắc trong kinh ấy là khuyến tín, khuyến nguyện, khuyến hành. Những điểm đặc sắc của kinh Di Đà đă được nêu rơ bởi mấy câu này [của pháp sư Đế Nhàn], xác thực là “dị thắng phương tiện”, “dị” () là lạ lùng, chẳng giống với những kinh điển và pháp môn khác, “thắng” () là thù thắng. [“Dị thắng phương tiện”] là pháp môn thù thắng lạ lùng, thuận tiện khôn sánh. Cũng có thể nói là [trong khi] bất cứ phương pháp nào cũng đều chẳng độ được, [v́] nghiệp chướng và tập khí của các chúng sanh ấy quá nặng, đều độ không được, th́ pháp môn này có thể độ. V́ vậy, pháp môn này đích xác là pháp môn thù thắng bậc nhất!

Chúng ta nh́n lại kinh này, [kinh này] thiên trọng lư luận và phương pháp của Tịnh Tông. Phương pháp là mười sáu phép Quán, bao gồm Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, và Tŕ Danh Niệm Phật, các phương pháp niệm Phật đều có trong bộ kinh này. Đồng thời, kinh lại c̣n giảng rơ nhân quả của bốn cơi và chín phẩm trong Tịnh Độ rơ ràng, cặn kẽ hơn Tam Bối Văng Sanh (ba bậc văng sanh) trong kinh Vô Lượng Thọ. V́ thế, đối với người tu Tịnh Độ, nói thực tại, phải hợp ba kinh lại để xem th́ mới có thể liễu giải và nhận thức triệt để Tịnh Tông, tín tâm mới có thể sanh khởi. Về sau, các vị đại đức như cư sĩ Ngụy Nguyên đă ghép phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện vào sau ba kinh, trở thành Tịnh Độ Tứ Kinh; lăo pháp sư Ấn Quang là một vị tổ sư cận đại của Tịnh Tông lại ghép chương Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm vào sau bốn kinh, trở thành Tịnh Độ Ngũ Kinh. Chúng ta suy nghĩ, có c̣n cần phải ghép thêm một kinh nào nữa để thành Tịnh Độ Lục Kinh hay không? Nói thật ra, đến năm kinh là đă thật sự viên măn trọn đủ, chẳng cần đến sáu kinh, chẳng cần thêm nữa, đă đạt đến viên măn rồi! V́ thế, tu hành trong Tịnh Tông, năm bộ kinh ấy là viên cực, tức là đă đạt đến viên măn tột bậc, mà cũng là đốn cực (nhanh chóng tột bậc). Đó là người trong thời đại chúng ta có phước, kinh điển hoàn bị đă xuất hiện trong thời này!

Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Cổ đức vân: Nhược nhân đản niệm A Di Đà, thị danh Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”. (Cổ đức nói: “Nếu ai chỉ niệm A Di Đà, bèn gọi là Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”). Nói rơ Niệm Phật là Thiền học vô thượng thậm thâm vi diệu. Không chỉ là Thiền, một câu A Di Đà Phật c̣n là vô thượng thần chú, từ kinh Vô Lượng Thọ chúng ta thấy được điều này. Mật Tông trong cơi này do Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát truyền dạy. Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) là người sáng lập Mật Tông, là tổ sư khai sơn đời thứ nhất của Mật Tông; vị Bồ Tát ấy là hóa thân của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát đề xướng Tịnh Độ đầu tiên, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, nên một câu A Di Đà Phật là vô thượng thần chú của Mật Tông. Quư vị niệm câu A Di Đà Phật, không chỉ là Giáo, mà c̣n bao gồm Thiền, lại c̣n bao quát Mật, cũng bao gồm giới luật, tất cả hết thảy các pháp môn đều được bao gồm chẳng sót! Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn; trước hết, chúng ta phải nhận biết rơ ràng điều này.

Kế đó, lời tựa viết: “Ngô nhân quả năng y giáo tu hành, dĩ chân tín thiết nguyện, đản niệm Di Đà, tắc vô luận thời chi cửu cận” (chúng ta thật sự có thể tu hành đúng như lời dạy, dùng ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, chỉ niệm Di Đà, ắt chẳng cần bàn tới thời gian [niệm Phật] đă lâu hay mới đây). “Cửu” () là quư vị niệm Phật trong một thời gian dài. “Cận” () là quư vị niệm Phật trong một thời gian ngắn, thậm chí khi lâm chung mới bắt đầu niệm Phật vẫn chẳng trễ. “Công chi thiển thâm” (công phu sâu hay cạn), “công” () là nói tới công phu. Công phu là nói về mức độ khuất phục phiền năo, tâm địa thanh tịnh. “Lâm mạng chung thời, quyết định văng sanh. vô khả nghi giả” (Lúc lâm chung, chắc chắn văng sanh, chẳng thể nghi ngờ). Đến đây là một đoạn, đều nhằm khuyên chúng ta phải nghiêm túc tu học pháp môn này.

Hai ḍng tiếp theo rất trọng yếu: “Như kỳ tín bất chân, nguyện bất thiết, niệm bất chuyên giả, bất danh đản niệm” (Nếu tín chẳng chân thật, nguyện chẳng thiết tha, niệm chẳng chuyên th́ chẳng gọi là “chỉ niệm”). Đó chẳng gọi là “đản niệm” (但念). “Đản niệm” là chuyên niệm. Kinh Vô Lượng Thọ nói “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Câu “chuyên niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ chính là “đản niệm” được nói ở đây. Như thế sẽ không gọi là “nhất hướng chuyên niệm”. “Năi danh tạp niệm” (mà gọi là tạp niệm); chẳng phải là chuyên niệm, mà là tạp niệm. “Tuy khẳng niệm Phật, nan trăn thật ích” (tuy chịu niệm Phật, khó đạt được lợi ích thật sự). Tuy niệm Phật, không dễ ǵ đạt được lợi ích chân thật do niệm Phật. Lợi ích chân thật là ǵ? Văng sanh trong đời này, đó là lợi ích chân chánh. Đời này chẳng thể văng sanh, sẽ chẳng đạt lợi ích chân thật. “Sở dĩ niệm Phật nhân đa, văng sanh giả thiểu nhĩ” (do đó, người niệm Phật đông, người văng sanh ít ỏi). Đạo lư ở ngay chỗ này. Ở đây, đại sư đă giảng rất rơ ràng, minh bạch.

Lăo pháp sư tuy là tổ sư bên Thiên Thai Tông, nhưng Ngài niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong hội của Ngài, người niệm Phật văng sanh, biết trước lúc mất rất nhiều. Trước kia, chúng ta đă nghe lăo pháp sư Đàm Hư kể: Ngài Đế Nhàn có một học tṛ, tức là đồ đệ, không biết chữ, chưa từng nghe kinh, chưa hề nghe Phật pháp. Ông ta theo lăo nhân gia xuất gia, Sư dạy ông ta một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Sư bảo: “Ông cứ niệm măi một câu Phật hiệu ấy. Hễ niệm đă mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ khoẻ rồi bèn niệm tiếp, tương lai nhất định có lợi”. Nói thật ra, người học tṛ ấy hết sức thật thà, tuân theo lời thầy dạy một trăm phần trăm. Ông ta niệm như vậy, hễ niệm đă mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi khỏe khoắn xong lại niệm tiếp. Niệm ba năm, biết trước lúc mất, đứng văng sanh. Sau khi văng sanh, c̣n đứng sững suốt ba ngày, chờ sư phụ đến lo liệu hậu sự cho ḿnh. Chuyện này chẳng dễ dàng, sau khi văng sanh c̣n đứng suốt ba ngày! Vị này là học tṛ của lăo pháp sư Đế Nhàn. V́ lẽ đó, chuyện này ngàn vạn phần chân xác. Bản chú giải này của lăo ḥa thượng là công phu tu chứng chân thật của Ngài, tuyệt đối chẳng có một câu nào là vọng ngữ, chúng ta hăy nên y giáo phụng hành.

      Đối với phần c̣n lại của lời tựa, quư vị tự xem, tôi chỉ đề cập những chỗ trọng yếu với quư vị. Chúng ta xem trang thứ hai, số trang đều được ghi ở cuối trang. Xem từ ba chữ cuối của ḍng thứ tư: “Phật thuyết tam chủng Tịnh nghiệp, đáp bỉ tư duy, thuyết thập lục diệu quán, thù kỳ Chánh Thọ” (Đức Phật nói ba thứ Tịnh nghiệp để đáp câu hỏi của bà ta về cách tư duy, nói ra mười sáu phép Quán mầu nhiệm để trả lời câu hỏi về Chánh Thọ). Chữ Bỉ () chỉ phu nhân Vi Đề Hy. Bà ta gặp hoàn cảnh xấu hèn, nói theo cách bây giờ, con trai của bà ta làm chánh biến (đảo chánh) đoạt quyền, cha anh ta là quốc vương. Anh ta đoạt quyền của cha, giết cha, hại mẹ. Trong t́nh huống như vậy, bà ta phát tâm chẳng muốn ở trong thế gian này, mong cầu sanh Tịnh Độ, mong đức Phật dạy cho biết có nơi nào tốt đẹp để bà ta sanh về đó hay không! Thích Ca Mâu Ni Phật dùng thần lực, biến hiện hết thảy các cơi Phật trước mặt phu nhân Vi Đề Hy để bà ta tự xem, tự ḿnh chọn lựa. Sau khi xem xong, bà ta thưa rơ với Thích Ca Mâu Ni Phật, mong mỏi được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. [Ư nguyện] cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới do chính phu nhân Vi Đề Hy chọn lựa, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu. Phật độ chúng sanh, phương pháp rất dân chủ, chẳng phải là chuyên chế, chẳng khuyên quư vị đến đâu, mà cho quư vị thấy toàn thể các cơi Phật để quư vị tự do chọn lựa. Đương nhiên, bà ta chọn lựa cơi tốt nhất, điểm này đáng cho chúng ta chú ư. Sau khi đă chọn lựa, bà ta liền thỉnh giáo Thích Ca Mâu Ni: “Làm thế nào th́ mới có thể sanh về đó?” Do vậy, ở đây, đức Phật mới nói ra hai phương pháp quan trọng:

- Một là ba thứ Tịnh nghiệp,

- Hai là mười sáu phép Quán mầu nhiệm.

Đấy là dạy cho bà ta phương pháp trọng yếu để tu Tịnh Độ.

      Trong đoạn này, cụ Đế Nhàn đă nói rơ: “Tiền thập nhị Quán, vị thượng căn nhân, giáo Quán Tưởng Niệm Phật” (mười hai phép Quán đầu để dạy người thượng căn tu Quán Tưởng Niệm Phật). Người thượng căn như vừa mới nói chính là người phiền năo nhẹ, căn tánh ấy là thượng căn. Phép Quán thứ mười ba là Quán Tượng Niệm Phật (mười hai phép Quán trước đó là Quán Tưởng Niệm Phật) để dạy kẻ trung căn. Trung căn th́ phiền năo nặng hơn một chút, mười hai phương pháp trước đó chẳng thích hợp. Phép Quán cuối cùng, tức phép Quán thứ mười sáu dành cho kẻ hạ căn, hạ căn là ai? Kẻ ác nghiệp nặng nề.

Quư vị xem trang thứ hai, ḍng thứ tư từ dưới đếm lên: “Duy tối hậu nhất Quán, vị tối hạ căn nghiệp trọng ác nhân, lâm chung ngục cảnh hiện tiền chi thời, thiện hữu giáo linh xưng Phật danh hiệu, tức đắc văng sanh” (Chỉ có phép Quán cuối cùng là v́ kẻ ác, căn cơ thấp nhất, nghiệp nặng nề, lúc lâm chung cảnh địa ngục hiện tiền, bạn lành dạy người ấy xưng niệm danh hiệu Phật, liền được văng sanh). Đây là kẻ tạo tác Ngũ Nghịch, Thập Ác, nghiệp chướng vô cùng nặng nề. Chúng ta hăy nghĩ xem nghiệp chướng của chính ḿnh có nặng nề hay không? Có người nói: “Tôi chẳng phải là thượng căn, cũng coi như là trung căn, c̣n chưa đến mức hạ căn”. Thật ra, quư vị đọc kinh này kỹ càng, [sẽ thấy] chúng ta đích xác là kẻ hạ hạ căn. Chúng ta tạo ác nghiệp, ác nghiệp cực nặng, nhưng chính ḿnh không biết, chính ḿnh chẳng giác ngộ! Hy vọng trong một tuần này, sau khi quư vị nghe xong, có thể tự ḿnh biết bản thân nghiệp chướng, tập khí nặng nề th́ quư vị đến tham gia pháp hội lần này sẽ có thu hoạch! Người tội nghiệp cực nặng, phương pháp ǵ sẽ có thể độ được? Tŕ danh niệm Phật có thể độ. Tập khí nghiệp chướng, tội nghiệp nặng nề, đừng sợ! Sợ là sợ chính ḿnh không biết, chẳng biết quay đầu, chẳng biết niệm Phật th́ chẳng c̣n có cách nào cả! Tội nghiệp cực nặng, nhưng tự biết chính ḿnh nghiệp chướng nặng nề, biết niệm Phật, biết cầu sanh Tịnh Độ, vậy th́ có thể cứu được, chẳng phải là không thể cứu. V́ thế, pháp môn này thật sự là một pháp môn chẳng thể nghĩ bàn.

      Chúng ta lại xem ḍng thứ sáu nơi trang thứ ba kế đó, đọc câu cuối cùng: “Kinh vân, tŕ thị kinh giả, tức thị tŕ Vô Lượng Thọ Phật danh, túc chứng tŕ kinh, tŕ danh, vô nhị trí dă. Tu tri Tŕ Danh nhất pháp, pháp nhĩ viên cụ Tam Quán diệu hạnh, sở vị ngô nhân nhật dụng tự bất tri nhĩ” (Kinh dạy: “Tŕ kinh này chính là tŕ danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”. Đủ chứng tỏ tŕ kinh và tŕ danh chẳng hai. Cần biết rằng: Một pháp Tŕ Danh vốn sẵn trọn đủ diệu hạnh Tam Quán, đó gọi là “bọn chúng ta sử dụng hằng ngày mà chẳng hay biết”). Mấy câu này rất trọng yếu, khai thị minh bạch: Niệm Phật và niệm kinh như nhau. Đúng như trong chương Viên Thông, Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật”. V́ nghiệp chướng tập khí của chính ḿnh rất nặng, trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc nhở chư vị đồng tu điều này, nghiệp chướng là ǵ? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất rơ ràng, vọng tưởng và chấp trước là nghiệp chướng. Trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất rơ rệt, Ngài nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng và chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Vọng tưởng là Sở Tri Chướng, chấp trước là Phiền Năo Chướng. Quư vị có hai thứ ấy tồn tại, nên chẳng thể thấy Phật, chẳng thể minh tâm kiến tánh. Tu học trong Phật pháp là trừ hai chướng mà thôi, dùng phương pháp là Giới, Định, Huệ. Những điều được gọi là Giới chính là “lấy độc trị độc”, dạy quư vị nghiêm tŕ giới luật. “Tŕ” () là chấp trước, dùng phương pháp chấp trước để phá chấp trước, lấy độc trị độc mà! Chúng ta phải hiểu điều này!

      Mục đích của Giới là ở chỗ nào? Mục đích là đắc Định. Tŕ giới luật dẫu tốt đẹp cách mấy, nhưng tâm chẳng thanh tịnh th́ Giới ấy liền biến thành phước báo hữu lậu, biến thành một thứ thiện hạnh trong thế tục. Điều thiện trong thế tục chẳng phải là chân thiện, mà là phước báo hữu lậu, nhất định phải đắc Định! Giống như chúng ta lên cầu thang, giới luật giống như cầu thang, nhằm mục đích nào? Phải tiến lên tầng lầu bên trên, chẳng thể ngừng tại cầu thang, chẳng tiến lên! [Ngừng tại đó] là sai lầm! Trèo lên thang lầu để tiến lên tầng trên, ắt cần phải bỏ tầng dưới th́ mới có thể lên được tầng trên. V́ thế, nói là “xả đắc” (có bỏ th́ mới đạt được), quư vị có thể bỏ phía dưới th́ mới có thể lên được tầng trên. Do đó, có cần giới luật hay không? Cần! Phải nghiêm tŕ giới luật. Do vậy, cổ đức khuyên chúng ta tŕ giới niệm Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ, từ chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy là giới luật. V́ lẽ đó, trong công khóa sáng của các đồng tu tại [Hoa Tạng] Đồ Thư Quán, chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện; khóa tối bèn niệm từ chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy. Đó là tŕ giới niệm Phật. Mục đích của chúng tôi là hy vọng tâm nguyện và giải hạnh của chúng ta tương ứng với A Di Đà Phật, giống như A Di Đà Phật; như vậy th́ mới có thể quyết định văng sanh. Đó là giảng rơ: Công đức đọc kinh và tŕ danh hoàn toàn giống nhau.

      Niệm Phật nhằm mục tiêu nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn chẳng dễ cầu được! V́ thế, khuyên các đồng tu trước hết hăy niệm kinh Vô Lượng Thọ. Trước hết là niệm kinh nhuần nhuyễn, niệm đến mức có thể thuộc ḷng, có thể niệm rất thuộc là bước công phu đầu tiên. V́ sau đă khi niệm rất thuộc, phải tu tâm thanh tịnh, tức là nói đến công phu. Công phu là ǵ? Trong bộ kinh ấy, [niệm] từ đầu đến cuối chẳng dấy một vọng tưởng, đó là công phu. Nếu niệm được một nửa bèn dấy vọng tưởng, chẳng tính, lại niệm từ đầu. Lại niệm đến một nửa bèn dấy vọng tưởng, vẫn chẳng tính, lại bắt đầu niệm từ đầu. Đó là công phu! Công phu cạn là trong một bộ kinh chẳng có vọng tưởng; công phu sâu là ba bộ hay năm bộ cũng chẳng có một vọng tưởng. Sâu hơn nữa, trong khi niệm mười bộ, hay niệm mười hai bộ, đều chẳng có một vọng tưởng nào, đó là thành tựu. Công phu cạn hay sâu là nói từ chỗ này!

      V́ sao tôi không nói tới Phật hiệu? Chúng ta tội nghiệp sâu nặng, Phật hiệu chưa được! Vừa niệm Phật hiệu, vừa dấy vọng tưởng. Do đó, chẳng có cách nào, công phu sâu hay cạn dựa vào Phật hiệu, quả thật nh́n không ra, nhưng niệm kinh sẽ nh́n ra! Khi niệm kinh, hễ có vọng tưởng, liền biết ta niệm sai, hễ sai bèn niệm lại từ đầu. Do đó, công phu cạn hay sâu rất dễ dàng cảm nhận qua việc niệm kinh. Niệm đến mức công phu của chính ḿnh xác thực thành tựu th́ ta niệm mười bộ cũng chẳng dấy lên một vọng niệm. Khi đó, chẳng cần niệm kinh mà chuyên niệm Phật hiệu, đó chính là “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Tôi dạy chư vị phương pháp này, quư vị hành theo phương pháp này, trong một đời này, chắc chắn văng sanh. Chướng ngại kết thành cả khối là v́ đâu? Kết thành cả khối v́ trong tâm chúng ta vướng mắc quá nhiều chuyện, thị phi, nhân ngă quá nhiều. Quư vị chẳng buông những thứ ấy xuống được, không được rồi! Do đó, tham, sân, si, mạn, thị phi, ta người, thảy đều phải buông xuống.

      Đối với chuyện tốt th́ chuyện tốt chẳng bằng vô sự, nay chúng ta muốn ǵ? Muốn vô sự, chớ nên mong chuyện tốt! Đến khi công phu của quư vị thật sự thành tựu, hy vọng quư vị sẽ làm nhiều chuyện tốt. Hiện thời, v́ sao chẳng thể làm chuyện tốt? Quư vị chẳng có công phu; hễ làm chuyện tốt sẽ hỏng, sẽ đọa lạc, v́ chưa thể đoạn vọng tưởng, chấp trước được! V́ thế, chẳng cần làm chuyện tốt, kẻ khác chê ta là Tiểu Thừa, tiêu cực, cứ mặc cho họ nói. Ta công phu chẳng đủ! Giống như thấy có người ngă xuống nước chết ch́m, [người khác thúc giục]: “Ngươi là kẻ chẳng có tâm từ bi, ngươi chẳng nhảy xuống cứu người ấy”. Tôi không biết bơi, nhảy xuống sẽ chết uổng một mạng! Tôi phải ngay lập tức đi học bơi. Người ta nói quư vị là Tiểu Thừa, là kẻ chỉ lo giải thoát riêng ḿnh, [hăy đáp]: “Tôi đang học bản lănh, hiện thời chẳng có bản lănh cứu người khác!” V́ thế, chẳng mong mỏi quư vị phải làm chuyện tốt. Chẳng phải là tôi khuyên chư vị tiêu cực, mà do tôi thấy mọi người thiếu bản lănh ấy. Quư vị chẳng có năng lực làm chuyện tốt, nên tôi nói lời thật cùng quư vị!

Tôi chỉ giới thiệu lời tựa với mọi người đến đây, nay chúng ta sẽ xem nội dung chính nơi trang thứ năm. Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa quyển thượng, chúng ta xem đề mục trong hàng thứ nhất: “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao”. “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” là tựa đề của kinh này. “Sớ” () có nghĩa là khai thông. Kinh quá sâu, chúng ta là kẻ sơ học không hiểu. Sớ là chú giải, giải thích, khai thông những nghĩa lư, nên gọi là Sớ. Chú giải có rất nhiều danh xưng. Luận là chú giải, mà Sớ cũng là chú giải. Dùng những chữ ấy có ǵ sai khác? Bồ Tát chú giải kinh, như Đại Trí Độ Luận là chú giải của kinh Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. Chúng ta thấy Lư Trưởng Giả Lư Thông Huyền chú giải kinh Hoa Nghiêm, đặt tên là Hoa Nghiêm Hợp Luận, dùng chữ Luận, không dùng chữ Sớ, chẳng dùng chữ Sao. Chư vị phải biết, dùng chữ Luận nhằm nói rơ bản chú giải của vị ấy quyết định không sai, chẳng khác ǵ đức Phật đă nói, người đời sau chẳng thể sửa đổi, ngữ khí vô cùng khẳng định. Bồ Tát đại đức chú giải kinh bèn dùng chữ ấy. Về sau, các vị tổ sư đại đức khiêm hư, chẳng dùng chữ Luận, mà dùng chữ Sớ. “Sớ” là có thể trong đó c̣n có chỗ chẳng đúng, xin quư vị hăy sửa đổi cho đúng hơn. Luận là chẳng thể sửa đổi, lời tôi chú giải chẳng khác lời Phật giảng, chẳng thể sửa đổi. V́ thế, dùng chữ Sớ hoặc Sao th́ khiêm hư hơn. Người hiện thời càng khiêm hư hơn, dùng chữ Giảng Nghĩa (講義), Thiển Thích (淺釋: giải thích nông cạn), những chữ ấy càng khiêm hư hơn, ngay cả những chữ Sớ và Sao đều chẳng dám dùng, càng ngày càng khiêm hư hơn.

      Nói thực tại, bộ Sớ này là Luận, nhưng đại sư khiêm hư. Sớ là giải thích kinh, Sao () nhằm giải thích Sớ, [v́] Sớ vẫn c̣n rất sâu, kẻ sơ học vẫn chẳng dễ ǵ hiểu được! Tôn giả Tứ Minh là hậu duệ của tông Thiên Thai, kế tục Trí Giả đại sư. Bộ Sớ này do Trí Giả đại sư soạn, [ngài Tứ Minh] lại tiếp tục giải thích thêm lời Sớ của Trí Giả đại sư, nên gọi là Sao. Sớ Sao là được rồi, v́ sao đặt tên là Diệu Tông Sao (妙宗鈔)? Trong phần giải thích dưới đây có giảng, chúng ta hăy xem ḍng thứ hai đếm từ dưới lên trong trang này, câu cuối cùng: “Sao danh Diệu Tông giả”, [nghĩa là] tác phẩm Sao này có tựa đề là Diệu Tông Sao. “Năi thủ Sớ thích kinh đề đại ư” (do lấy từ đại ư trong phần Sớ giải thích tựa đề kinh). Chữ Diệu Tông ngụ ư dựa theo các ư nghĩa chánh yếu trong phần giải thích tựa đề kinh của Trí Giả đại sư, tức là trong phần Huyền Nghĩa, [chọn lấy] đoạn Huyền Nghĩa giải thích tựa đề kinh thuộc Ngũ Trùng Huyền Nghĩa. Trí Giả đại sư dùng “viên diệu Tam Quán” để giải thích Năng Quán, tức là giải thích chữ Quán trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật. Thiên Thai đại sư (Trí Giả đại sư) dùng Không, Giả, Trung Tam Quán để giải thích chữ Quán ấy. Quán xét theo phương diện Năng Quán là Viên Diệu Tam Quán, đức Phật được quán (Sở Quán) là Vô Lượng Thọ Phật, nên Năng Quán (chủ thể thực hiện sự quán tưởng) và Sở Quán (đối tượng được quán tưởng) đều là viên diệu tột bậc. Đối với đối tượng của sự Quán ấy, [tức là đối tượng của sự] Quán trong Năng Quán gồm Tam Quán Không, Giả, Trung, chúng ta chẳng khó thấu hiểu; [bởi lẽ] cảnh được quán gồm có [các cảnh tượng được giới thiệu trong] mười sáu phép Quán. Đă là mười sáu phép Quán, v́ sao chỉ nói “Quán Vô Lượng Thọ Phật”? V́ sao đức Phật chẳng nói là Nhật Quán (quán mặt trời [sắp lặn]), Thủy Quán (quán nước [đóng băng] giống như đất lưu ly), hoặc Thụ Quán (quán cây báu)? V́ sao Ngài không nói những điều ấy, mà nói [quán] Vô Lượng Thọ Phật? Chư vị phải hiểu: Mười sáu phép Quán lấy Phật làm chủ. Nói Vô Lượng Thọ Phật th́ y báo và chánh báo trang nghiêm đều được bao gồm. Ví như chúng ta nói Nhật Quán, Nhật Quán chẳng thể bao gồm Vô Lượng Thọ Phật. Nói Phật sẽ bao gồm hết thảy; nói những thứ khác, chẳng thể bao gồm hết thảy. Phép Quán thứ tám là Quán Thân Tướng, tức là quán Tây Phương Tam Thánh; phép Quán thứ chín là quán Vô Lượng Thọ Phật, nên Ngài chọn phép Quán thứ chín. Điều được quán trong tựa đề kinh chính là phép Quán thứ chín, tức là quán Vô Lượng Thọ Phật.

      “Phật kư tổng nhiếp dư thập ngũ cảnh” ([nói tới] Phật đă gồm chung mười lăm cảnh kia), bao gồm toàn bộ mười sáu phép Quán. “Cố tri nhất nhất giai thị viên diệu Tam Đế Tam Quán dă” (cho nên biết: Mỗi một [phép Quán] đều là Tam Đế, Tam Quán viên diệu), đó là cảnh giới của đối tượng được Quán (Sở Quán). Năng Quán là Trí, Sở Quán là Lư. “Thị kinh kư dĩ diệu quán vi Tông” (kinh này đă lấy Diệu Quán làm Tông), trong bộ kinh này, Tông () là phương pháp, tông chỉ tu học. [Kinh này] lấy Quán làm phương pháp tu học. “Học giả ưng đương chú trọng Diệu Tông” (người học hăy nên chú trọng Diệu Tông), hăy đặc biệt chú trọng. Niệm một câu danh hiệu A Di Đà Phật cũng là Quán, [phép Quán này] được xếp thành phép Quán thứ mười sáu. Nếu nói “trong Tŕ Danh chẳng có Tam Chỉ Tam Quán[3]”, tức là chẳng phù hợp với giáo nghĩa trong kinh! Rất nhiều người niệm Phật chẳng biết đạo lư này. Không biết, nhưng nếu người ấy có thể thật thà niệm Phật th́ cũng chẳng quan trọng, v́ sao? Diệu quán ở ngay trong thật thà! Nói thật ra, lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thật thà. Thật thà th́ tốt đẹp rồi, ai là người thật thà? Pháp sư Đế Nhàn nói người đồ đệ ấy của Ngài (tức vị tăng không biết chữ xuất thân là thợ vá nồi) mới là người thật thà. Trong ngàn vạn người, khó t́m được một người thật thà! Người thật thà phục tùng lời thầy răn dạy một trăm phần trăm, chẳng hoài nghi. Một câu Phật hiệu thật sự niệm đến mức chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp, đó là thật thà. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật hiệu, nhưng lại tưởng Đông, nghĩ Tây, lại nghĩ trước, nhớ sau, thật thà ở chỗ nào? Đó chẳng phải là thật thà! Có thể thấy thật thà đúng là chẳng dễ dàng.

      Kế tiếp, phần đảnh cách[4] là nguyên văn [trong lời Sớ], “Thiên Thai Trí Giả đại sư thuyết” (Thiên Thai Trí Giả đại sư nói), “thuyết” “thuyết Sớ”, v́ phần Sớ do Trí Giả đại sư soạn. “Tứ Minh Pháp Trí đại sư sao”, Sao là chú giải Sớ, do tôn giả Tứ Minh, tức pháp sư Tri Lễ (知禮) [soạn lời Sao]. Tứ Minh (四明) là danh xưng của một địa phương, tức là núi Thiên Thai ở huyện Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang. Hai vị đại sư này, ngài Thiên Thai Trí Giả sống vào cuối đời Tùy đầu đời Đường, Tri Lễ đại sư là người thời Tống, là hậu duệ của ngài Thiên Thai, có rất nhiều cống hiến đối với tông Thiên Thai, có thể nói Ngài là “Thiên Thai trung hưng đại sư”. Ngài trước tác rất nhiều, chúng ta thường tôn xưng Ngài là “tôn giả Tứ Minh”, lời Sao do Ngài viết. Chúng tôi tỉnh lược truyện kư của hai vị này, quư vị có thể tự đọc trong Cao Tăng Truyện. Ở đây, pháp sư Đế Nhàn tỉnh lược tiểu sử của Trí Giả đại sư, viết đại lược tiểu truyện của tôn giả Tứ Minh, chúng ta có thể không cần đọc phần này.

      Chúng ta xem phần lời tựa của Ngài trong trang thứ tám, xem phần đảnh cách. “Phù lạc bang chi dữ khổ vực, kim bảo chi dữ nê sa, thai ngục chi vọng hoa tŕ, cức lâm chi tỷ quỳnh thụ” (Ôi! Lạc bang so với khổ vực, vàng và chất báu sánh với bùn cát, thai ngục trông ngóng ao hoa, rừng gai góc đem so cây quỳnh), bốn câu này so sánh hai thế giới. “Lạc bang” là thế giới Cực Lạc, “khổ vực” (cơi khổ sở) là thế giới Sa Bà của chúng ta. Trước hết, nh́n từ hoàn cảnh sống trong hai thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng hơn cơi này quá nhiều! Tôi chỉ nói đại ư, phần giải thích chư vị tự đọc. Câu thứ hai, “kim bảo chi dữ nê sa” là nói đến hoàn cảnh vật chất. Trong thế giới này, nh́n đâu cũng thấy là bùn, cát, khắp mặt đất là bùn, cát. Tây Phương Cực Lạc thế giới là bảy báu. Kinh dạy: Đất đai trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là lưu ly, lưu ly (琉璃) là vật ǵ? Người Hoa gọi lưu ly là Phỉ Thúy (翡翠). Phỉ Thúy là một loại ngọc màu xanh, là loại ngọc tốt nhất, trân quư nhất, trong suốt; trong Phật pháp loại ngọc ấy được gọi là “lưu ly”. Đại địa của Tây Phương thế giới do phỉ thúy tạo thành, chẳng phải là bùn, cát. Đất ấy kiên cố, chất đất trong suốt, thấy rơ ràng phía dưới mặt đất. Kinh nói là “hoàng kim vi địa”, vàng ṛng lót đường. Chất đất bằng phỉ thúy, là đất lưu ly. Trên mặt đất lưu ly, vàng ṛng lót thành đường, giống như trong cơi này dùng nhựa đường và xi-măng để trải đường. [Từ đó] quư vị chỉ biết nơi ấy sản vật phong phú, hai thế giới chẳng thể so sánh! Người trong thế giới này lấy những thứ bảy báu ấy làm thành đồ trang sức, đeo trên thân [cảm thấy] rất đẹp đẽ. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, những thứ báu ấy giống như bùn đất, là vật liệu để lót đường, ai ham những thứ ấy? Quư vị bèn hiểu kết cấu vật chất của hai thế giới chẳng giống nhau.

      Nay chúng ta biết: Dưới sự phân tích hóa học, bảy báu và bùn cát như nhau, chẳng khác ǵ! Phân tích đến cuối cùng đều là nguyên tử, điện tử, nhưng công thức cấu tạo khác nhau! Thật ra, hết thảy vật chất đều do một loại vật chất cơ bản biến hiện. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă giảng về hiện tượng vật lư ấy, các khoa học gia trong thế gian măi đến gần đây mới phát hiện, nhưng từ ba ngàn năm trước, đức Phật đă giảng rơ ràng. Kinh Kim Cang giảng điều ǵ? “Nhất hợp tướng”, nay chúng ta gọi “nhất” là vật chất cơ bản. Tất cả hết thảy các nguyên tố đều do một vật chất ấy ḥa hợp, kết thành, hiện thời chúng ta nói là do công thức cấu tạo khác nhau mà tạo thành [những loại vật chất khác nhau]. Các công thức ấy được sắp xếp như thế nào? Thưa cùng quư vị, do tâm ư thức biến hiện. “Duy thức sở biến”, thức là ǵ? Là suy tưởng. Tâm chúng ta nghĩ đến chuyện ác, nó sẽ kết hợp chẳng tốt đẹp, nên kết quả sẽ chẳng tốt đẹp, biến thành bùn, cát. Tâm chúng ta rất thanh tịnh, suy nghĩ những điều thuần thiện, kết cấu của nó liền biến hóa, biến thành đẹp đẽ nhất. V́ thế, thế giới tịnh hay uế, hoàn cảnh nhân sinh thiện hay ác đều do tâm chúng ta biến hiện.

      Tâm người hiện thời so với tâm người trong quá khứ, nói thật thà th́ xấu xa hơn rất nhiều, chẳng được thuần hậu như người thuở trước. V́ thế, hiện thời toàn cầu bị ô nhiễm nghiêm trọng. Sự ô nhiễm ấy gần như khiến cho nhân loại trên thế giới chẳng có cách nào sống sót, nên nói là “hoàn cảnh ô nhiễm”. Hoàn cảnh ô nhiễm từ đâu tạo thành? Tâm lư ô nhiễm, tinh thần ô nhiễm, đó mới là căn bản! Nếu chúng ta chẳng thể tịnh hóa từ tâm địa, tịnh hóa nơi tinh thần, mà muốn cải thiện sự ô nhiễm nơi hoàn cảnh, sẽ là chuyện chẳng thể nào thực hiện được! V́ sao? Đó là chuyện đằng ngọn. Tâm địa là gốc, phải đổ công dốc sức nơi tâm địa, đó là “trị tận gốc”. Dẫu nỗ lực làm chuyện bên ngoài thế nào đi nữa, đều là “trị đằng ngọn”, chẳng có cách nào thật sự cứu văn triệt để được! Câu thứ hai là nói về hoàn cảnh vật chất.

      Câu thứ ba nói về hoàn cảnh nhân sự. Trong thế giới này, chúng ta là thai sanh, thai, noăn, thấp, hóa, thai sanh bèn có nỗi khổ của thai sanh. Tây Phương Cực Lạc thế giới là liên hoa hóa sanh. “Hoa tŕ” (華池) ư nói “hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu”. Làm sao có thể so sánh cho được? Thai sanh có những nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử; hóa sanh chẳng có. Văng sanh thế giới Cực Lạc, đức Phật đến đón tiếp chúng ta, liên hoa hóa sanh, thân tướng do hóa sanh hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, cũng chẳng thấp hơn A Di Đà Phật chút nào, mà cũng chẳng xấu hơn A Di Đà Phật chút nào, chẳng thể! A Di Đà Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng đều có vô lượng hảo, hóa thân của quư vị giống như Phật. V́ vậy, thế giới Tây Phương là thế giới b́nh đẳng, chuyện này được chép trong kinh Vô Lượng Thọ. Không chỉ là kinh Vô Lượng Thọ, mà trong bốn mươi tám nguyện, A Di Đà Phật đích thân nói ra. Do đó, người trong thế giới Tây Phương diện mạo hoàn toàn giống nhau, vóc dáng cũng giống nhau, màu da cũng như nhau, thọ mạng cũng giống nhau, đều là vô lượng thọ. Chẳng thể nói “hóa sanh trong hoa sen là một đứa bé, dần dần trưởng thành”; nếu vậy th́ có ǵ khác với thế giới này của chúng ta? Chỉ cần có biến hóa th́ sẽ c̣n có sanh tử. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có biến hóa, chẳng có trẻ nhỏ, người lớn, cũng chẳng có già chết! Phật vô lượng thọ, tất cả hết thảy những người văng sanh cũng đều vô lượng thọ, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Trong cơi này, chúng ta luôn biến hóa trong từng sát-na, nên thế gian này nói “vạn pháp vô thường”. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có biến hóa, hết thảy các pháp là chân thường. Hễ có biến hóa, sẽ chẳng thật. Chẳng có biến hóa mới là thật, kinh Vô Lượng Thọ đă giảng điều này hết sức cặn kẽ.

      Câu cuối cùng nói đến sự thọ dụng. Cuộc sống trong cơi chúng ta gian nan, giống như ở trong rừng gai góc, cây cối có gai, hết sức khó đi lại. Con người từ lúc sanh ra cho đến khi chết già, con đường ấy rất khổ! [Dùng “rừng gai góc”] để tỷ dụ chuyện này. Tây Phương Cực Lạc thế giới “quỳnh lâm, ngọc thụ” (瓊林玉樹: rừng quỳnh, cây ngọc), hoàn toàn là hưởng thụ, du sơn ngoạn thủy, sự hưởng thụ ấy chẳng thể sánh tầy. Do đó, bốn câu này là tŕnh bày đơn giản về sự khác biệt giữa hai thế giới. Về mặt Sự, chúng ta hiểu rơ: V́ sao bất đồng? Phải nói tới nguyên nhân nào, đoạn kế tiếp sẽ nêu ra. Trên thực tế, chúng tôi vừa mới đề cập cùng chư vị đại lược nguyên nhân ấy.

      Chúng ta đọc đoạn văn ấy ḍng thứ tư từ dưới đếm lên trong trang thứ chín: “Thành do tâm phân cấu tịnh, kiến lưỡng độ chi thăng trầm, hạnh khai thiện ác, đổ nhị phương chi thô diệu” (Đúng là do tâm chia ra cấu hay tịnh, mà thấy hai cơi thăng trầm; do hạnh phân thành thiện, ác, mà thấy hai phương thô hay diệu). Trong lời Sao, tôn giả Tứ Minh đă giảng: “Báo chi tịnh uế, thật tùng tâm hạnh nhị nhân sở trí” (Quả báo là tịnh hay uế, thật sự do hai cái nhân là tâm và hạnh gây nên). Quả báo trong hai thế giới khác nhau; v́ sao khác nhau? Do ḷng người trong hai thế giới khác nhau, hành vi cũng khác nhau. Ngài nói ra nguyên do ấy. Tâm là ǵ? Một đằng là mê, một đằng là ngộ, “liễu” () là giác ngộ. Ḷng người trong thế giới Sa Bà mê hoặc, điên đảo; tâm người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thông đạt, hiểu rơ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Trong hành vi [của người trong thế giới Sa Bà] có thiện hay ác, c̣n hành vi của họ (người trong cơi Cực Lạc) hoàn toàn tương ứng với Chân Như bản tánh. Đó là thuận, là thiện. Hành vi của chúng ta hoàn toàn trái nghịch Chân Như bản tánh, đó là ác. Đây là nói rơ v́ sao quả báo trong hai thế giới khác nhau: V́ nhân của họ khác nhau. Bộ kinh này nhằm đặc biệt nói rơ, nhằm nói tường tận nhân quả với chúng ta. Nếu chúng ta muốn cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chư vị đồng tu phải biết: Tâm chúng ta phải tịnh, hạnh của chúng ta phải thiện. Tâm chẳng thanh tịnh, hạnh bất thiện, niệm A Di Đà Phật cũng chẳng có tác dụng! Cổ nhân bảo là “mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, rách toạc cổ họng vẫn uổng công”. Chỉ có thể nói là gieo một chút thiện căn, chẳng thể văng sanh trong một đời này! V́ thế, người thật sự cầu văng sanh, phải chú trọng tu tŕ nơi tâm hạnh. Có cần nghỉ giải lao hay không? Được rồi, chúng ta nghỉ mấy phút.

 

Tập 2

 

Xin mở quyển kinh, trang thứ mười, ḍng thứ ba đếm từ dưới lên:

      “Dụ h́nh đoan tắc ảnh trực, nguyên trược tắc lưu hôn” (Ví như h́nh thể ngay ngắn th́ h́nh ảnh ngay thẳng; nguồn đă nhơ bẩn th́ ḍng chảy đục ngầu). “H́nh đoan” (形端): “Đoan” là đoan chánh, tỷ dụ tịnh nhân, thiện hạnh; “ảnh trực” (影直) là tỷ dụ quả báo. Nhân quả trong Tây Phương thù thắng là do chỗ này. Nh́n lại thế giới Sa Bà, “nguyên trược” (源濁), “nguyên” là nói tới “tâm nguyên” (心源: nguồn tâm). Tâm chúng ta nhiễm đắm, nói theo cách hiện thời là “ô nhiễm”. Kinh thường h́nh dung thế giới của chúng ta là “ngũ trược ác thế” (đời ác năm trược). “Trược” () là ô nhiễm, [“ngũ trược”] là năm thứ ô nhiễm nghiêm trọng. Tâm không thanh tịnh, nên hành vi sẽ bất thiện, hành vi tạo nghiệp Thập Ác, hạnh bèn bất thiện. Do đó, sẽ là “lưu hôn” (ḍng chảy đục ngầu). “Lưu” () là giống như nước chảy, tự nhiên sẽ chẳng sạch sẽ. Nước ấy “hôn” (: đục ngầu), [chữ “lưu hôn”] chỉ thế giới này của chúng ta. Đó là dùng tỷ dụ để nói về nhân và quả báo trong hai thế giới.

      Trong đoạn văn tiếp theo, “tựu tịnh thị tu” (dạy cách tu hành để đạt được tịnh), [hăy xem] ḍng thứ tư nơi trang mười một: “Cố tri dục sanh Cực Lạc quốc độ, tất tu thập lục diệu quán, nguyện kiến Di Đà Thế Tôn, yếu hành tam chủng Tịnh nghiệp (V́ thế, biết là muốn sanh về Cực Lạc, ắt phải tu mười sáu phép Quán nhiệm mầu, nguyện thấy Di Đà Thế Tôn, phải hành ba thứ Tịnh nghiệp). Ở đây, đại sư đă v́ chúng ta thiết tha khai thị: Muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng thể không biết mười sáu môn diệu quán. Tu thành công bất cứ một phép Quán nào trong mười sáu môn diệu quán, đều có thể văng sanh Tây Phương thế giới. Từ phép Quán thứ nhất là Nhật Quán đến phép Quán cuối cùng là Tŕ Danh, thành tựu bất cứ phép Quán nào cũng đều được. Tu hai ba phép Quán trong ấy cũng được; tu trọn mười sáu phép Quán cũng được. Bất luận là bao nhiêu, chỉ cần quư vị có thể tu thành công; như thế nào th́ mới được gọi là “thành”? Đoạn kinh văn tiếp đó đă giảng rơ: Mười sáu phép Quán ấy đều là diệu quán, v́ sao? Bất cứ phép Quán nào cũng đều là tu trọn vẹn Không - Giả - Trung Tam Quán, Nhất Tâm Tam Quán. Mười sáu phép Quán ấy đều là Nhất Tâm Tam Quán, kể cả niệm Phật. Đó là chánh tu, là thiện nhất trong các điều thiện. “Nguyện kiến Di Đà Thế Tôn, yếu hành tam chủng Tịnh nghiệp” (nguyện thấy Di Đà Thế Tôn, phải hành ba thứ Tịnh nghiệp). Ba thứ Tịnh nghiệp vô cùng quan trọng; khi giảng Di Đà Kinh Sớ Sao, tôi đă nói cặn kẽ cùng quư vị. Ở đây, vẫn phải giảng chi tiết cùng mọi người, v́ có những đồng tu chưa nghe Di Đà Kinh Sớ Sao, điều này có quan hệ quá lớn đối với sự tu Tịnh nghiệp của chúng ta. Trong phần sau, chúng ta sẽ xem đến ba thứ Tịnh nghiệp, sẽ đọc thấy [những điều ấy] khi xem đến phần kinh văn [tương ứng]. Chúng ta lại xem phần kế tiếp của lời tựa nơi trang mười hai, ḍng thứ hai.

      “Nhiên hóa nhân sự tiệm, giáo tạ duyên hưng, thị dĩ Xà Vương sát nghịch, Vi Đề ai thỉnh” (nhưng nhân duyên giáo hóa phải do Sự mà dần dần h́nh thành, giáo cậy vào duyên để hưng khởi. Kinh này là do vua A Xà Thế phạm tội nghịch giết cha, bà Vi Đề Hy buồn bă thỉnh cầu). Đoạn này nói đến nguyên do của pháp hội. V́ sao có pháp hội như thế này? V́ hành vi phản nghịch của vua A Xà Thế (Ajātaśatru), khiến cho mẹ ông ta vô cùng đau thương. Phu nhân Vi Đề Hy (Vaidehi) là mẹ của A Xà Thế, bèn khải thỉnh đức Thế Tôn, hy vọng văng sanh một cơi Tịnh Độ an lạc. Pháp hội do đó mà có, đó cũng là duyên do giáo học của bộ kinh này được hưng khởi như thế đó. “Đại thánh thùy Từ, thừa cơ diễn pháp” (đức đại thánh rủ ḷng Từ, thừa dịp diễn nói pháp), chúng ta hăy xem câu văn được in theo lối đỉnh cách trong lời Tựa. “Đại thánh” là Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong hết thảy thánh hiền, Phật đă chứng đắc quả vị rốt ráo viên măn, chẳng có ai cao hơn Ngài, nên chúng ta tôn xưng Ngài là Đại Thánh. “Thừa cơ diễn pháp” là dựa vào cơ duyên này để diễn giảng pháp môn này. “Diệu ngọc tướng dĩ lưu thái, tủng kim đài nhi hiển thụy, tuy quảng thị trân vực, nhi tông quy An Dưỡng” (Tướng ngọc chói ngời tuôn hào quang nhiều màu, đài cao chót vót hiện điềm lành, tuy chỉ bày rộng răi cơi quư báu, nhưng đề cao, quy kết An Dưỡng). Mấy câu này nhằm nhắc đến câu chuyện đức Thế Tôn phóng quang, hiện tướng lành, phu nhân Vi Đề Hy chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong phần trước, tôi đă nhắc sơ qua: Thích Ca Mâu Ni Phật triển hiện hết thảy các cơi Phật trước mặt phu nhân để bà ta tự tuyển chọn. Sau khi xem xong, bà ta chọn lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. Câu cuối cùng trong lời Sao, tức là từ hàng thứ ba trong trang mười ba, bà ta nói: “Ngă kim nhạo sanh Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật sở” (Nay con thích sanh về thế giới Cực Lạc là chỗ của A Di Đà Phật), phu nhân tự ḿnh chọn lựa.

Lại xem lời tựa: “Sử mạt tục hữu duyên, tuân tư diệu quán” (khiến cho kẻ tục hữu duyên trong đời Mạt Pháp, sẽ tuân hành pháp Quán mầu nhiệm này). Nói thật ra, phu nhân Vi Đề Hy và vua A Xà Thế đều là Bồ Tát hóa thân, giống như hát tuồng, diễn tṛ cho chúng ta xem, há có phải là ác nghịch thật sự? Không ǵ chẳng nhằm dùng phương pháp này để khuyên chúng ta chọn lựa pháp môn vô thượng, viên đốn, thù thắng bậc nhất, khiến cho hết thảy chúng sanh tội ác sẽ được thành tựu trong một đời. Đúng là bi tâm triệt để của chư Phật, Bồ Tát, nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp. “Mạt tục” (末俗) là chúng sanh thế tục hữu duyên trong thời Mạt Pháp, những ai hữu duyên? Giống như các đồng tu đang hiện diện đều có duyên. Duyên có sâu hay cạn khác nhau! Duyên sâu, vừa tiếp xúc liền tin tưởng, liền nghiêm túc tu hành. Duyên cạn th́ có thể tin, nhưng vẫn chẳng thể buông xuống được, tức là như trong phần trước đă nói, chẳng thể chuyên tu, mà là tạp tu. Đó là duyên cạn. Chuyên tu là duyên sâu, duyên sâu quyết định thành tựu trong một đời này. Duyên cạn bèn kết pháp duyên, trong đời này, rất khó thành tựu! Cổ đức bảo chúng ta: Tạp tu th́ trong một vạn người chỉ có thể dăm ba người văng sanh. Thiện Đạo đại sư nói người chuyên tu th́ trăm người tu, trăm người văng sanh, ngàn người tu, ngàn người văng sanh, chẳng sót một ai! Vạn người tu, vạn người đến! Nói thực tại, pháp môn này khó tin, đúng là khó tin!

Chúng ta thấy tổ sư đại đức từ xưa, thường là đến tuổi già mới tin tưởng. Tổ sư của Tịnh Tông cũng chẳng phải là ngoại lệ. Các vị Liên Tŕ và Ngẫu Ích đều là lúc tuổi già. Liên Tŕ đại sư đến tuổi xế chiều, chúng ta biết Ngài thật sự triệt để giác ngộ, nên mới nói: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ, bát vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ tha nhân hành” (Tam Tạng, mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ. Tám vạn bốn ngàn hạnh, để cho kẻ khác hành). Lúc tuổi già, sau khi triệt để giác ngộ, bèn một bộ kinh Di Đà, một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, những thứ khác thảy đều bỏ sạch. Chư vị phải biết: Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh, hăy tra duyệt, điều kiện [văng sanh] là Tín, Nguyện, Hạnh. Tín là thật sự tin tưởng, tuyệt đối chẳng hoài nghi. Nguyện là có nguyện vọng khẩn thiết, ta muốn sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, muốn thấy A Di Đà Phật. Hạnh là một câu Phật hiệu trong mười hai thời chẳng gián đoạn, không xen tạp, đó là Hạnh. Chúng ta xem lời khai thị của Ngẫu Ích đại sư về niệm Phật: Một người niệm Phật vừa muốn hành tŕ giới, muốn đắp y, đi tŕ bát (khất thực), vừa muốn tụng kinh, vừa muốn làm pháp hội, vừa muốn bái sám, đó là tạp tu! Quả báo là một chút si phước trong thế gian mà thôi, chẳng thể thành tựu, đă hoàn toàn phá hoại chuyên tu!

      Chúng ta nghĩ tới Liên Tŕ đại sư vào lúc tuổi già: Một câu A Di Đà Phật bốn chữ. Quư vị đọc Trúc Song Tùy Bút sẽ thấy: Người khác thỉnh giáo lăo nhân gia: “Lăo nhân gia dạy người khác tu hành theo cách nào?” Ngài đáp: “Tôi dạy người khác niệm sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật”. Người ta hỏi: “Chính lăo nhân gia tu hành th́ sao?” Ngài bảo: “Bản thân tôi tu hành niệm bốn chữ A Di Đà Phật”. Người khác bèn hỏi Ngài: “Do duyên cớ nào?” Ngài đáp: “Tôi nhất tâm nhất ư trong một đời này, quyết định phải thấy A Di Đà Phật. Kinh dạy ‘chấp tŕ danh hiệu’ mà danh hiệu chỉ có bốn chữ, Nam-mô chẳng phải là danh hiệu”. V́ thế, thật sự mong văng sanh, hết thảy những thứ khách sáo đều chẳng cần, đều chẳng cần thiết. Ngài nói: “Tôi khuyên người khác, người khác chưa chắc đă bằng ḷng văng sanh, nên thêm chữ Nam-mô rất thích hợp. Nam-mô nghĩa là cung kính, quy y”. Tức là quy y, cung kính A Di Đà Phật, nhưng chưa chắc muốn văng sanh. Thật sự mong văng sanh th́ hết thảy những thứ cố kỵ đều chẳng có.

      Cổ đức giảng về pháp môn này rất rơ ràng: Là cảnh giới Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là cảnh giới ǵ? Hoa Nghiêm là cảnh giới Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chẳng có chướng ngại. Nói cách khác, chẳng có hết thảy kỵ húy. Tượng A Di Đà Phật có thể thờ trong pḥng ngủ. Quư vị nói người tŕ giới [thờ như vậy] đâu có được, thiếu cung kính! Được rồi, sự cung kính ấy khiến cho công phu của quư vị gián đoạn, xen tạp, chẳng thể văng sanh! Hiện thời, nếu muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng bàn tới những chuyện ấy, điều khẩn yếu là ǵ? Ở bất cứ chỗ nào, ta đều có thể trông thấy tượng của A Di Đà Phật, ta luôn có thể khởi lên “A Di Đà Phật”. Đó là đúng, chẳng sai tí nào! Đối với kẻ chẳng muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ phải cung kính, pḥng ngủ của quư vị là căn pḥng thông thường[5], chớ nên thờ tượng Phật. Người thật sự muốn văng sanh, nghi ngại ǵ cũng đều chẳng có, chư vị phải biết chuyện này. V́ sao? Mục đích là khiến cho trong mười hai thời, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, quyết định chớ nên quên mất lần nào. Chúng ta nghe âm thanh niệm Phật nhắc nhở chính ḿnh, nh́n tượng Phật để nhắc nhở chính ḿnh, chuyện này trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác! Nghi ngại ǵ cũng đều chẳng cần kiêng kỵ! Pháp môn này là Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Do đó, pháp môn này thù thắng, viên đốn đến tột bậc, vô ngại tột bậc. Cổ nhân bảo: “Chuyên trung chi chuyên, đốn trung chi đốn, viên trung chi viên” (Chuyên nhất trong các pháp chuyên, đốn nhất trong các pháp đốn, viên nhất trong các pháp viên). Nếu c̣n có những chướng ngại ấy, làm sao có thể gọi là Viên cho được? Nếu [c̣n có chướng ngại như vậy] sẽ chẳng viên. Cái này chẳng thể, cái kia chẳng thể, tức là có chướng ngại, chẳng phải là vô chướng ngại. Chư vị đồng tu nhất định phải ghi nhớ điều này.

      Chúng ta chỉ có một niềm hy vọng; nói thật thà, hy vọng duy nhất của A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật là mong sao chúng ta thành Phật trong một đời này, hy vọng chúng ta suốt một đời này một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn. Trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, tuyệt đối chẳng có vọng niệm thứ hai. Hễ có một vọng niệm là trật rồi, vọng niệm ấy liền biến thành xen tạp, gián đoạn. [Chư Phật, Bồ Tát, chư vị tổ sư đại đức] dạy chúng ta công phu chẳng xen tạp, không gián đoạn như thế nào th́ nhất định phải tuân thủ. Đó gọi là duyên sâu, duyên chín muồi, quyết định văng sanh trong một đời này. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quyết định thành Phật trong một đời này, quư vị nghĩ xem: Duyên ấy hy hữu lắm! V́ lẽ đó, cư sĩ Bành Tế Thanh đă viết trong Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận như sau: “Đây là một ngày hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”, đúng vậy, chẳng giả!

      Lại xem hai câu kế tiếp: “Lạc nhật huyền cổ, dụng tiêu tống tưởng chi phương” ([quán tưởng] mặt trời lặn giống như cái trống treo nhằm nêu rơ nơi chốn sẽ đặt tâm tưởng vào đó). Đây là nói đến mười sáu phép Quán trong kinh này. Phép Quán thứ nhất trong mười sáu phép Quán là Nhật Quán, [tức là] quán mặt trời lặn, cũng nhằm dạy chúng ta nghĩ tới Tây Phương. Trong phép Quán mặt trời lặn, có hai ư nghĩa:

- Thứ nhất là khiến cho tâm chẳng rong ruổi, tâm chẳng tán loạn.

- Thứ hai là niệm niệm nghĩ tưởng Tây Phương.

Đó là thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ, v́ sao? Chúng ta đời đời kiếp kiếp đều phải luân hồi trong lục đạo, quá khổ! Trong đời quá khứ, chúng ta có tu Tịnh Độ hay không? Đă tu! Không chỉ đă tu, mà c̣n là đời đời kiếp kiếp đều tu tập! V́ sao đời đời kiếp kiếp tu tập mà vẫn chẳng thể văng sanh, đều chẳng văng sanh thành công? Do chúng ta tu hành chẳng đúng pháp, công phu không đắc lực, lầm lạc! Thế nào là không đúng pháp? Tạp tu! Chẳng phải là chuyên tu. Trong đời này, nếu phạm phải bệnh cũ; nói cách khác, đời này vẫn chẳng thể thành tựu, vẫn phải đợi đến đời sau. Thật sự giác ngộ trong một đời này, từ nay về sau, chúng ta chuyên tu, quyết định chẳng tạp tu.

      Chuyên tu th́ phải hỏi: Ta phải tu bao lâu th́ mới có thể thành tựu? Chuyện này phụ thuộc công phu của bản thân quư vị là siêng năng hay lười nhác. Nếu quư vị tinh tấn, thời gian ắt chẳng rất dài. Nếu quư vị giải đăi, phải mất mấy năm công phu. Vẫn phải là tùy thuộc thiện căn của chính ḿnh dầy hay mỏng, thiện căn là ǵ? Chân tín, chân nguyện là thiện căn. Phước đức là ǵ? Chuyên niệm là có phước, là phước đức, câu danh hiệu này được gọi là “vạn đức hồng danh”. Chuyên niệm bèn có phước; tạp niệm, phước mỏng hơn một chút. Chuyên niệm, phước dầy nhất. Ngẫu Ích đại sư khuyên chúng ta chuyên tŕ Phật hiệu, buông xuống hết thảy, v́ sao? Trong một câu Phật hiệu, không chỉ bao quát hết thảy các pháp môn và hết thảy các phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong một đời, mà ngay cả vô lượng vô biên pháp môn do hết thảy chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương vô lượng vô biên thế giới đă nói, cũng chẳng vượt ra ngoài một câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này là pháp môn đại tổng tŕ, quư vị chẳng niệm câu này th́ niệm ǵ đây? Niệm những thứ khác, tu những thứ khác chỉ là một bộ phận, niệm câu A Di Đà Phật là toàn thể. Phải biết điều này, công đức ấy chẳng thể sánh tầy!

      Câu kế tiếp là: “Đại thủy kết băng, thật biểu lưu ly chi địa” (đại thủy đóng băng, quả thật biểu thị đất lưu ly). Đây là phép Quán thứ hai, tức Thủy Quán. Đối với loại quán tưởng này, kinh Hoa Nghiêm đă nêu ra lư luận. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (hăy nên quán tánh của pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Kinh Lăng Nghiêm giảng: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai). Do vậy có thể biết, hết thảy “vật cảnh” (hoàn cảnh vật chất) đều do phân biệt, tưởng tượng biến hiện. Kinh Kim Cang đă dạy: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng). Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới sanh từ tâm tưởng. Tâm tịnh, biến hiện cảnh giới Tịnh Độ. Tâm uế, cảnh được biến hiện sẽ là uế độ. Nếu chúng ta hiểu rơ đạo lư này, không chỉ là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà c̣n trong một đời này, khi thọ mạng vẫn chưa hết, sống trên thế gian này, đối với khổ, lạc, họa, phước trong thế gian, chính ḿnh đều có thể làm chủ tể. Chỉ cần hiểu rơ đạo lư này, chính ḿnh có thể làm chủ, xác thực là trong một đời này, chính ḿnh có thể hưởng thụ viên măn nhất, sung sướng nhất, cuộc đời hạnh phúc nhất. Thưa cùng quư vị, đó gọi là hoa báo, tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là quả báo.

      Đời người hạnh phúc mỹ măn, không nhất định là rất có tiền, không nhất định là rất có địa vị! Nói thật thà, có tiền, có địa vị, chưa chắc đă có hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự là ǵ? Là trong tâm chẳng vướng mắc, chẳng có ưu lự, đó là hạnh phúc thật sự. Trong tâm chuyện ǵ cũng đều chẳng có, tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, thế giới bèn thanh tịnh. Thế giới là cảnh chuyển theo tâm, thế giới bèn thanh tịnh. Đó là hạnh phúc thật sự. Trong tâm có ưu lự, có vướng mắc, tâm sẽ không thanh tịnh, sẽ có phiền năo, sẽ có nghiệp chướng. Trong tâm thanh tịnh, lấy đâu ra chướng ngại? Chẳng có chướng ngại. V́ thế, nếu chư vị muốn biết khi nào nghiệp chướng của chính ḿnh tiêu trừ ư? Khi nào trong tâm quư vị chẳng có vọng niệm, chẳng có ưu lự, vướng mắc, nghiệp chướng liền tiêu trừ. Khi ấy, quư vị sẽ cảm ứng đạo giao cùng Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, trao đổi tin tức với Ngài, gởi điện báo qua lại, chính ḿnh nắm chắc văng sanh, đă có tín tâm, đó là vui sướng! Trong thế gian này, giống như chư Phật, Bồ Tát thị hiện, du hư thần thông, du ngoạn khắp nơi, đến thế giới Sa Bà để văn cảnh, đến để du lịch. Đó mới là hạnh phúc thật sự, viên măn thật sự.

      Lại xem hai câu tiếp theo: “Phong ngâm bảo diệp, cộng thiên nhạc nhi đồng phồn. Ba động kim cừ, tương khế kinh nhi hợp hưởng” (Gió lùa cây báu vang tiếng ngân nga, ḥa điệu cùng nhạc trời rộn ră. Sóng gợn khe ng̣i vàng, ḥa tiếng cùng khế kinh vang vọng). Hai câu này, câu trước là Bảo Thụ Quán, câu sau là Bảo Tŕ Quán, đến phần sau chúng ta sẽ đọc tới ao sen bảy báu. “Quán nhục kế[6] nhi chiêm thị giả, niệm sắc tướng nhi đổ Như Lai” (quán nhục kế để chiêm ngưỡng hai vị thị giả, nghĩ nhớ sắc tướng để thấy Như Lai), câu trước là quán tưởng Quán Âm và Thế Chí, câu sau là quán Vô Lượng Thọ Phật. Trong thế giới Tây Phương, sắc tướng của Phật và Bồ Tát giống nhau. Chỗ sai biệt giữa Phật và Bồ Tát là đỉnh đầu nơi thân tướng của các Ngài khác nhau. Đỉnh đầu Phật là tướng nhục kế, c̣n Bồ Tát đội măo. Trên thực tế, nếu Bồ Tát bỏ măo ra, sẽ hoàn toàn giống như Phật, hoàn toàn chẳng có sai biệt. Ngài đội măo th́ măo c̣n có sai biệt. Chính giữa măo của Quán Âm Bồ Tát là tượng đứng của A Di Đà Phật, chính giữa măo của Đại Thế Chí Bồ Tát là một b́nh báu. Đấy là điểm sai biệt để chúng ta phân biệt vị nào là Quán Âm, vị nào là Đại Thế Chí. Nếu chẳng có tướng ấy, sẽ chẳng có sai biệt, hoàn toàn giống nhau. Đến phần kinh văn, chúng ta sẽ đọc thấy [chuyện này].

      “Cập kỳ minh mục cáo chung, thượng trân đài nhi cao dũng. Văn thành ấn hoại, tọa kim liên nhi hóa sanh” (Tới khi nhắm mắt qua đời, ngự đài báu bay vọt lên cao; nét khắc đă in thành, ấn liền tan nát, ngồi sen vàng để hóa sanh), đây là nói tới ba bậc chín phẩm văng sanh. Trong phần giải thích, tôn giả Tứ Minh đă giảng rất rơ ràng. Chư vị đồng tu cần phải biết: Phàm văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là văng sanh trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết rồi mới văng sanh, chư vị phải ghi nhớ điều này. Pháp môn này thật sự là pháp môn bất tử. Phẩm vị [văng sanh] cao, biết trước lúc mất, thấy Phật đến tiếp dẫn, từ biệt mọi người: “Nay tôi theo A Di Đà Phật ra đi”, người ấy mới văng sanh, văng sanh trong khi c̣n sống! Hạ phẩm văng sanh, nghiệp chướng sâu nặng, đức Phật vẫn đến tiếp dẫn, chẳng phải là không đến tiếp dẫn. Do người ấy nghiệp chướng nặng nề, cũng thấy Phật đến tiếp dẫn, muốn kể với mọi người, môi mấp máy, nhưng chẳng phát ra tiếng, chẳng có khí lực. Hạ hạ phẩm văng sanh vẫn là văng sanh trong khi c̣n sống, tuyệt đối chẳng phải là chết rồi mới văng sanh, chẳng có đạo lư ấy!

      Rất nhiều vị tổ sư đại đức nói: Con người sau khi đă chết, trong ṿng tám tiếng sau khi người ấy đă tắt hơi, đừng nên động đến, hăy trợ niệm cho người ấy. Nói thật ra, trợ niệm tám tiếng đồng hồ, người ấy chẳng văng sanh. Người ấy văng sanh th́ đă ra đi khi chưa tắt hơi, đi rồi mới tắt hơi, đó là văng sanh thật sự. Nhưng đă tắt hơi, th́ [trợ niệm] trong tám giờ là v́ sợ ǵ? Sợ rằng người ấy chẳng văng sanh. Chưa văng sanh, nhưng khi ấy, thần thức của người đó chưa rời đi, chúng ta niệm Phật để nhắc nhở người ấy. Nếu lúc đó, người ấy bỗng nhớ tới Phật hiệu, tự cầu văng sanh, th́ vẫn có thể văng sanh. Đấy là thời khắc then chốt. Chuyện này được gọi là “độ Trung Ấm”, độ Trung Ấm là trong thời khắc then chốt ấy. Qua khỏi thời khắc ấy, hết sức khó khăn, chẳng dễ dàng! Tuy chẳng văng sanh, nhưng trợ niệm cho người ấy trong lúc đó, nói thật ra là tăng phước, giảm thiểu sự đau khổ cho người ấy, giúp người ấy văng sanh trong thiện đạo, chẳng đến nỗi đọa trong ác đạo, mục đích ở chỗ này. V́ thế, cầu nguyện văng sanh tốt nhất là dựa vào chính ḿnh, đừng ỷ vào người khác trợ niệm. Lỡ vạn nhất khi đó chẳng có duyên phận ấy, chẳng có ai trợ niệm th́ làm sao đây? Cho nên nhất định phải dựa vào chính ḿnh.

      Quư vị thấy trong Niệm Phật Luận, lăo pháp sư Đàm Hư đă kể chuyện nữ cư sĩ họ Trương thuộc Niệm Phật Hội chùa Trạm Sơn tại Thanh Đảo. Người ta văng sanh chẳng cần kẻ khác trợ niệm, biết trước lúc mất. Người ấy sống rất kham khổ, chồng kéo xe tại bến tàu, một nhà bốn người, ngày nào chẳng làm việc, ngày ấy chẳng có tiền tiêu. Chính bà ta cũng không biết chữ, tham dự Niệm Phật Hội để niệm Phật với người khác, làm việc lặt vặt trong nhà bếp, giúp người khác rửa chén đũa. Bà ta nghiễm nhiên niệm Phật hiệu giỏi như vậy; lúc ra đi tỉnh táo, sáng suốt. Lúc bà ta mất là vào buổi sáng, chẳng cần ai trợ niệm, biết sẽ đi lúc nào. Do đó, đấy là thật sự hiện thân thuyết pháp, nêu gương tốt nhất cho chúng ta. Người bị bệnh đau khổ, thật thà niệm Phật, niệm kinh Vô Lượng Thọ, chẳng thể nghĩ bàn. Lần đầu tiên tôi đến Bắc Kinh gặp lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, lăo cư sĩ bảo tôi: Cụ có mười mấy học tṛ theo học với cụ. Học tṛ cụ cho biết họ ngă bệnh chẳng đi bác sĩ, không uống thuốc, cả nhà niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, một mực niệm đến lành bệnh. Các học tṛ cũng bảo tôi: “Chúng tôi thật sự làm như vậy”. Kinh này công đức chẳng thể nghĩ bàn! Do đó, nếu chúng ta mắc bệnh, có chướng ngại, có nghiệp chướng, quư vị niệm kinh này nhất định có thể tiêu trừ.

      Tiếp theo đó, sách viết: “Tùy tam bối nhi hoành tiệt, việt ngũ khổ nhi trường vụ” (nương theo ba bậc để cắt ngang [ḍng sanh tử], vượt năm khổ để măi xa ĺa [chốn Sa Bà]). Hai câu này nói đến ba bậc văng sanh, từ thượng thượng phẩm cho đến hạ hạ phẩm, trong một đời này vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. “Hoành tiệt” (橫截) là hoành siêu, đây là chỗ thù thắng của pháp môn này. Tu những pháp môn khác chẳng có hoành siêu; chẳng có hoành siêu sẽ rất khó, v́ sao? Người ấy phải tu Tứ Thiền, Bát Định. [Đắc] Tứ Thiền sanh trong Sắc Giới Thiên; thành tựu Bát Định, sanh trong Vô Sắc Giới Thiên, lại phải tu Đệ Cửu Định mới vượt thoát luân hồi, người b́nh phàm chẳng thể làm được! Trong kinh Tiểu Thừa, đức Phật dạy: Hàng Tiểu Thừa đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, chứng đắc quả Tu Đà Hoàn, tính từ ngày hôm ấy, qua lại trong cơi trời và cơi người bảy lần mới có thể đoạn sạch tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc, tu thành tựu Đệ Cửu Định vượt thoát luân hồi. Qua lại bảy lần trong cơi trời và cơi người phải mất thời gian bao lâu? Tuổi thọ trong nhân gian ngắn ngủi, thọ mạng cơi trời lâu dài, có thể thấy cách này khó khăn lắm! Những pháp môn Đại Thừa khác cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, cũng phải là đoạn Kiến Tư phiền năo th́ mới có thể thành tựu.

      Chỉ riêng Tịnh Tông chẳng cần đoạn; tuy chẳng cần đoạn, nhưng phải khuất phục. Khuất phục, chứ chưa đoạn, cổ nhân sánh ví “khuất phục” giống như đá đè cỏ, chẳng trừ tận gốc. Đè như thế nào? Đè nén chẳng cho nó dấy lên hiện hành. Đá là ǵ? Cỏ ví như phiền năo, vọng tưởng, chấp trước, sánh ví những điều ấy; đá là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Dùng câu Phật hiệu ấy để đè nén vọng tưởng, chấp trước, phân biệt, chẳng cho chúng dấy lên hiện hành. Những thứ ấy quả thật chưa đoạn, chỉ cần chúng chẳng dấy lên hiện hành là được rồi, hữu dụng, có thể văng sanh. Nhưng phải đè nén; nếu chẳng đè nén được, sẽ chẳng thể văng sanh. Hễ đè nén được, bèn gọi là “công phu đắc lực”. Do đó, chúng ta niệm câu Phật hiệu này, chẳng dấy phiền năo, chẳng có vọng niệm; đó là công phu đắc lực. Niệm câu Phật hiệu này mà vẫn dấy lên vọng niệm, vẫn sanh phiền năo, công phu chẳng đắc lực! Phải đặc biệt chú ư điều này.

      “Khả vị vi hành diệu quán, chí đạo yếu thuật giả tai” (Có thể nói: Cách hành tŕ vi diệu và các phép quán mầu nhiệm chính là thuật trọng yếu nhằm đạt tới đạo tột bậc vậy). Đây là lời tổng kết cho đoạn này. “Vi” () là vi diệu, vi diệu tột bậc, tu hành là nói tới ba thứ Tịnh nghiệp. “Diệu quán” (妙觀) là mười sáu phép Quán. “Đạo” () là đạo thành Phật. “Chí” () là đạt tới chỗ tột cùng, đạo thành Phật không chi hơn được cách này! “Thuật” () là phương pháp. Phương pháp quan trọng nhất là ba thứ Tịnh nghiệp và mười sáu diệu quán. Trong phần trước, tôi đă thưa cùng quư vị, đối với mười sáu diệu quán, chỉ cần nắm được một phép Quán bèn thành tựu. Phật Thế Tôn cùng chư Phật, các vị tổ sư đại đức dạy chúng ta chọn pháp Quán thứ mười sáu, chọn lựa phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật. Quư vị thấy trong Tịnh Độ Tam Kinh, phương pháp này được kinh Vô Lượng Thọ đề xướng, kinh A Di Đà cũng đề xướng, nên biết hết thảy chư Phật, Bồ Tát, chẳng có vị nào không đề xướng pháp môn này. Ngay như lăo pháp sư Đế Nhàn giảng giải Diệu Tông Sao bằng tác phẩm Giảng Nghĩa này, qua đoạn mở đầu trong lời tựa, [chúng ta thấy rơ] Ngài cũng đề xướng Tŕ Danh Niệm Phật. Có thể thấy Tŕ Danh thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta lại lật qua xem trang thứ mười sáu.

      “Thử kinh tâm quán vi Tông, Thật Tướng vi Thể” (kinh này lấy tâm quán làm Tông, lấy Thật Tướng làm Thể), nêu bày phần Minh Tông Biện Thể của bộ kinh này. “Kinh dĩ Quán Phật vi đề, Sớ dĩ tâm quán vi Tông” (Kinh dùng chuyện quán Phật để làm tựa đề, Sớ dùng tâm quán làm Tông). Vừa khởi đầu, tôn giả Tứ Minh đă dặn ḍ rơ ràng, rành rẽ. [Bàn luận] tỉ mỉ, trọng yếu [nhận định này] th́ khi nói đến phần kinh văn, tôi sẽ lại thưa tŕnh cùng quư vị. Nay ở đây, chúng ta hiểu điều quan trọng nhất là ba thứ Tịnh nghiệp và mười sáu diệu quán. Ba thứ Tịnh nghiệp rất khó làm được, nhưng lại chẳng thể không làm, v́ sao? Chẳng làm được, sẽ chẳng thể văng sanh! Chẳng làm, sẽ chẳng thể vượt thoát luân hồi, nhất định phải làm được! Điều này khẩn yếu hơn bất cứ điều ǵ khác! Nguyên lư của nó là như kinh này đă dạy: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Tâm năng niệm là Thỉ Giác, đức Phật được niệm là Bổn Giác. V́ thế, khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác bất nhị là Cứu Cánh Giác. Do đó, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Niệm Bồ Tát thành Bồ Tát, niệm Thanh Văn thành Thanh Văn, niệm thiên liền sanh thiên, niệm người được thân người, niệm tham, sân, si, niệm ngũ dục, lục trần, sẽ là ba ác đạo, tùy thuộc quư vị niệm điều ǵ.

Trong phần chú giải, chúng ta xem ḍng thứ năm trong trang mười sáu, xem câu cuối trong ḍng thứ năm: “Kim quán Di Đà y chánh vi duyên” (nay dùng quán y báo và chánh báo của Phật Di Đà làm duyên). V́ sao kinh thường nói Quán, chẳng nói Niệm? V́ sao chẳng nói Tưởng, mà phải nói Quán? Chữ này có quan hệ rất lớn! Nếu nói Niệm hoặc Tưởng, [người nghe] sẽ dễ sanh t́nh chấp, “t́nh chấp” (情執) là chấp trước theo phương diện cảm t́nh, chẳng thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam giới. Quư vị nói “nay ta không mến chuộng thế giới này, ta yêu mến A Di Đà Phật”, như vậy th́ chẳng thể văng sanh, [v́ vẫn là t́nh chấp]! Quán là lư tánh, chẳng phải là cảm t́nh, nó là lư trí, giống như trong Thiền Tông nói Quán Chiếu, Chiếu Trụ và Chiếu Kiến, sử dụng những công phu đó. Niệm Phật cũng là niệm niệm chẳng ĺa công phu quán chiếu. Quán chiếu thuộc về lư tánh, chẳng thuộc về cảm t́nh. Do đó, dùng chữ Quán, chẳng dùng chữ Niệm, chẳng dùng chữ Tưởng!

      “Kim quán Di Đà y chánh vi duyên, huân hồ tâm tánh, tâm tánh sở cụ Cực Lạc y chánh, do huân phát sanh, tâm cụ nhi sanh, bất ly tâm tánh, toàn tâm thị Phật, toàn Phật thị tâm, chung nhật quán tâm, chung nhật quán Phật” (nay quán y báo và chánh báo của Phật để làm duyên, huân tập tâm tánh. Y báo và chánh báo cơi Cực Lạc sẵn có trong tâm tánh sẽ do huân tập mà phát sanh. Do tâm đă sẵn có, nên sanh khởi. Chẳng ĺa tâm tánh, toàn thể tâm là Phật, toàn thể Phật là tâm. Suốt ngày quán tâm là suốt ngày quán Phật). Phải biết mấy câu này là bí quyết niệm Phật! Có biết th́ quư vị mới chịu niệm, niệm thành công. Thế giới Cực Lạc là thế giới ǵ? Là “duy tâm Tịnh Độ”. A Di Đà Phật là ai? Là “tự tánh Di Đà”. Có lẽ sẽ có người hỏi, duy tâm Tịnh Độ và Tịnh Độ của A Di Đà Phật là một hay là khác, là một hay là hai? Tự tánh Di Đà và A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có mối quan hệ ǵ? Thưa cùng quư vị, Tây Phương Cực Lạc thế giới do tự tánh biến hiện, A Di Đà Phật cũng do tự tánh biến hiện. Không riêng ǵ Cực Lạc và Phật Di Đà do tự tánh biến hiện, mà tất cả hết thảy đông đảo chúng sanh nơi cơi Sa Bà trong hiện tiền vẫn do tự tánh biến hiện. Đó là tự tánh biến hiện uế độ. Tây Phương Cực Lạc thế giới là tự tánh của quư vị biến hiện Tịnh Độ, v́ sao? V́ tâm quư vị thanh tịnh liền biến thành Tịnh Độ. Tâm quư vị chẳng thanh tịnh, Tịnh Độ chẳng biến hiện. Duy tâm Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ là một, không hai, chẳng có biên giới; tự tánh Di Đà và ngài Pháp Tạng tu thành Phật Di Đà cũng là một, không hai. Đó là nguyên lư chân thật.

      Các triết gia trong thế gian nói đến bản thể của vạn hữu trong vũ trụ, bản thể là tâm tánh. Thiền gia đ̣i hỏi tu hành phải tu từ căn bản, trọn chẳng biết sự tu hành của Tịnh Tông mới là căn bản của các căn bản, trỗi vượt Thiền Tông quá nhiều. Do đó, suốt ngày niệm Phật là suốt ngày quán tâm, nhất định phải niệm đến mức “toàn thể tâm là Phật, toàn thể Phật là tâm”, công phu niệm Phật của quư vị mới thật sự đạt tới tột bậc, đạt tới đỉnh cao nhất. Đến khi ấy, chúng ta thấy hết thảy mọi người đều là Phật, thấy hết thảy vật cũng là Phật, thấy hết thảy sự vẫn là Phật, [chúng ta] bèn thành Phật. Mắt Phật thấy hết thảy đều là Phật, phàm phu thấy Phật, Bồ Tát cũng là phàm phu. Do vậy có thể biết, xác thực là cảnh chuyển theo tâm. “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”, chẳng sai tí nào!

      Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này. Buổi chiều chúng tôi sẽ nói đến đề mục của kinh.

 

Tập 3

 

Xin xem ḍng thứ tư trong trang mười bảy:

“Sở ngôn Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật giả, Phật thị sở quán thắng cảnh. Cử chánh báo dĩ thâu y quả, thuật hóa chủ dĩ bao đồ chúng. Quán tuy thập lục, ngôn Phật tiện châu; cố vân Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật” (Nói “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật” v́ Phật là cảnh thù thắng để quán. Nêu chánh báo để gồm thâu y báo, thuật hóa chủ để bao gồm đồ chúng. Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói đến Phật liền trọn đủ. V́ thế nói là “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật”). Tựa đề kinh có Thông và Biệt. Cái được gọi là Biệt Đề chính là chỗ khác biệt với những kinh khác. Thông Đề th́ hết thảy các kinh đều giống nhau. Chữ Kinh tiếp đó chính là Thông Đề, c̣n Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật trước đó là Biệt Đề. Ở đây nói “Phật thị sở quán thắng cảnh” (Phật là cảnh thù thắng để quán), “Phật” ở đây là Vô Lượng Thọ Phật, “cảnh” () là cảnh giới, “thắng cảnh” (勝境) là cảnh thù thắng nhất. Trong phần trước, chúng ta đă biết nguyên do quán Phật và công đức quán Phật. “Chánh báo” (正報) là thân Phật. Chúng ta quán Vô Lượng Thọ Phật tức là đă bao gồm thế giới và hoàn cảnh sống của Vô Lượng Thọ Phật. “Hóa chủ” (化主) là giáo chủ, cũng là thầy. Nhắc tới thầy, đương nhiên cũng bao gồm các học tṛ của Ngài. Thế giới Cực Lạc giống một ngôi trường đại học, Vô Lượng Thọ Phật là hiệu trưởng, những người khác đều có thể nói là học tṛ của Ngài. Các pháp Quán tuy nói đến mười sáu loại, nhưng hễ nói “Phật” th́ mười sáu phép Quán đều được bao gồm. “Châu” () là trọn hết, toàn bộ đều được bao gồm. Do đó, tựa đề của kinh này là Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. “Kinh giả, huấn pháp, huấn thường, do thánh nhân kim khẩu, cố vân Kinh dă” (Kinh là dạy về pháp, dạy về lẽ thường, xuất phát từ miệng vàng của thánh nhân, nên gọi là Kinh). Đạo tràng của chúng ta giảng kinh quanh năm không gián đoạn, những phần giống như Thông Đề có thể tỉnh lược, có thể chẳng cần nói!

      Chúng ta lại xem đoạn văn tiếp theo: “Thử kinh nghĩa sớ, nhân hy tịnh báo, cố thuyết thính giả đa hỹ” (Sớ giải ư nghĩa kinh này, do người ta mong mỏi tịnh báo, nên người nói, kẻ nghe đông đảo). Đối với kinh này, Nghĩa Sớ là chú giải do Trí Giả đại sư soạn, v́ người tu hành đều mong cầu sanh về Tịnh Độ, nên bản chú giải này là bộ sách vô cùng quan trọng để tu Tịnh Độ. V́ thế, người giảng nhiều, người nghe cũng đông. Kinh này giảng cặn kẽ y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương; v́ nếu không nói tỉ mỉ, chúng ta chẳng thể nào quán tưởng được, ắt cần phải nói rơ ràng, tường tận, tỉ mỉ phương pháp tu hành. V́ thế, người thật sự phát nguyện, mong cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời này, nói thật ra, chẳng thể nào không biết đến. Mấy câu này nhằm nói rơ v́ sao phải viết chú giải. Tiếp đó: “Sở bẩm Bảo Vân sư thủ chế kư văn, tương duyên chí kim, trước thuật bất tuyệt, giai tông Trí Giả” (Nhờ có thầy Bảo Vân ghi chép đầu tiên, truyền măi đến nay, trước thuật chẳng ngừng, đều noi theo ư chỉ của ngài Trí Giả). Câu này nói về sư thừa; nếu chẳng có sư thừa, chẳng thể khiến cho kẻ khác tin tưởng. Trung Quốc và Ấn Độ hết sức coi trọng sư thừa. Những ǵ quư vị đă học là do học với ai? Điều này rất trọng yếu. Không như hiện tại, người hiện thời chẳng coi trọng sư thừa cho mấy! Mỗi người đều có thể tự lập một trường phái, thời cổ chẳng có chuyện ấy!

      Chúng ta đọc Đàn Kinh sẽ thấy chuyện thiền sư Vĩnh Gia. Ngài Vĩnh Gia là một người vô cùng thông minh, gặp gỡ ngài Huyền Sách. Ngài Huyền Sách nhận biết Sư là một nhân tài, khuyên Sư phải t́m một bậc cao minh để ấn chứng, tức là chứng minh cho Sư. Người chứng minh cho Sư sẽ là thầy. Nếu không có ai chứng minh, nói chính ḿnh học thành công, ngài Huyền Sách nói: “Nói theo Phật pháp, trước thời Oai Âm Vương th́ có thể. Sau Oai Âm Vương Phật, nếu chẳng có sư thừa, đều là thiên nhiên ngoại đạo”. Chư vị hăy nghĩ xem, chuyện này rất nghiêm trọng! V́ thế, Ngài bèn khuyên Sư đến Tào Khê thân cận Lục Tổ, bái Lục Tổ làm thầy, tức là có truyền thừa. Ngài Vĩnh Gia thật sự thông minh, đến gặp Lục Tổ nói mấy câu liền khế nhập cảnh giới. Đă được tổ sư ấn chứng, Ngài chuẩn bị rời khỏi. Lục Tổ đại sư nói: “Ông chẳng cần đi gấp như vậy, hăy nghỉ lại một đêm. Ngày mai hăy đi th́ hơn”. V́ thế, đêm Sư ở lại Tào Khê được gọi là Nhất Túc Giác (giác ngộ trong một đêm), “nhất túc” (一宿) là trong một buổi tối, Ngài liền khai ngộ, liền giác ngộ, cũng là chứng tỏ lời cổ nhân đă nói: “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (một ngày là thầy, suốt đời là cha). V́ thế, sư thừa chẳng nhất định là phải ở cùng thầy bao lâu, được thầy chỉ điểm, chính ḿnh thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ, vậy là đủ rồi!

      Sư thừa của bản chú giải này là từ ngài Bảo Vân. Trong chú giải có nói ngài Tứ Minh được bẩm thụ pháp từ pháp sư Bảo Vân[7]. Ngài Bảo Vân là người xứ Cao Ly, tức là người Đại Hàn, khai ngộ trong hội của Trí Giả đại sư. Ngài đến Trung Quốc du học, sau khi đă ngộ, muốn trở về, quay về nước ḿnh để hoằng pháp, nhưng về sau bị các đồng tu bên Trung Hoa giữ lại. Ngài nói Phật pháp chẳng có giới hạn chủng tộc, mà cũng chẳng có giới hạn quốc gia, ở đâu có duyên th́ đến đó hoằng dương, cần ǵ cứ phải nhất định trở về nước ḿnh! Do đó, Ngài ở lại. Ngài Bảo Vân có hai đệ tử; hai người đệ tử ấy đều hết sức nổi tiếng trong Phật giáo sử Trung Quốc, một là tôn giả Tứ Minh, vị kia là Từ Vân Tuân Thức đại sư. Đối với tông Thiên Thai sau này, có thể nói là các Ngài là những vị đại pháp sư chủ yếu phục hưng tông Thiên Thai. Chúng tôi cũng tỉnh lược truyện kư các Ngài.

      Lại xem đoạn kế tiếp là “trước thuật dụng ư”, [hăy đọc] ḍng cuối cùng trong trang mười chín: “Khởi hữu bất tri tu tâm diệu quán, cảm tứ Tịnh Độ văn nghĩa giả da?” (Há có lẽ nào chẳng biết tu tâm diệu quán, mà cảm bốn cơi Tịnh Độ ư?). Trước hết, Ngài đặt ngược vấn đề. Há có lẽ nào mà có kẻ chẳng biết tu tâm, chẳng biết tu diệu quán, lại có thể văng sanh Tây Phương Tịnh Độ? Tây Phương có bốn loại Tịnh Độ: Thường Tịch Quang Tịnh Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ và Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Câu nói này đă nêu khái quát: Bốn loại Tịnh Độ đều phải tu diệu quán. Cùng tu diệu quán như nhau, v́ sao sanh trong các cơi khác nhau? Do công phu diệu quán của quư vị có cạn hay sâu khác biệt. V́ thế, bất luận tu phương pháp nào, công phu [đều có] cạn hay sâu. Nói theo kinh điển Tịnh Tông, sẽ là công phu thành phiến, Sự nhất tâm bất loạn, và Lư nhất tâm bất loạn. Đó là phân chia đại lược. Nếu chia tỉ mỉ, trong mỗi loại lại có nhiều loại nhỏ khác biệt, nên mới [nói tổng quát là phẩm vị văng sanh] có ba bậc chín phẩm.

      Đoạn kế đó là Chánh Thị (正示), tức là giảng rơ ư nghĩa. “Lương dĩ mẫn vật t́nh thâm” (do ḷng thương xót chúng sanh sâu đậm), “vật” () là tiếng gọi chung chúng sanh. Nếu nói “người”, sẽ chẳng bao gồm chư thiên, chẳng bao gồm súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. V́ thế, dùng chữ Vật để bao quát tất cả hữu t́nh chúng sanh trong lục đạo. Đức Phật mở ra pháp môn này, không chỉ nhằm độ chúng ta, mà c̣n muốn độ chư thiên, cũng muốn độ ba ác đạo. Dẫu là chúng sanh trong địa ngục, nhưng nếu họ có thể tin tưởng, có thể y giáo phụng hành, đều có thể văng sanh. Có thể thấy pháp môn này xác thực là rộng lớn vô biên, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là các vị tổ sư đại đức dấy ḷng bi mẫn đối với hết thảy chúng sanh. “Thích thời trí xảo, cố đa đàm sự tướng, thiểu thị Quán môn, vụ tại hạ phàm, phổ triêm duyên chủng” (Trí xảo diệu nhằm thích ứng thời cơ, nên bàn nhiều về sự tướng, ít chỉ dạy quán tưởng, chú trọng bọn phàm phu hạ căn, khiến cho họ được gieo duyên trọn khắp). Đây là nói về chuyện giảng kinh, thuyết pháp thông thường. Nhằm khế cơ, căn cơ của chúng sanh hèn kém, tầm nh́n ngắn ngủi, tham cầu lợi ích trước mắt, vẫn chẳng mong văng sanh Tịnh Độ, vậy th́ tạo pháp duyên cho họ là được rồi, chẳng cần phải nói sâu. Đó là “đa đàm sự tướng, thiểu thị Quán môn”. Giới thiệu Phật pháp với người khác, xác thực là có phương tiện thiện xảo. Trước hết, phải làm cho chúng sanh sanh tâm hoan hỷ, bằng ḷng nghe, bằng ḷng tiếp nhận, chẳng đến nỗi nghe một lần, lần sau chẳng tới nữa. V́ thế, phải dùng phương tiện thiện xảo để tiếp dẫn họ. Đợi đến khi họ nhập môn, đă có một chút căn cơ rồi, lại nói lời thật với họ. Nếu trước tiên, vừa mở đầu, quư vị bảo họ niệm Phật văng sanh chẳng dễ dàng, lần sau họ cũng chẳng đến nữa, [v́ họ nghĩ]: “Pháp môn này vô dụng, ta niệm suốt đời chẳng thể thành tựu, ta c̣n đến đây làm chi?” V́ thế, trước hết, phải bảo họ [pháp môn này] rất dễ dàng, đến khi họ cảm thấy dễ dàng, sau khi đă học được vài năm, lại bảo họ: “Pháp môn này cũng chẳng dễ dàng như quư vị tưởng tượng”. Nói lời thật với quư vị!

      Do đó, chúng ta dạy người khác, quư vị thấy đó: Dạy quư vị thọ tŕ kinh pháp, chấp tŕ danh hiệu, trước tiên dạy quư vị niệm nhuần nhuyễn; đó là công phu bước đầu. Đă thấu triệt nhuần nhuyễn, lại dạy quư vị dùng phương pháp khuất phục phiền năo, cũng tức là dùng phương pháp này khiến cho vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự của chúng ta thảy đều bị khuất phục. Có thể khuất phục [các phiền năo], sẽ quyết định văng sanh, [sanh vào] cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Khi đạt đến công phu ấy, lại bảo quư vị: “V́ sao quư vị chẳng muốn tiến thêm một bước nữa?” Tiến thêm một bước là Sự nhất tâm bất loạn, đoạn sạch phiền năo, công phu càng thù thắng, phải nói tới Quán môn. Do đó, tu học và tu hành có thứ tự, tuy pháp môn này là đại pháp viên đốn, nó vẫn có thứ tự. Đúng như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hành bố chẳng ngại viên dung, viên dung chẳng ngại hành bố”, Hành Bố (行布) là [tu tập] theo thứ tự.

      “Phương kim gia vận, thịnh diễn viên thừa, mộ học chi đồ, giai dục đắc chỉ nhi tu chứng hỹ” (nay gặp vận tốt lành, sôi nổi diễn giảng giáo pháp viên đốn, những đồ đệ ham học đều muốn nắm được ư chỉ để tu chứng), đoạn này cho biết nhân duyên đă chín muồi. Nhân duyên chẳng chín muồi, sẽ chẳng thể nói; hễ chín muồi bèn có thể nói. “Gia vận” (嘉運) là một hội tốt đẹp, đây là một pháp hội thù thắng nhất. “Viên thừa” (圓乘) là viên đốn Nhất Thừa. Kinh này và kinh Vô Lượng Thọ đồng loại, cổ đức tán thán kinh Vô Lượng Thọ là “viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn, là Đại Thừa của các pháp Đại Thừa, là Viên Giáo của Viên Giáo”. Tán thán tới tột bậc! Kinh này đă là đồng loại với kinh ấy, đương nhiên cũng là pháp Nhất Thừa viên đốn. Có thể hâm mộ, mong tu học pháp môn này th́ chẳng phải là căn khí tầm thường! Đúng như trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói, căn khí ǵ vậy? Cơ duyên thành Phật đă chín muồi, người này sẽ thành Phật trong một đời này, lỗi lạc thay! Trong hết thảy các căn khí, thành Phật là bậc nhất, c̣n cao hơn thành Bồ Tát. Người này muốn thành Phật trong một đời này, phải thành Phật th́ mới có thể cảm động chư Phật, Bồ Tát v́ chúng ta nói pháp môn này; do đó gọi là “gia vận”.

      Trong lời chú giải có mấy câu viết rất hay. Ngài viết “viên đốn sơ tâm”, “viên đốn” là nói về căn tánh, xác thực là người căn tánh viên măn đốn siêu, đó là căn tánh Bồ Tát. “HHhHỷ văn viên nghĩa” (thích nghe giáo nghĩa viên đốn), người ấy nghe kinh, đọc kinh, thích đọc kinh điển Viên Giáo Đại Thừa, người ấy mới có thể thỏa măn. “Ngưỡng mộ Diệu Tông”, vô cùng hâm mộ phương pháp tu học vi diệu thù thắng này. Thời tiết, nhân duyên chín muồi, tuyệt đối chẳng phải là ngẫu nhiên! Chúng ta nh́n từ chỗ này, chư Phật, Bồ Tát thương xót chúng sanh xác thực là chẳng có cách nào tưởng tượng được, chẳng biết c̣n vượt quá bao nhiêu lần t́nh cha mẹ yêu mến con cái. Lúc càng khổ nạn, càng dễ thấy. Chẳng phải là trong lúc khổ nạn th́ cơ duyên chẳng chín muồi, mọi người vẫn tỉnh tỉnh mê mê, chẳng mong tiến cao hơn, nên Phật, Bồ Tát chẳng đến. Trong lúc đại kiếp nạn, khổ nạn xảy đến, người ta liền cảm nhận cuộc đời và kiếp người hết sức đau khổ, mong mỏi giải thoát, mong mỏi rời khỏi hoàn cảnh này; khi ấy, cơ duyên chín muồi, Phật, Bồ Tát liền đến.

      Trong toàn thể Phật pháp, Tịnh Tông là pháp môn thù thắng nhất. Nói thật ra, không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong cơi đời, mà hết thảy chư Phật đều xuất hiện trong cơi đời. Nếu quư vị hỏi các Ngài, các Ngài đến thế gian này để làm ǵ? [Các Ngài sẽ đồng thanh trả lời]: Độ chúng sanh thành Phật đạo. Các Ngài dùng phương pháp ǵ? Chẳng có vị nào không dùng phương pháp Niệm Phật, đều dùng phương pháp này; nên đây là pháp môn bậc nhất. V́ sao nói các pháp khác, nói kinh điển nhiều như vậy? Đó là v́ thiện căn của chúng sanh chưa chín muồi, chưa thể tiếp nhận pháp môn này, nên mới giảng những pháp môn khác nhằm bồi dưỡng căn tánh của họ, khuyên dụ họ trở về pháp môn Niệm Phật; đó là Như Lai đă buốt ḷng rát miệng lập bày phương cách. Nếu chư vị thâm nhập kinh tạng, sẽ có thể nh́n ra. Người Hoa có duyên với Phật pháp rất sâu, chư Phật, Bồ Tát hóa thân ở Trung Quốc hết sức nhiều; trong những nơi khác trên thế giới chưa hề nghe nói [có t́nh h́nh giống như vậy]. Chẳng phải là Phật, Bồ Tát có ḷng thiên vị, Phật, Bồ Tát chẳng hề thiên vị, mà là chúng sanh ở nơi ấy duyên đă chín muồi, các Ngài bèn thị hiện. Nhân duyên chưa chín muồi, hăy thong thả chờ đợi.

Trong thời đại này, so trong lịch sử Trung Quốc, thậm chí trong lịch sử cả thế giới, là thời kỳ thống khổ nhất, trong quá khứ chẳng hề gặp đại kiếp nạn như trong hiện tại, nên Phật, Bồ Tát cũng xuất hiện trong thời cận đại rất nhiều. Chúng ta biết tổ sư Ấn Quang là Tây Phương thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, chúng ta biết điều này. Tổ Ấn Quang tán thán sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, Ngài nói: “Dẫu cổ Phật tái lai viết bản chú giải kinh Di Đà khác, cũng chẳng thể hay hơn được”. Ngẫu Ích đại sư là hạng người nào mà được Đại Thế Chí Bồ Tát tán thán dường ấy? Nếu Ngài chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, tôi tin tưởng Ngài quyết định là Quán Âm Bồ Tát tái lai. Từ lời tán thán ấy, chúng ta có thể suy đoán đôi chút tin tức. Thời cận đại là lúc gặp kiếp nạn lớn nhất, Tịnh Tông chẳng dễ được kẻ khác tiếp nhận nhất! Không chỉ là người Hoa trong thời hiện đại chẳng chịu tiếp nhận, mà người ngoại quốc lại càng khỏi cần nói nữa. Do đó, cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện. Hạ lăo cư sĩ là vị nào tái lai? Không ai biết! Quan sát từ nhiều dấu tích và phương diện, chúng tôi đoán vị này chẳng phải là Phật tái lai, cũng là bậc Bồ Tát từ Đẳng Giác trở lên, tuyệt đối chẳng phải là phàm nhân. Ngài xuất hiện trong thế gian này để làm ǵ? Chỉnh lư kinh Vô Lượng Thọ một lần nữa, ḥng khiến cho trọn khắp chúng sanh trên thế giới đều hoan hỷ tiếp nhận, Ngài đến làm chuyện này. Cũng là v́ kinh này được lưu thông tại Trung Quốc, bao nhiêu lần phiên dịch đều chẳng viên măn cho lắm, chẳng có một bản nào viên măn! Đấy là Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng phải là người tầm thường!

Tôi đă hai lần nói với Hoàng lăo cư sĩ, mong cụ viết truyện kư của thầy Hạ để chúng tôi lưu thông. Lần này, lăo nhân gia bảo tôi: “Chưa được! Chưa đến lúc. V́ sao? Sợ là viết ra sẽ bị kẻ khác hủy báng”. Tôi ở Đại Lục quan sát đôi chút, quả đúng là thời tiết nhân duyên chưa chín muồi; nhưng bản kinh do thầy Hạ hội tập thịnh hành ở Đài Loan như vậy, cũng là chuyện tôi không ngờ đến. Chúng tôi đề xướng kinh này mới ba, bốn năm, nghiễm nhiên hiện thời tại Đài Loan, từ Nam đến Bắc, người đọc tụng bộ kinh này đông ngần ấy, người diễn giảng cũng nhiều, người ấn hành cũng lắm, đúng là hy hữu khó gặp! Đó là thời tiết nhân duyên chín muồi, rất khó thấy. V́ thế, Đài Loan là đảo báu, là phước địa, được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên gia tŕ, nơi này sẽ chẳng có tai nạn. Tục ngữ có nói “hữu kinh vô hiểm” tức là chẳng có đại kiếp nạn!

      Kế đó là “thuật sao sở dĩ” (nguyên do viết lời Sao), nêu rơ ư nghĩa Ngài viết chú giải lần này. “Cố kiệt bỉ tư, sao sổ thiên ngôn” (do đó, dốc cạn tâm tư thô lậu, viết lời Sao gồm mấy ngàn chữ), hai câu này là tôn giả Tứ Minh khiêm hư. Nói thật ra, tôn giả là bậc thông gia trong Phật môn, thông Tông, thông Giáo, v́ chúng ta giảng kinh này, há c̣n tốn tâm tư ǵ? Chẳng tốn sức! Ở đây, Ngài nói “cố kiệt bỉ tư, sao sổ thiên ngôn” là nói khách sáo. “Thượng thuận diệu tông, lược tiêu thử sớ” (kính vâng theo tông chỉ mầu nhiệm, giải thích đại lược ư nghĩa trong bản sớ giải này), tùy thuận tông chỉ tu học vi diệu để giải thích bộ Sớ của Trí Giả đại sư. “Thích thời chi xảo, phi ngă sở năng” ([đó là do] thời cơ khéo phù hợp, chẳng phải là sức tôi [có thể tạo thành như vậy]), càng khiêm hư hơn nữa! Có nghĩa là Ngài nói, thời tiết, nhân duyên phù hợp khéo léo, Tam Bảo gia tŕ, [nên bản Sớ Sao này được ra đời], chứ chẳng phải là năng lực của chính tôi. Lời này là nói khiêm tốn, nhưng thật ra cũng là lời thật. Nay chúng ta có thể nói, có thể nghe, hoan hỷ tin nhận, đều do thiện căn từ quá khứ hiện hành, nay được Tam Bảo gia tŕ, đúng là như vậy!

      Kế đó là dụng ư thật sự của Ngài: “Nguyện cộng hữu t́nh, tức tâm niệm Phật, năi thử Sao sở dĩ tác dă” (nguyện cùng các hữu t́nh dùng ngay cái tâm niệm Phật, đấy chính là lư do viết lời Sao này). Dụng ư soạn bộ Sớ Sao này để lại cho thời ấy và mai sau của Ngài đă được nêu ra trong hai câu này. Bản thân Ngài đạt được lợi ích chân thật nơi bộ kinh này, sau khi đă đạt được, bèn hy vọng mọi người chúng ta ai nấy đều có thể đạt được. Nguyện cùng các hữu t́nh, ta cùng hết thảy hữu t́nh chúng sanh, dùng ngay cái tâm này để niệm Phật. Hăy chú ư! Chẳng phải là miệng niệm, chẳng phải là bảo quư vị niệm Phật đằng miệng, mà là niệm Phật bằng chính cái tâm. Miệng niệm Phật, trong tâm chẳng có Phật, vô dụng! Trong tâm có Phật, miệng chẳng niệm, vẫn hữu dụng, vẫn là hữu ích. V́ thế, khẩn yếu là nơi tâm, tâm mới là Diệu Tông, tu từ tâm là tu nơi căn bản. Chư vị phải biết, trong vọng tâm chẳng có Phật, trong vọng tâm có ǵ? Trong vọng tâm có ma. Ma là ǵ? Vùi dập! Vọng tâm khổ lắm, quư vị dùng vọng tâm, chịu hết mọi nỗi đày đọa. Nếu quư vị dùng chân tâm, thanh tịnh tự tại. Bởi lẽ, chân tâm là Phật, tâm chúng ta niệm Phật là chân tâm; khởi tâm niệm Phật, tâm ấy là chân tâm. Ta khởi tâm niệm Bồ Tát, niệm La Hán, những tâm ấy chẳng phải là chân tâm, chẳng phải thuần chân. Đặc biệt là trong hết thảy chư Phật, khởi tâm niệm A Di Đà Phật chính là thuần đến mức tột bậc. V́ sao? V́ A Di Đà Phật là Bổn Giác của chính chúng ta, là đại giác viên măn rốt ráo. Tâm ấy và Phật hoàn toàn tương ứng, công đức lợi ích ấy bất luận pháp môn nào cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng!

Đồng tu niệm Phật rất nhiều, nhưng người biết chân tướng sự thật chẳng nhiều! Nếu quư vị thật sự biết chân tướng sự thật này, sẽ rất hoan hỷ niệm Phật, sẽ niệm Phật chẳng gián đoạn. V́ sao? Quả thật là “một niệm tương ứng một niệm Phật”. Trong khi quư vị niệm Phật, tâm là Phật, miệng là Phật, hạnh là Phật, ba nghiệp đă khế nhập cảnh giới nơi quả địa Như Lai, người ấy có thể chẳng niệm ư? Do đó, “niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”, chẳng niệm ǵ khác, những thứ khác, người ấy đều chẳng cần niệm. V́ sao? Niệm Phật, tất cả vô lượng vô biên pháp môn khác thảy đều thành tựu. Kinh Hoa Nghiêm nói “một tức là nhiều, nhiều chính là một”, “nhiều” là vô lượng vô biên pháp môn, “một” là A Di Đà Phật, vô lượng vô biên pháp môn đều quy vào A Di Đà Phật, nên vô lượng chính là một. Niệm một câu A Di Đà Phật, hết thảy các pháp môn đều tu học viên măn; niệm đến mức nhất tâm bất loạn, tất cả hết thảy các pháp môn đều viên tu, viên chứng, [do đó], một chính là vô lượng.

      Cổ đức đă so sánh các giáo pháp trong một đời đức Thế Tôn. Các Ngài nói hết thảy các kinh, nay chúng ta gọi “hết thảy các kinh” là Đại Tạng Kinh, tức là đem toàn bộ kinh điển do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm so sánh một phen, Hoa Nghiêm là bậc nhất. Cao tăng đại đức trong ngoài nước đều thừa nhận điều này. So sánh kinh Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất. V́ sao? Nếu kinh Hoa Nghiêm chẳng đến cuối cùng “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”, Hoa Nghiêm chẳng viên măn, quy về Cực Lạc mới viên măn. Kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối từng câu, từng chữ đều giảng về thế giới Cực Lạc, là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm, đương nhiên kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất. Bản hội tập của ngài Hạ Liên Cư đă chia kinh thành bốn mươi tám chương. Trong bốn mươi tám chương ấy, chương nào bậc nhất? Chương thứ sáu là bậc nhất. Chương thứ sáu là bốn mươi tám nguyện, do chính A Di Đà Phật tự nói. Kinh Vô Lượng Thọ do hai vị Phật thuyết pháp, phần kinh văn ấy do chính A Di Đà Phật tự nói. Bốn mươi tám nguyện là bậc nhất. Bốn mươi tám nguyện c̣n có bốn mươi tám điều, điều nào là bậc nhất? Các vị tổ sư đại đức cũng công nhận như sau: Nguyện thứ mười tám là bậc nhất. Nguyện thứ mười tám là ǵ? “Mười niệm ắt văng sanh”, tức là quy vào một câu Phật hiệu. V́ lẽ đó, đến cuối cùng quư vị mới hiểu: Nguyên lai A Di Đà Phật là bậc nhất.

      Nếu quư vị hỏi: A Di Đà Phật nghĩa là ǵ? Một bộ kinh Vô Lượng Thọ nhằm giải thích ư nghĩa A Di Đà Phật. Một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là chú giải của kinh Vô Lượng Thọ, mà cũng là thuyết minh cặn kẽ về A Di Đà Phật. Nếu nói chi tiết hơn một chút, sẽ là Đại Tạng Kinh; toàn bộ Đại Tạng Kinh nhằm giảng điều ǵ? Giảng về A Di Đà Phật, quư vị phải hiểu cho rơ! Nếu chưa hiểu rơ điều này, đúng là sẽ coi rẻ A Di Đà Phật. V́ thế, cổ đức so sánh từng tầng một, dần dần so sánh đến cuối cùng, mới phát hiện chót núi tột cùng vốn là A Di Đà Phật, thống nhiếp vô lượng vô biên pháp môn. V́ vậy, năng niệm và sở niệm đều chẳng thể nghĩ bàn!

      Trong lời Sao của ngài Tứ Minh, câu cuối cùng trong trang hai mươi mốt là: “Phàm hữu tâm giả, giai đương tác Phật, tức tâm tức Phật, niệm Phật niệm tâm, tâm Phật bổn tự bất nhị, năi sở dĩ tác thử sao dă” (Phàm những ai có tâm sẽ đều làm Phật. Tâm chính là Phật, Phật chính là tâm, niệm Phật là niệm tâm. Tâm và Phật vốn tự chẳng hai. Đấy chính là lư do soạn bộ Sao này vậy). Mấy câu này của tôn giả Tứ Minh có thể nói là giải thích vô cùng thấu triệt. Trí Giả đại sư soạn Sớ, nhằm mục đích dạy chúng ta “tức tâm niệm Phật” (dùng ngay chính cái tâm này để niệm Phật), tâm là Phật, Phật là tâm. Hăy ghi nhớ: Cái tâm ấy là chân tâm, là cái tâm chẳng có vọng niệm. Tông chỉ tu hành của Thiền gia chẳng khác những điều đang được nói ở đây. Trong Ngữ Lục, ḥa thượng Đại Châu vừa mở đầu liền nói “người khéo tu th́ tu từ căn bản”. Căn bản là ǵ? Tâm là căn bản, cho nên phải dốc sức từ tâm địa; đó gọi là “tu từ căn bản”; nhưng phải dùng chân tâm, chớ nên dùng vọng tâm, đấy mới là tu hành thật sự. V́ vậy, phương pháp tu hành trong Thiền Tông là tham cứu, chẳng gọi là nghiên cứu. Hiện thời chúng ta thường nói: “Quư vị hăy nghiên cứu kỹ càng chuyện ǵ đó”, Thiền gia bảo quư vị hăy tham cứu, chẳng bảo hăy nghiên cứu! V́ sao? Nghiên cứu dùng suy nghĩ, xét đoán, mà suy nghĩ, xét đoán là thức thứ sáu, tức ư thức. Tham cứu chẳng cần suy nghĩ, xét đoán, không dùng tâm ư thức. Thức thứ sáu tức ư thức là phân biệt, thức thứ bảy tức Mạt Na là chấp trước, thức thứ tám tức A Lại Da là lưu lại ấn tượng. Chẳng cần tới ba thứ ấy! Nói cách khác, chẳng phân biệt, không chấp trước, không lưu lại ấn tượng, mới gọi là tham cứu; tham cứu dùng chân tâm. Người thế gian dùng cái tâm phân biệt, dùng cái tâm chấp trước, ắt giữ lại ấn tượng, họ sử dụng tâm ư thức, [tức là] dùng vọng tâm, chẳng phải là chân tâm.

      Đại Thừa Phật pháp đều dùng chân tâm. Tông Môn dùng chân tâm, Giáo Hạ cũng chẳng phải là ngoại lệ. Đối với Giáo Hạ, quư vị thấy trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă dạy chúng ta nguyên tắc tu học. Ngài dạy chúng ta, bất luận là đọc kinh hay nghe giảng, “ly ngôn thuyết tướng”, chẳng phân biệt, chẳng dùng thức thứ sáu, tức ư thức; “ly danh tự tướng” tức là chẳng chấp trước, chẳng dùng thức thứ bảy; “ly tâm duyên tướng”, tức là đừng khởi vọng niệm, đừng suy nghĩ loạn xạ, cũng chẳng cần suy tưởng ư nghĩa trong kinh, quyết định chớ nên nghiên cứu, đừng dùng thức thứ tám. V́ thế, Giáo Hạ cũng là ĺa tâm ư thức th́ mới có thể đại khai viên giải. Trong Tịnh Độ Tông, nếu quư vị chẳng ĺa tâm ư thức, cứ dùng tâm ư thức hoặc vọng tâm để niệm, vẫn được! C̣n có thể văng sanh. Chuyện này lạ lùng, đúng là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng giống các pháp môn khác. Cơi Phàm Thánh Đồng Cư và cơi Phương Tiện Hữu Dư đều là dùng tám thức để niệm Phật văng sanh, c̣n cơi Thật Báo Trang Nghiêm và cơi Thường Tịch Quang là ĺa tâm ư thức để niệm Phật văng sanh, nên khác nhau! V́ thế, Tịnh Tông c̣n có cái hay: “Chẳng biết dùng chân tâm, vẫn có thể văng sanh”; đó là lư do khiến cho chư Phật, Bồ Tát đặc biệt tán thán. Chính v́ như thế, pháp môn này có thể phổ độ hết thảy chúng sanh, chúng sanh căn tánh thượng, trung, hạ đều đắc độ. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy A Di Đà Phật, lại ĺa tâm ư thức, như vậy th́ sẽ thuận tiện hơn, an toàn hơn, v́ sao? Chẳng phải luân hồi trong lục đạo nữa, pháp môn này đặc biệt thuận tiện!

      Phần lời tựa tới đây là kết thúc, đă giới thiệu viên măn. Kế tiếp là “nhập văn” (入文), tức là [bước vào phần] chánh văn của Diệu Tông Sao. Chánh văn được mở đầu bằng năm tầng huyền nghĩa của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai giảng kinh hay chú giải đều tuân thủ nguyên tắc sau đây: Trước hết, dùng năm điều đại cương để giới thiệu đại ư của toàn bộ bản kinh; giới thiệu đại ư của cả bản kinh xong rồi mới giảng kinh văn. Do đó, phần Huyền Nghĩa hết sức quan trọng. Phương thức này xét theo Phật pháp, nói thật ra, chú giải Phật pháp có hai loại, tức là Luận gồm có hai loại lớn: Một loại là Tông Kinh Luận (宗經論), loại kia là Thích Kinh Luận (釋經論). Tông Kinh Luận là căn cứ trên kinh nghĩa (giáo nghĩa hoặc ư nghĩa chánh yếu trong kinh) để xiển dương, nêu tỏ, chẳng phải là giải thích kinh văn từng câu một. Bộ phần Huyền Nghĩa thuộc loại Tông Kinh Luận. Đến khi bước vào phần chánh kinh để giải thích, giải thích từng câu kinh văn một th́ là Thích Kinh Luận.

Trong các bộ đại luận của kinh Phật, Du Già Sư Địa Luận thuộc loại Tông Kinh Luận, chẳng phải là giải thích kinh văn từng câu một. Đại Trí Độ Luận là Thích Kinh Luận, giải thích kinh văn từng câu một. Tông Thiên Thai kết hợp hai loại ấy thành một, Tông Kinh Luận và Thích Kinh Luận đều có. Phần Huyền Nghĩa thuộc loại Tông Kinh Luận.

      “Thích kinh ngũ nghĩa, Danh, Thể, Tông, Dụng, Giáo Tướng, vân vân” (Giải thích năm nghĩa trong kinh là Danh, Thể, Tông, Dụng và Giáo Tướng v.v…). Nay chúng ta nói “vân vân” là v.v… Ngài dùng năm hạng mục ấy, tức là dùng năm khoa để giới thiệu đại ư của cả bộ kinh. Chúng ta đem đọc lời Sao dưới đó một lượt. “Sao vân” (Sao rằng), Sao là lời giải thích của tôn giả Tứ Minh, Trí Giả đại sư giải thích rất đơn giản. “Ngôn vân vân giả, linh y chư bộ, minh ư thông thích ngũ chương chi nghĩa” (nói “vân vân” là dựa theo [thể lệ được sử dụng] trong các bộ [sách của ngài Thiên Thai Trí Giả], nói rơ sẽ giải thích ư nghĩa theo thể lệ thông thường gồm năm chương): Theo thể loại Ngũ Chương, tức là chia [phần Huyền Nghĩa] thành năm chương để giới thiệu đại ư của toàn thể bản kinh. “Diệu Huyền vân” (sách Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa có nói); Diệu là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Huyền là Huyền Nghĩa, [tác phẩm] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa [của tổ Trí Giả] giải thích kinh Pháp Hoa, [trong phần giảng giải Huyền Nghĩa, đă chia thành năm phần] là Kinh Đề, Biện Thể, Minh Tông, Luận Dụng và Giáo Tướng. Trí Giả đại sư giảng [phần Huyền Nghĩa phải mất] chín mươi ngày, đó là “cửu tuần đàm diệu” nổi tiếng của tông Thiên Thai. Điển cố ấy phát xuất từ chuyện này. Xét về kích thước, trong Đồ Thư Quán của chúng ta có [tác phẩm ấy], bản in b́a cứng dầy như vậy, đại khái [bộ sách ấy] gồm có ba quyển giống như bộ Diệu Tông Sao quư vị đồng tu đang cầm trên tay. Ba quyển ấy nói ǵ vậy? Năm tầng Huyền Nghĩa của kinh Pháp Hoa, vẫn chưa giảng vào kinh văn. [Những điều do] Trí Giả đại sư giảng giải trong chín mươi ngày, được ghi lại thành ba quyển dầy dường ấy. Đó là sách Diệu Huyền, là một bộ lớn trong Thiên Thai Tam Đại Bộ.

      Bộ phận lớn thứ hai [trong Thiên Thai Tam Đại Bộ] là giảng kinh văn, kinh văn [được giảng giải] trong bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú. V́ thế, trong hai bộ phận lớn trên đây, bộ phận lớn phía trước, tức Diệu Huyền là Tông Kinh Luận của kinh Pháp Hoa, Văn Cú là Thích Kinh Luận của kinh Pháp Hoa; bộ c̣n lại là phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai, tức Ma Ha Chỉ Quán. Trước đây, người học Thiên Thai nhất định phải đọc thuộc ḷng ba bộ sách lớn ấy. Chẳng thể đọc thuộc ḷng, chẳng thể vào giảng đường của tông Thiên Thai! Nghe kinh trong giảng đường Thiên Thai, ba bộ sách lớn ấy đều rất thuộc th́ mới có tư cách bước vào giảng đường nghe giảng. V́ thế, tŕnh độ học Phật xưa kia cao hơn chúng ta trong hiện thời rất nhiều. Hiện thời, mỗi người chúng ta đều cầm kinh bổn, chiếu theo kinh bổn để giảng. Trước kia, người ta chẳng có kinh bổn như vậy, kinh sách chẳng có nhiều như vậy, thuật ấn loát chưa phát triển. Nhất là như trong thời đại Đường - Tống, chưa phát minh ra kỹ thuật ấn loát, sách đều là chép tay, há có nhiều như vậy? Tất cả mọi người đều học thuộc ḷng, người giảng kinh rất thuộc, chẳng cần dùng kinh bổn, người nghe kinh cũng học rất thuộc, cũng chẳng dùng kinh bổn, [ai nấy] đều chẳng cần dùng kinh bổn. Hiện thời, kỹ thuật ấn loát phát triển, ấn hành rất thuận tiện, mỗi cá nhân đều có thể có kinh bổn, cầm kinh bổn để nghe giảng. Nói thật ra, xét theo mức công phu chân chánh, chẳng bằng cổ nhân! Cổ nhân đều là đọc thuộc ḷng, đều nhớ nằm ḷng. Được rồi, chúng ta nghỉ mấy phút.

 

Tập 4

 

Xin mở kinh bổn, xem trang hai mươi hai.

      Trong phần Sao, chúng ta thấy “thất phiên cộng giải” (七番共解) của tông Thiên Thai. Đây là phương thức giảng kinh của họ. “Thất phiên” (七番) là bảy tiểu đề mục, mỗi tiểu đề mục đều rất rơ ràng: Một là tiêu chương (標章), hai là dẫn chứng (引證), ba là sanh khởi (生起), bốn là khai hợp (開合), năm là liệu giản (料簡), sáu là quán tâm (觀心), bảy là hội dị (會異)[8]. Bảy tiểu đề (đề mục nhỏ) này, thứ nhất là “tiêu chương, linh dị ức tŕ, khởi niệm tâm cố” (nêu tên gọi của một chương để [người đọc] dễ nghĩ nhớ, nhằm dấy lên niệm tâm vậy), mục đích ở chỗ này. “Tiêu” là tiêu thị (標示: nêu bày), “chương” là chương đề (章題: tựa đề của một chương, tức là chủ đề chánh yếu, hay c̣n gọi là tông chỉ của một chương). “Dẫn chứng, cứ Phật ngữ, khởi tín tâm cố” (Dẫn chứng: Nêu ra chứng cứ bằng lời Phật dạy ḥng khởi tín tâm). Nêu rơ tông chỉ của một chương th́ nhất định phải có chứng cứ, phải có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện; nhất định là căn cứ trên kinh điển, tín tâm của chúng ta mới có thể phát sanh. “Sanh khởi, sử bất tạp loạn, khởi định tâm cố” (Sanh khởi là khiến cho chẳng tạp loạn, định tâm được sanh ra). “Dư tam” (ba điều c̣n lại), tức là các điều thứ tư, thứ năm, thứ bảy. Điều thứ tư là Khai Hợp, điều thứ năm là Liệu Giản, điều thứ bảy là Hội Dị, có mục đích là “khởi huệ tâm cố” (khiến cho huệ tâm sanh khởi). [Điều thứ sáu là] “quán tâm, tức văn tức hành, khởi tấn tâm cố” (Quán tâm là vừa nghe liền hành, khởi tâm tinh tấn), đây là tâm tinh tấn. Trong bảy tiểu khoa ấy, có năm thứ tâm là Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. V́ thế, Ngài kết luận: “Cố ngũ tâm lập, thành ngũ căn, bài ngũ chướng, thành ngũ lực, năi chí nhập tam giải thoát, kim sớ tùng lược, cố chú vân vân” (Do đó, năm tâm được lập để thành tựu năm căn, trừ năm chướng ḥng thành tựu năm lực, cho đến nhập ba môn giải thoát. Nay lời sớ tỉnh lược, nên [trong lời Sao] phải chú giải những điều như thế). Hiện thời, từ bản Đại Sớ[9], quư vị sẽ thấy tường tận những điều ấy; ở đây, những khoa mục tỉ mỉ đều tỉnh lược, nhưng chúng ta phải hiểu: Mục đích [lập ra bảy điều như thế] của Ngài (tổ Trí Giả) là nhằm bồi dưỡng năm căn Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, hy vọng năm căn có thể tăng trưởng thành năm lực th́ mới có thể tiêu nghiệp chướng. Đây là nêu lên mục tiêu của Ngài.

      Chúng ta xem phần kế tiếp là phần giải thích tầng thứ nhất trong năm tầng Huyền Nghĩa. “Đệ nhất Thích Danh giả” (thứ nhất là giải thích tên kinh). Tông Thiên Thai vừa mở đầu liền giảng tựa đề kinh. “Nhất thiết chúng kinh, giai hữu thông biệt nhị danh, Thông tắc Kinh chi nhất tự, Biệt tắc hữu thất, hoặc đơn nhân, pháp, thí, hoặc phức, hoặc cụ” (Hết thảy các kinh đều có Thông Đề và Biệt Đề. Thông là một chữ Kinh, Biệt th́ có bảy loại [đặt tên] hoặc là đơn nhân, đơn pháp, đơn thí dụ, hoặc phức (ghép hai loại một), hoặc có đủ cả ba loại nhân, pháp, thí). Đây là quy nạp các đề mục lại. Hết thảy các kinh không ngoài việc lấy nhân (người) để đặt tên kinh, hoặc dùng pháp để đặt tên kinh, hoặc dùng tỷ dụ để đặt tên kinh, đó gọi là “tam đơn” (ba cách đặt tên chỉ dùng một loại). “Tam phức” là trong tựa đề một kinh có hai loại, hoặc là nhân pháp, hoặc là nhân dụ, hoặc là pháp dụ. Loại thứ bảy được gọi là “cụ túc lập đề”, tức là nhân, pháp, dụ thảy đều có. Đề mục kinh Phật rất nhiều, nhưng chẳng ra ngoài bảy nguyên tắc ấy, nên gọi là “thất lệ lập đề” (bảy quy tắc đặt tên kinh), điều này cũng thuộc loại kiến thức thông thường trong Phật học.

      Đối với kinh này, phần kế tiếp, nơi trang hai mươi bốn, đă giới thiệu: “Kim kinh tùng năng thuyết, sở thuyết nhân dĩ lập danh, tức giáo biệt” (Nay kinh này dựa trên người nói và người được nói để đặt tên, đó chính là tên riêng của giáo pháp này). Trong bộ kinh này, “Phật Thuyết” là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói, đó là người “năng thuyết”. “Vô Lượng Thọ Phật” là giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là tên người, [đó là sở thuyết (người được nói đến)]. V́ vậy, trong đề mục này, dùng người nói và người được nói, [tức là] dùng Nhân để đặt tên kinh, thuộc quy cách “chỉ dùng Nhân để đặt tên”, đúng như Tiểu Bổn A Di Đà Kinh vậy. “Phật Thuyết” là Thích Ca Mâu Ni Phật, “A Di Đà” là Vô Lượng Thọ Phật. Trong tựa đề kinh này, chẳng có pháp, mà cũng chẳng có tỷ dụ, chỉ dùng Nhân để đặt tên. Đó là “giáo biệt”, tức Biệt Đề, danh xưng chẳng giống các kinh khác. “Đồng danh vi Kinh, tức giáo thông” (Cùng gọi là Kinh, đó là chỗ giống nhau giữa các giáo). Như kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa đều gọi là Kinh, danh xưng Kinh ấy được gọi là Thông Đề, điều này được gọi là “giáo thông”. “Vị hạnh bất đồng, tùng nhất chí vô lượng, tức Hạnh Biệt. Hội đồng thường lạc, tức Hạnh Thông. Lư tuy vô danh, tương môn danh lư, lư tùy ư môn, tứ tứ thập lục, tức danh Lư Biệt. Môn tùy ư Lư, tức danh Lư Thông. Thử ước nhất hóa, dĩ minh Thông, Biệt” (Do hạnh khác nhau, từ một đến vô lượng, nên Hạnh Biệt (hạnh khác nhau). [Tuy khác nhau, nhưng đều] cùng có thể [khiến cho người tu tập] hưởng sự thường lạc, nên là Hạnh Thông (chỗ giống nhau giữa các hạnh). Tuy lư chẳng có tên, nhưng dùng Môn (pháp môn) để đặt tên cho Lư. Lư tùy thuộc từng môn, bốn lần bốn thành mười sáu, nên gọi là Lư Biệt. Do môn tùy thuộc Lư, nên gọi là Lư Thông. Đây là dựa theo giáo pháp trong một đời của đức Phật để giảng rơ ư nghĩa Thông và Biệt). Đối với những ư nghĩa này, nếu chưa từng biết về giáo nghĩa Thiên Thai, đều chẳng dễ hiểu cho lắm, v́ trong ấy có khá nhiều thuật ngữ của Thiên Thai Tông, kẻ sơ học rất khó hiểu chúng có nghĩa là ǵ!

      Ở đây, phải nói rơ cùng quư vị về “tứ tứ thập lục”. Tông Thiên Thai chia Lư và Sự thành bốn môn, bốn môn là Không, Có, Cũng Không Cũng Có, Chẳng Có Chẳng Không, chia thành bốn môn ấy. Trong bốn giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên th́ Tạng Giáo có bốn môn, Thông Giáo cũng có bốn môn, Biệt Giáo và Viên Giáo cũng lại như thế, nên bốn giáo nhân với bốn môn thành mười sáu. Lư được nói ra sẽ là bất đồng, [người nghe cảm thấy] Lư bất đồng là [do tùy theo căn cơ của người nghe mà Phật, Bồ Tát, tổ sư nói ra Lư ấy] cạn hay sâu sai khác, chẳng phải là Lư có những điểm sai biệt nào khác, chỉ là được nói ra cạn hay sâu khác nhau! Hết thảy các pháp do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm đều chẳng ĺa nguyên lư này, nên đức Phật đă dựa trên Chân Đế và Tục Đế để thuyết pháp. Nói đơn giản, Tục Đế (俗諦) là thuận theo kiến thức thông thường của chúng ta. Tùy thuận kiến thức thông thường của chúng ta, chúng ta nghe xong sẽ lư giải rất dễ dàng. Chân Đế (真諦) là cảnh giới của Như Lai, Ngài nói ra, chúng ta thường chẳng dễ ǵ hiểu được, chẳng dễ lănh hội! Ắt phải là tâm địa thanh tịnh đến một mức độ kha khá, chúng ta chẳng có chướng ngại th́ đức Phật nói, chúng ta bèn có thể thông hiểu và lư giải được.

      V́ lẽ đó, đối với Phật pháp, chư vị hăy nhớ một nguyên tắc: Phật pháp lưu lộ từ Chân Như bản tánh. Cái tâm mà lũ phàm phu chúng ta sử dụng hằng ngày là tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở. Những ǵ chúng ta có thể tưởng tượng và lư giải đều thuộc phạm vi của tám thức, chẳng có cách nào thấu hiểu tâm tánh. Do vậy, đối với những đạo lư do đức Phật giảng, chúng ta nghe không hiểu. Thật sự học Phật th́ tu từ đâu? Dốc sức nơi Định, chẳng dốc sức nơi Giáo, trước hết là tu Định. V́ thế, vào thời cổ, bất luận là xuất gia hay tại gia, hễ học Phật bèn là năm năm học giới. “Năm năm học giới” chẳng phải học Luật Tạng trong Kinh, Luật, Luận, chẳng phải là học giới luật, mà là tuân thủ lời thầy răn dạy. Thầy dạy quư vị những ǵ? Dạy quư vị buông tất cả hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống. Dùng phương pháp nào? Không nhất định! Thiền Tông dạy quư vị tham Thiền, dạy quư vị tĩnh tọa. Khi tĩnh tọa, chẳng cần nghĩ thiện, mà cũng chẳng nghĩ ác. Không nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, khiến cho tâm định. Nếu quư vị có thắc mắc đến hỏi thầy, vừa mới nêu lên câu hỏi, thầy đă quơ hương bản đập liền, v́ sao? “Dạy ngươi đừng khởi vọng niệm, sao ngươi lại khởi vọng niệm?” Thầy thấy quư vị thường chẳng hỏi, khi chẳng có vọng niệm, hương bản lại giáng xuống, v́ sao? Vô minh! “Ngươi chẳng phải là vọng tưởng, bèn là vô minh”. Vọng tưởng th́ phải đánh, mà vô minh cũng phải đánh. Do đó, cách giáo học của Thiền Tông có lúc thấy [dường như] hết sức phi lư! Vô duyên vô cớ đánh đập người ta! [Thật ra] họ muốn xóa sạch vọng tưởng cũng như vô minh của quư vị.

Giáo Hạ quá nửa là dùng đọc tụng, giống như Tiểu Học thuở trước ở Trung Hoa, bảo quư vị học thuộc sách, chẳng cần giảng giải, cứ học thuộc sách. Mỗi ngày phải đọc thuộc sách bao nhiêu lần, giống như tông Thiên Thai học thuộc kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa phân lượng khá nhiều; mỗi ngày niệm một lần, năm năm niệm hơn một ngàn lần. Chẳng cần cầu giải hiểu nghĩa của kinh, niệm sao cho tâm định. Sau khi đă định, lại nghe kinh bèn khai ngộ. Quư vị thấy Đàn Kinh có chép chuyện thiền sư Pháp Đạt. Sư Pháp Đạt niệm kinh Pháp Hoa, lúc gặp Lục Tổ, lễ bái chẳng khấu đầu sát đất, Lục Tổ trông thấy: Lễ bái mà đầu chẳng chạm đất, ngạo mạn! Do đó, Lục Tổ hỏi Sư: “Ông có chuyện ǵ đáng để ngạo mạn ư?” Nay ta nói là “đáng kiêu ngạo”, ngươi có ǵ đáng để kiêu ngạo? Sư rất thật thà thưa: “Con đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa”, đáng kiêu ngạo lắm chứ! Niệm ba ngàn bộ Pháp Hoa mà! Kết quả bị Lục Tổ hỏi một câu, [Sư cứng họng]. Kinh Pháp Hoa niệm khá như vậy, niệm nhiều như vậy, nhưng chẳng hiểu, chẳng lănh hội ư nghĩa! Sư giác ngộ, cung kính hướng về Lục Tổ đại sư thỉnh giáo. Lục Tổ giảng một chút, Sư bèn thông đạt, khai ngộ.

      Nay chúng ta cũng đọc đoạn khai thị của Tổ dành cho sư Pháp Đạt, v́ sao chúng ta chẳng khai ngộ? Sư nghe giảng mấy câu bèn khai ngộ, chúng ta đọc những lời ấy một trăm lần, một ngàn lần, vẫn chẳng khai ngộ. Vấn đề ở chỗ nào? Tâm người ta thanh tịnh đă nhiều năm ngần ấy, đó là công phu, tâm chúng ta loạn cào cào! Bởi lẽ, tâm tán loạn chẳng thể nào khai ngộ, tâm tán loạn chẳng thể hiểu những ư nghĩa do đức Phật đă nói. Bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Ắt phải là tâm địa thanh tịnh, thanh tịnh đến một mức độ nhất định th́ mới có thể hiểu ư Phật trong kinh điển. Do đó, người thật sự học Phật, thiện tri thức thật sự, luôn dạy quư vị giảm thiểu phiền năo, phiền năo ngày càng giảm ít, thực hiện từ chỗ này!

      Hiện thời, học Phật rất khó khăn, rất khó gặp thiện tri thức. Như tôi theo thầy Lư, thầy Lư đặt ra ba điều kiện theo biện pháp của cổ nhân, nhưng biện pháp của thầy khoan dung hơn cổ nhân rất nhiều:

1) Tôi tôn cụ làm thầy, điều kiện thứ nhất là từ nay về sau, chỉ có thể nghe một ḿnh cụ giảng kinh. Bất cứ pháp sư, đại đức, cư sĩ nào giảng kinh, đều nhất loạt chẳng cho phép nghe. Đấy là chặn lấp, cắt đứt vọng tưởng muốn nghe kinh, chớ nên nghe!

2) Điều thứ hai là xem sách, chúng tôi có chút chữ nghĩa, ưa đọc sách. Bất luận xem sách nào, kinh Phật cũng thế, mà chẳng phải là kinh Phật cũng thế, phải được cụ đồng ư. Sách nào cụ chẳng đồng ư, nhất loạt chẳng được phép đọc. Cũng là ngăn lấp chuyện xem sách, chẳng cho phép quư vị xem.

3) Điều kiện thứ ba là “những ǵ anh đă học trước kia, tôi chẳng thừa nhận, nhất loạt coi như những thứ bỏ đi. Từ nay trở đi, bắt đầu học [những điều tôi dạy]”.

Chúng tôi nghe thầy Lư giảng có những điều chẳng giống như người khác đă giảng trước kia. Có khi tôi muốn đến hỏi thầy: “Trước kia, con nghe nói là như vậy”. [Thầy bảo]: “Trước kia chẳng tính, coi như lời bậy bạ, ngay cả một câu cũng chẳng được nhắc tới!” Kể ra cũng khá lắm, thầy có lập kỳ hạn, năm năm [tuân thủ ba điều kiện ấy]. Trong năm năm ấy, nói thực tại là mong cho tâm quư vị an tĩnh. Phương pháp ấy nói thật ra là phương pháp “tẩy năo” của đảng Cộng Sản: Trước hết, quét sạch sành sanh những thứ loạn cào cào trong đầu óc quư vị, sau đó [đầu óc quư vị rỗng rang] mới tiếp nhận Phật pháp. Đó gọi là “năm năm học giới”, quư vị mới có thọ dụng đôi chút. Tâm chẳng thanh tịnh, gặp vị thầy giỏi, dẫu Phật, Bồ Tát đích thân thuyết pháp cho quư vị, cũng đều uổng công, [quư vị] chẳng phải là pháp khí, chẳng có năng lực tiếp nhận! Năng lực là ǵ? Tâm thanh tịnh là năng lực.

      Chúng tôi giới thiệu đơn giản đoạn này đến đây, lại xem đoạn kế tiếp, xem hàng thứ nhất nơi trang hai mươi sáu. Phía trước là nói theo phương diện “nhất hóa” (一化), tức là nói theo cái được gọi “nhất đại thời giáo” (giáo pháp suốt một đời đức Phật) trong sự giáo hóa chúng sanh của Thích Ca Mâu Ni Phật, c̣n ở đây là nói theo bộ kinh này. “Cánh ước nhất đề” (lại dựa theo tựa đề của một bản kinh), [tức là] nói theo tựa đề kinh này. “Phật Thuyết” là Giáo, “Quán” là hạnh, tức là phương pháp tu hành, “Vô Lượng Thọ Phật tức thị Lư, Giáo, Hạnh, Lư túc” (Vô Lượng Thọ Phật chính là Lư. Giáo, Hạnh và Lư đều đầy đủ), “túc” () là đầy đủ. “Nhậm vận hữu thông biệt ư” (tự nhiên có ư nghĩa Thông và Biệt), “nhậm vận” (任運) là tự nhiên nó vừa có Thông Ư, mà cũng có Biệt Ư. Trong một Thể, chúng ta thấy có Giáo, có Hạnh, có Lư; Lư là lư luận để làm căn cứ. “Cánh tựu nhất tự Thuyết giả, Thích Luận vân, sở hành như sở thuyết. Thuyết tức thị Giáo, như tức thị Lư, hành tức thị Hạnh” (Lại nói theo một chữ Thuyết th́ Thích Luận có nói: “Việc làm đúng như lời nói”. Thuyết chính là Giáo, Như chính là Lư, Hành chính là Hạnh). Ư nghĩa được bao hàm trong một chữ Thuyết của tựa đề kinh cũng vô cùng rộng lớn. Thông thường, trong hết thảy kinh luận, chúng ta thấy chữ này được giải thích rất nông cạn, dễ hiểu: “Thuyết thị duyệt sở hoài dă” (Thuyết là thỏa thích những điều được ấp ủ trong tâm). Đức Phật thấy cơ duyên của chúng sanh chín muồi, Ngài lấy độ chúng sanh làm bản hoài, nay cơ duyên đắc độ của chúng sanh đă chín muồi, đương nhiên phải dạy cho chúng sanh phương pháp ĺa khổ được vui, chuyển phàm thành thánh. V́ thế, Thuyết là hoan hỷ v́ chúng sanh mà thuyết pháp. Ở đây là nói theo Lư, cách giảng trong phần trên là nói theo Sự.

      “Sở hành như sở thuyết”: Giải và Hạnh hoàn toàn nhất trí. Nếu lời đức Phật nói và điều Ngài làm khác nhau, tức là chẳng tương ứng. Từ câu này, chúng ta biết, trong kinh này, đức Phật khuyên chúng ta niệm Phật, Ngài có niệm Phật hay không? Sở hành đúng như sở thuyết, đương nhiên đức Phật niệm Phật! Nếu đức Phật chẳng niệm Phật, làm sao có thể khuyên chúng ta niệm Phật? Xác thực là quư vị đọc những kinh điển được dẫn chứng trong tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, [sẽ thấy] không riêng Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật thành Phật, mà hết thảy chư Phật Như Lai chẳng có vị nào không niệm Phật thành Phật. Chúng ta thấy kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới cuối chẳng ĺa niệm Phật”, Thập Địa là từ Sơ Địa đến Đẳng Giác. Do vậy có thể biết, đạo thành Phật chỉ là niệm Phật, đó là “sở hành như sở thuyết”. Thuyết là Giáo, Như là Lư, ư nghĩa Bất Nhị như thế hoàn toàn nhất trí, tâm và hạnh là một, tâm là hạnh, hạnh là tâm. Nay chúng ta tu học pháp môn Tịnh Tông, đề xướng kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là giáo nghĩa viên măn, là căn cứ rơ rệt, chân thật nhất của Tịnh Tông, có thể nói là khái luận của Tịnh Độ. Bất luận tánh, tướng, lư, sự, nhân, quả thảy đều được nói đến. Do đó, tôi khuyên mọi người nương theo bộ kinh này, hoàn toàn thực hiện những lư luận, phương pháp, và cảnh giới đă nói trong bộ kinh này, biến chúng thành tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, và hành vi của chính ḿnh. Chúng ta và Phật đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh, há lẽ nào chẳng văng sanh? Quyết định văng sanh! V́ lẽ đó, thọ tŕ kinh điển và Phật hiệu nhằm mục đích này.

      Đoạn tiếp theo nói: “Phật tức Pháp Thân, Quán tức Bát Nhă, Vô Lượng Thọ tức Giải Thoát” (Phật chính là Pháp Thân, Quán là Bát Nhă, Vô Lượng Thọ là Giải Thoát), đây là phối hợp với ba đức Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát để nói. Chư vị phải biết cách phối hợp này, nói thật ra là sống động, hoạt bát. Phối hợp như thế nào đều là viên dung, đều nói hợp lư. Quư vị nói Phật là Bát Nhă, Quán là Giải Thoát, Vô Lượng Thọ là Pháp Thân, nói cũng hợp lư. V́ sao? Một mà ba, ba mà một, trong một pháp đầy đủ hết thảy các pháp, hết thảy các pháp là một pháp. V́ thế, mọi người đừng chấp chết cứng nơi câu văn, [chấp chết cứng] là sai mất rồi. Phối hợp kiểu nào cũng đều hợp lư! Tiếp theo đó là nói: “Tức nhất đạt tam, tức tam đạt nhất, nhất trung giải vô lượng, vô lượng trung giải nhất” (Do một mà đạt ba, do ba mà đạt một, trong một hiểu vô lượng, từ vô lượng hiểu một). Một chữ mà nghĩa lư vô cùng, huống ǵ một bộ kinh này, huống hồ giáo pháp trong Đại Tạng! Cuối cùng, Ngài nói: “Nhược bất như thượng giải giả, an hoạch vô hạn công đức da?” (Nếu chẳng hiểu như trên đây, há có thể đạt được vô hạn công đức ư?). Đây là do cổ nhân đă nói: Một người có thể nghe tựa đề của một bộ kinh sẽ đạt được công đức chẳng thể nghĩ bàn. Lời ấy là thật, mà cũng chưa chắc là thật. Nói “thật” là như thế nào? Quư vị thật sự thông đạt nghĩa lư, một chính là vô lượng, vô lượng chính là một th́ đó là thật! Trong tựa đề của một bộ kinh sẽ có vô lượng vô biên công đức. Nếu quư vị chẳng hiểu, sẽ chẳng đạt được lợi ích. Do vậy có thể biết, quư vị có hiểu rơ lư hay không? Chẳng hiểu rơ lư, sẽ không đạt được công đức!

      Quư vị nói chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta đối với Lư và Sự của A Di Đà Phật đều thông đạt, hiểu rơ, [sẽ là] một niệm tương ứng một niệm Phật. Nếu chẳng hiểu rơ Sự và Lư của A Di Đà Phật, sẽ biến câu Phật hiệu thành ca hát. Hiện thời, chúng ta nghe cái gọi là Ngũ Hội Niệm Phật, ca xướng đấy! Ca xướng hết sức êm tai, có ư nghĩa ǵ hay không? Chẳng biết nữa! Vậy là vô dụng, chỉ có thể nói là gieo một tí thiện căn, khẩu thiện! Thầy Lư thường nói là “tốt hơn chửi người khác”, đạt được một chút lợi ích ấy! Nhất định phải biết danh hiệu trọn đủ công đức, quư vị niệm Phật mới tương ứng. Một câu A Di Đà Phật viên măn đầy đủ hết thảy Tánh Đức và Tu Đức, nên công đức của Phật hiệu lại chẳng thể nghĩ bàn. Nói thật thà, ba kinh đều chủ trương tŕ danh, mười lăm phép Quán trước trong Thập Lục Quán Kinh chẳng phải là tŕ danh, phép Quán cuối cùng là tŕ danh. Quư vị đừng thấy là phép Quán sau cùng mà nói là nó chỉ dành cho kẻ hạ căn. Hạ căn là ǵ? Người bệnh nặng nhất. Người bệnh nặng nhất mà uống thuốc này liền khỏi bệnh th́ người bệnh nhẹ c̣n nói năng ǵ nữa? Càng dễ lành bệnh!

      Cách sắp đặt theo thứ tự thuận trong Phật pháp có dụng ư rất sâu, tương tự như pháp thế gian tại Trung Quốc: Thứ tốt nhất xếp cuối cùng, giống như trong hát tuồng, màn diễn hay nhất được gọi là “áp trục hư” (壓軸戲: Màn diễn cuối, kết thúc tuồng hát). Tŕ danh niệm Phật đặt ở cuối cùng chính là áp trục hư. Chúng ta đọc kinh Lăng Nghiêm, phần hai mươi lăm pháp Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm là pháp môn tu học của hai mươi lăm vị Bồ Tát, những pháp được xếp theo thứ tự là những pháp thông thường. Pháp nào không xếp theo thứ tự thuận mà xếp vào cuối cùng th́ pháp cuối cùng ấy là thù thắng nhất. Chương Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Âm Bồ Tát thù thắng nhất. Nếu pháp của Quán Âm Bồ Tát được xếp theo thứ tự thuận th́ phải ở vị trí thứ hai. Trong lục căn, pháp của Ngài là Nhĩ Căn Viên Thông, thứ nhất là Nhăn Căn, thứ hai là Nhĩ Căn. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Thất Đại, đó là xếp theo thứ tự thuận, pháp của Ngài chẳng được xếp theo thứ tự thuận, mà xếp vào cuối cùng!

      Trong hai mươi lăm chương ấy, pháp môn đặc biệt chẳng phải là một ḿnh Ngài, mà là hai vị, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương cũng là đặc biệt. Nếu dựa theo thứ tự thuận, Đại Thế Chí là Căn Đại. Trong Thất Đại, theo thứ tự thuận là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Do Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc Kiến Đại, nên [pháp môn của Ngài] lẽ ra phải xếp trước Thức. Thức là Di Lặc Bồ Tát, Ngài học Duy Thức. Di Lặc Bồ Tát là Thức Đại, nên Đại Thế Chí Bồ Tát phải xếp trước Di Lặc Bồ Tát. Kết quả là quư vị thấy trong kinh Lăng Nghiêm, Ngài được xếp sau Di Lặc Bồ Tát. V́ thế, xét theo thứ tự thuận, có hai pháp môn đặc biệt trong hai mươi lăm pháp môn, chẳng phải là [chỉ có] một pháp môn đặc biệt. Nói như vậy, [ắt có người bắt bẻ] v́ sao không xếp Niệm Phật Viên Thông Chương cuối cùng, mà xếp Nhĩ Căn Viên Thông Chương cuối cùng? Dụng ư trong ấy rất sâu, Niệm Phật Viên Thông phù hợp căn cơ của hết thảy chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới, quá lớn! Nhĩ Căn Viên Thông Chương chỉ thích hợp với người trên địa cầu; do thuyết pháp trên địa cầu, nhằm thích hợp tŕnh độ của quư vị, nên đặc biệt đưa ra pháp này. Nếu không thuyết pháp ở đây, Quán Âm Bồ Tát vẫn dựa theo thứ tự thuận để sắp vào vị trí thứ hai, chẳng xếp cuối cùng, nhưng Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ được xếp cuối cùng, đó là điều quyết định, chẳng bị bất cứ ảnh hưởng nào. Đọc kinh Lăng Nghiêm phải lưu ư điều này: Chẳng theo đúng thứ tự thuận, ư nghĩa sẽ khác hẳn!

      Do đó, trong Tịnh Tu Tiệp Yếu, cư sĩ Hạ Liên Cư đă viết: “Tịnh Tông Sơ Tổ Đại Thế Chí Bồ Tát”, tôi xem đến câu ấy cũng giật ḿnh, nhưng suy nghĩ kỹ, thấy cụ nói chẳng sai, cụ nói rất chánh xác, trước kia tôi không nghĩ đến. Đề xướng chuyên tu Tịnh Tông, chuyên học pháp môn Niệm Phật trong tận hư không, khắp pháp giới là Đại Thế Chí Bồ Tát, nên Đại Thế Chí Bồ Tát là Tịnh Tông Sơ Tổ trong tận hư không, khắp pháp giới. Từ Ngài, chúng tôi lại liên tưởng trong thế giới Sa Bà, Phổ Hiền Bồ Tát là Tịnh Tông Sơ Tổ. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, giảng bộ kinh đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm. Trong hội Hoa Nghiêm, người đề xướng pháp môn Niệm Phật là Phổ Hiền Bồ Tát, nên Phổ Hiền Bồ Tát là Sơ Tổ trong thế giới Sa Bà. Tại Trung Quốc, Huệ Viễn đại sư đề xướng đầu tiên, nên Viễn Công đại sư là Sơ Tổ [của Tịnh Độ Tông] tại Trung Quốc. Sau này, hễ nói tới Tịnh Tông Sơ Tổ, phải hỏi vị Sơ Tổ nào? Cả ba vị đều là Sơ Tổ, nhưng phạm vi giáo hóa khác biệt rất lớn, chúng ta phải biết điều này.

      Lại xem phần tiếp theo, đại sư dùng Lục Tức của tông Thiên Thai để giải thích chữ Phật. “Sơ thích Phật giả” (đầu tiên là giải thích chữ Phật), giới thiệu từng chữ trong tựa đề kinh, trước hết giải thích chữ Phật. “Phật thị giác nghĩa” (Phật nghĩa là giác), chữ Phật là tiếng Phạn dịch âm, có nghĩa là Giác, giác chứ không mê. “Hữu lục chủng tức” (có sáu loại Tức), nói theo hiện tại th́ “tức” có nghĩa là “chính là”. “Niết Bàn kinh vân, nhất thiết chúng sanh tức thị Phật” (kinh Niết Bàn nói: “Hết thảy chúng sanh chính là Phật”), kinh Hoa Nghiêm cũng nói “hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật”. Kinh Viên Giác cũng có câu “hết thảy chúng sanh vốn thành Phật”. Đây là nói theo Chân Như bản tánh, v́ sao? Hết thảy chúng sanh đều có chân tánh, nói theo chân tánh, chúng sanh và Phật chẳng sai biệt, hoàn toàn như nhau, nên hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. [Tánh ấy nơi] hữu t́nh chúng sanh được gọi là Phật Tánh, nơi vô t́nh chúng sanh gọi là Pháp Tánh. Thực vật và khoáng vật có tánh, tánh là bản thể, tức là thể tánh của nó. Pháp Tánh và Phật Tánh là một tánh, chẳng phải là hai tánh, nên kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh dữ vô t́nh, đồng viên Chủng Trí” (hữu t́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng Trí). Thân tâm của hữu t́nh do Chân Như bản tánh biến hiện; vô t́nh như đất, gỗ, đá cũng do Chân Như bản tánh biến hiện; nên xét theo bản thể, chúng là một. Các nhà Duy Thức Học đă giảng chuyện này rất rơ ràng.

Một niệm vô minh dấy lên trong bản tánh, bèn có ba tế tướng (tướng vi tế) là Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, và Cảnh Giới Tướng. Nghiệp Tướng là vọng động, nghiệp là động. Hễ động, đức dụng của bản tánh bị mất đi; hễ động bèn biến thành tám thức. V́ vậy, chân tâm hễ động bèn biến thành vọng tâm. Khôi phục chân tâm bằng cách nào? Quư vị phải học sao cho chẳng động tâm, chân tâm liền khôi phục. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy tôn giả Tu Bồ Đề: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (chẳng chấp lấy tướng, như như bất động), đó là đúng, chân tánh của quư vị liền khởi tác dụng. “Bất thủ ư tướng” là bên ngoài chẳng chấp tướng, “như như bất động” là bên trong chẳng động tâm. Tổ Đạt Ma truyền Thiền sang Trung Quốc, Lục Tổ hoằng dương Thiền rạng rỡ là do hai câu sau đây trong kinh Kim Cang: “Ngoại bất trước tướng, nội bất động tâm” (ngoài chẳng chấp tướng, trong không động tâm). Bên ngoài chấp tướng, bên trong động tâm, đó là phàm phu.

      V́ thế, quan sát từ thể tánh: “Nhất thiết chúng sanh giai Như dă” (Hết thảy chúng sanh đều là Như). Những ǵ đại sư đă viết trong lời Sớ đều dẫn từ những lời kinh dạy, hết thảy chúng sanh đều như trong kinh Duy Ma và kinh Bảo Khiếp[10] đă nói: “Phật giới, chúng sanh giới, nhất giới, vô biệt giới” (Phật giới, chúng sanh giới là một giới, chẳng có giới nào khác). Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là vật được biến hiện bởi tự tánh, giống như quư vị tối ngủ nằm mộng, mộng thấy Phật, Bồ Tát cũng là do tự tánh của quư vị biến hiện; mộng thấy ngạ quỷ, địa ngục cũng là do tự tánh của quư vị biến hiện. Toàn bộ giấc mộng chính là tâm, toàn thể tâm chính là mộng, giấc mộng đẹp là tâm này, mà ác mộng vẫn là tâm này! Ác mộng hay mộng đẹp đều là một tâm, nhất tâm, vô nhị tâm. Do vậy, tốt và xấu đều chẳng có, đạt tới b́nh đẳng thật sự. V́ vậy, đối với y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, người đă kiến tánh thấy là pháp giới b́nh đẳng, là Nhất Chân pháp giới, v́ sao? Hoàn toàn là chân thật, chẳng có ǵ là giả.

      Quư vị phải suy nghĩ kỹ càng cảnh giới ấy, nếu quư vị hiểu ư nghĩa này, thọ dụng vô cùng, sẽ có ích to lớn cho sự tu hành của quư vị, giúp quư vị đoạn phiền năo, giúp quư vị xa ĺa hết thảy phân biệt, chấp trước. Chúng sanh sở dĩ làm chúng sanh, bị thua thiệt là v́ phân biệt, chấp trước. Phật pháp chẳng có ǵ khác, phá chấp trước [mà thôi]. Chấp trước Nhân và Ngă đă phá, bèn chứng quả A La Hán. Pháp Chấp đă phá bèn thành Phật. Hai chướng ấy nói thật ra là hai thứ chấp trước, Ngă Chấp và Pháp Chấp, đó là sự thiệt tḥi to lớn, vĩnh viễn chẳng có cách nào hiểu biết chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Càng là chân thật th́ càng chẳng thể liễu giải, càng là chân thật th́ vừa nghe bèn càng chẳng thể tiếp nhận. Từ vô thỉ kiếp tới nay, phân biệt và chấp trước đă biến thành thói quen, thói quen ấy chẳng dễ ǵ bỏ ngay được! Chính v́ chúng ta chẳng thể bỏ ngay được, nên đức Phật mới nói pháp phương tiện. Pháp phương tiện là thuận theo sự chấp trước của quư vị mà chấp trước, thuận theo sự phân biệt của quư vị để phân biệt; quư vị bèn có thể nghe hiểu, tiếp nhận, lại dần dần thong thả khuyên dụ, hướng dẫn quư vị tiếp cận pháp chân thật.

      Đoạn tiếp theo có mấy câu rất quan trọng, nhưng lư trong ấy khá sâu. Nơi trang hai mươi chín, ḍng thứ tư: “Thử thị viên trí” (đây là viên trí), tức trí huệ viên măn; chính là nói “hết thảy chúng sanh là Phật”, đây là trí huệ viên măn, là cảnh giới Phật. “Viên giác chư pháp” nghĩa là giác ngộ viên măn hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp bao gồm pháp thế gian và xuất thế gian, bao gồm mười pháp giới, bao gồm pháp hữu t́nh và pháp vô t́nh, thảy đều được bao gồm trong đó, giác ngộ viên măn các pháp. “Biến nhất thiết xứ, vô bất minh liễu” (trọn khắp hết thảy các nơi, không ǵ chẳng hiểu rơ). Viên giác là ǵ? Viên giác là tâm của quư vị. Tâm quư vị vốn giác ngộ viên măn. Rất đáng tiếc, nay quư vị mê cái tâm này, do đă mê nên bất giác. Mê là như thế nào? Là như đức Phật nói vọng tưởng, chấp trước, đó là mê. Vọng tưởng là ô nhiễm, là vô minh, thứ ǵ cũng đều không biết. Chấp trước là phiền năo, chư vị hăy nghĩ xem, tất cả hết thảy phiền năo, hết thảy đúng sai, hết thảy ta người, đều sanh từ chấp trước. Quư vị chẳng chấp trước, lấy đâu ra phiền năo? V́ lẽ đó, cội rễ của Phiền Năo Chướng là chấp trước, cội rễ của vô minh là vọng tưởng.

      Trong hội Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na đă hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo, vô minh do đâu mà có? Khi nào có vô minh? Đức Phật giải đáp. Lời giải đáp ấy hay tuyệt! Đức Phật nói: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (từ nơi tri kiến mà lập ra một cái biết nữa, đó là cội gốc của vô minh). “Tri kiến lập tri” là vô minh. “Tri kiến” là ǵ? Là những hiểu biết quư vị vốn sẵn có [trong chân tánh], ở đây gọi là Viên Giác. Quư vị vốn là giác ngộ viên măn, thế mà trong sự giác ngộ viên măn ấy, quư vị lại tạo lập một tri kiến nữa, hỏng rồi, hễ thêm vào liền biến thành vô minh. Lời giải đáp ấy đơn giản, dễ hiểu, một câu đă nói toạc ra, chẳng phải là bậc đại học vấn chân chánh thật sự thông đạt sẽ không thể thốt ra được! Chúng ta vốn hiểu rơ hết thảy các pháp, rất đáng tiếc là hiện thời cái tâm này bị ô nhiễm, tâm hiện thời đang phập phồng, chao động bất định, giống như sóng cuộn, luôn động, chẳng thể tĩnh. V́ thế, tu học trong Phật pháp, bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, bất luận tông phái nào, bất luận pháp môn nào, đều tu điều ǵ? Tu Định, nhằm xóa bỏ ô nhiễm trong tâm, khiến cho cái tâm dao động, chập chờn của quư vị được an định.

      V́ lẽ đó, chúng ta cúng Phật, những thứ khác có thể không cần cúng, nhất định phải cúng một chén nước, nước biểu thị điều ǵ? Biểu thị tâm. Tâm ta phải thanh tịnh như nước, phải bất động như nước. Nước phẳng lặng, tâm mới có thể soi rơ ràng, rành mạch hết thảy vạn pháp trong vũ trụ. Tâm trọn khắp hết thảy các nơi, không ǵ chẳng hiểu rơ! Quá khứ, hiện tại, vị lai, cơi này, phương khác, tận hư không khắp pháp giới, thảy đều hiểu rơ. V́ sao? Đều ở trong tâm, chiếu rành rẽ, rơ ràng. Tâm này hễ nổi sóng gió, hễ nó bị ô nhiễm th́ điều ǵ cũng không biết, dẫu bày ở ngay trước mặt vẫn chẳng thể cảm nhận, thật đáng thương! Do đó, học Phật là học chẳng động tâm, học sao cho chẳng bị ô nhiễm, đó gọi là công phu, là bản lănh. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, do không chấp tướng, nên chẳng thể ô nhiễm; do không động tâm, tâm liền định, chẳng nổi sóng gió, chúng ta bèn thành tựu. Ngàn kinh vạn luận đều nhằm giảng một nguyên tắc như vậy.

      Nếu quư vị thật sự thông đạt, hiểu rơ th́ tiếp đó, [lời Sớ] viết: “Tuy Ngũ Vô Gián” (tuy là Ngũ Vô Gián), Ngũ Vô Gián là địa ngục, quư vị sẽ thấy Ngũ Vô Gián “giai giải thoát tướng, hôn mê, đảo hoặc, kỳ lư tồn yên” (đều là tướng giải thoát, hôn mê, điên đảo, phiền năo, lư ấy sao c̣n?). Quư vị thấy chúng sanh mê hoặc, điên đảo; trong mắt Phật, Phật tánh của họ chẳng điên đảo. Phật Tánh của họ tồn tại hay không tồn tại? Tồn tại! Phật Tánh của họ có khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng. Trong khi khởi tác dụng, họ lại thêm đôi chút vào tác dụng ấy, lầm lạc ở chỗ này. Ví như nói mắt chúng ta thấy sắc tướng bên ngoài, nó thấy rơ ràng, rành rẽ, nhưng [chúng ta] cứ khăng khăng tṛng thêm một cặp kính đen thui, đă đeo cặp kính đen, sẽ thấy bên ngoài đều đen thùi lùi! Đeo cặp kính xanh, sẽ thấy bên ngoài đều xanh, bên ngoài có phải là xanh hay chăng? Chẳng phải là xanh, mắt kính xanh! Hiện thời chúng ta đều đeo kính, có dùng mắt hay không? Vẫn dùng mắt, dùng mắt nhưng kèm thêm cặp kính. Đức Phật bảo quư vị bỏ nó đi, diện mục vốn có sẽ khôi phục. Kính đeo mắt là ǵ? Kính đeo mắt chính là vọng tưởng, chấp trước. Vọng tưởng và chấp trước là cặp kính khoác lên trên mắt, [khiến cho mắt] nh́n tướng bên ngoài đều sai. Tuy thấy sai, nhưng đức Phật nói quư vị vẫn dùng mắt của chính ḿnh để thấy, chẳng phải là mắt kính thấy, vẫn do con mắt thấy, bất quá mắt có chướng ngại mà thôi. Chướng ngại ấy lại chẳng thật, mà cũng chẳng phải là vốn có, do quư vị đeo lên, hễ bỏ ra, nó bèn chẳng c̣n nữa! Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói: “Bổn Giác vốn có, Bất Giác vốn không”. Bất Giác là cặp kính mầu, vốn chẳng có. Do đó, đức Phật thấy chúng sanh đều là Phật, Phật trọn chẳng nghĩ khi quư vị đeo cặp kính sẽ chẳng gọi là Phật, vẫn là Phật! Mắt Phật thấy chẳng sai, nói thực tại th́ sai lầm ở nơi bản thân chúng ta. “Tư lư chước nhiên, thế gian thường trụ, hữu Phật bất năng ích, vô Phật bất năng tổn, đắc chi bất vi cao, thất chi bất vi hạ. Cố ngôn chúng sanh tức thị Phật, Lư Phật dă” (Lư ấy rạng ngời, thế gian thường trụ, có Phật chẳng thể tăng thêm, chẳng có Phật cũng chẳng thể tổn giảm. Được chẳng coi là cao, mất chẳng coi là thấp. V́ thế nói “chúng sanh chính là Phật”, đó là Lư Tức Phật). Do đó, nói theo Lư Thể, nói theo bản tánh, hết thảy chúng sanh đều là Phật. Hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật là quan sát từ góc độ này, quan sát từ bản thể.

      Đoạn này là căn cứ quan trọng nhất để bọn phàm phu chúng ta học Phật thành Phật, tín tâm của chúng ta được tạo lập trên lư luận này. V́ sao? Ta vốn sẵn là Phật, lẽ đâu chẳng thành Phật? Vốn sẵn là Phật, nay ta lại muốn học Phật, đương nhiên có thể thành Phật. Nếu vốn chẳng phải là Phật, mà nếu nay muốn học Phật, chưa chắc đă có thể thành tựu, chẳng nhất định có thể thành tựu! Vốn sẵn là Phật, nay lại học Phật, quyết định thành Phật. V́ thế, tín tâm tu hành, tín tâm thanh tịnh, tín tâm kiên cố được kiến lập từ chỗ này. Điều thứ nhất trong “Lục Tức Phật” là lư luận, năm điều sau là tu hành. Từ Danh Tự, Quán Hạnh, Phần Chứng cho đến Cứu Cánh đều là nói về thứ tự tu hành, thuộc loại Tu Đức, điều đầu tiên là Tánh Đức. Chúng ta phải hiểu rơ điểm này. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này.

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 1 hết

 

 

 

 



[1] Chữ số Ả Rập (Arabic Numerals) chính là những chữ số thường dùng trong hiện thời; đôi khi c̣n gọi là Hindu-Arabic Numerals hoặc Indo-Arabic Numerals. Theo các nhà nghiên cứu, chúng được h́nh thành bởi các nhà toán học cổ Ấn Độ, và được các nhà toán học Hồi Giáo sử dụng. Về sau, những con số ấy được truyền vào châu Âu vào thế kỷ thứ mười bởi những cư dân Bắc Phi, nên có danh xưng như vậy nhằm phân biệt với chữ số La Mă được sử dụng thông dụng tại Âu Tây thời đó.

[2] Sớ Sao được nói ở đây chính là cách gọi tắt của bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, xin đừng lầm với bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư.

[3] Tam Chỉ là:

- Thể Chân Chỉ: Thể niệm lư Chân Như, ngưng dứt hết thảy vọng tưởng phan duyên.

- Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ (c̣n gọi là Duyên Thủ Cảnh Chỉ): An trụ nơi lư “các pháp đều là huyễn hóa”, biết Không chẳng phải là Không, phân biệt dựa theo từng bệnh (phiền năo) mà tùy duyên phân biệt các cảnh, an trụ trong Giả Đế, bất động.

- Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ (c̣n gọi là Chế Tâm Chỉ): Biết loại Chỉ thứ nhất lệch về Chân, loại Chỉ thứ hai lệch về Giả, ngưng dứt hai bên Chân và Giả, an trụ trong Trung Đế.

[4] “Đảnh cách” (頂格) là cách viết trang trọng trong văn bản cổ. Ḍng chữ viết theo lối Đảnh Cách sẽ cao hơn các cột chữ xung quanh một chữ. Văn bản cổ thường dùng lối Đảnh Cách để biểu thị sự tôn trọng, nhất là khi trích dẫn chánh kinh.

[5] Ư nói chỉ là pḥng đơn, chẳng phải là loại pḥng có ngăn ra làm hai gian, gian ngoài để tiếp khách đến chơi.

[6] Nhục kế (Uṣṇīṣa) là một trong ba mươi hai tướng hảo của Phật, c̣n gọi là Kế (), Đảnh Kế, Đảnh Thượng Nhục Kế v.v... hoặc gọi theo âm Phạn là Ô Sắt Ni Sa hoặc Úc Sắt Ni Sa. Đây là tướng xương đầu vun cao lên, nh́n như búi tóc giữa đỉnh đầu. Kinh Vô Thượng Y giảng: “Úc Sắt Ni Sa là xương đỉnh đầu cao trội lên, tự nhiên thành h́nh như búi tóc”. Kinh Vô Thượng Y c̣n giảng Nhục Kế là do trong đời quá khứ Phật đă nhiều kiếp tự hành Thập Thiện, lại c̣n khuyên lơn, hướng dẫn người khác tu hành, thấy người khác tu hành bèn hoan hỷ, tán thán, cúng dường, d́u dắt họ luôn theo đúng chánh pháp.

[7] Ngài Bảo Vân là tổ sư đời thứ mười sáu của tông Thiên Thai, pháp húy Nghĩa Thông, pháp tự Duy Viễn; do về già Ngài trụ tại chùa Bảo Vân nên thường gọi là Bảo Vân Sư. Ngài người xứ Cao Ly, họ Y. Tướng mạo trang nghiêm dị thường, đỉnh đầu có nhục kế, giữa hai mày có tướng bạch hào, nếu kéo duỗi ra sẽ dài đến năm sáu tấc. Lúc nhỏ, Sư xuất gia tại Quy Sơn Viện, sau khi thọ Cụ Túc, bèn học Hoa Nghiêm và Khởi Tín Luận, được cả nước Cao Ly tôn kính, ngưỡng mộ. Sau đó, Sư sang Trung Quốc tham học với ngài Vân Cư (Thiều Quốc Sư) có chỗ khế ngộ. Sau đấy, lại tham yết ngài Loa Khê nghe yếu chỉ Nhất Tâm Tam Quán bèn than: “Cái học viên đốn ắt phải thấu triệt ở nơi đây”, bèn ở lại theo học. Lâu sau, danh tiếng vang lừng khắp nơi. Khi sắp hồi hương, Sư nghỉ lại Tứ Minh, sắp xuống thuyền, Quận Thủ Tiền Duy Trị nghênh đón xin hỏi tâm yếu, xin thọ Bồ Tát giới. Đạo tục hướng về quy ngưỡng đông đảo, Quận Thủ tha thiết thỉnh cầu, nên Ngài ở lại Trung Quốc. Năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ tư (979), ngài Pháp Trí (tôn giả Tứ Minh) theo học với Sư, lúc đó Sư đă năm mươi ba, c̣n Pháp Trí mới hai mươi. Ngôi chùa nơi Sư ở, thoạt đầu gọi là Truyền Giáo Viện, măi đến năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ bảy (982), mới được vua ban biển ngạch là Bảo Vân Tự. Đến năm Ung Hy nguyên niên (984), ngài Từ Vân mới theo học với Sư (lúc đó Sư đă năm mươi tám tuổi, Từ Vân hai mươi hai). Sư thường nói Tịnh Độ là quê cũ. Năm Đoan Củng nguyên niên (988), vào ngày Mười Một tháng Mười, Sư nằm bên hông hữu, an tường nhập diệt.

[8] Chúng tôi xin trích dẫn lời giảng đại lược của tự điển Bách Độ về ư nghĩa của từng khoa như sau:

1. Thị Chương (Tiêu Chương): Khiến cho tầng lớp được phân minh, ngơ hầu người nghiên cứu dễ ghi nhớ, chẳng quên. Phần này giống như nêu ra một chủ đề chính, một ư kiến chánh yếu hoặc một quan điểm sẽ được thảo luận.

2. Dẫn Chứng là phần dẫn kinh văn, đại luận, hoặc trước tác, ngữ lục của tổ sư đại đức để chứng minh quan điểm vừa nêu trong phần Tiêu Chương là xác thực, không phải là ức đoán hay bịa đặt.

3. Sanh Khởi là phần dẫn dắt, giải thích thêm, khiến cho người đọc chẳng rối loạn, hiểu rơ thứ tự trong lư luận.

4. Khai Hợp là nói rộng ra hoặc thu gọn lại những luận điểm hay giáo nghĩa nhằm thích hợp với căn tánh của chúng sanh.

5. Liệu Giản là lập ra những phần vấn đáp giả định nhằm trừ nghi, phá chấp.

6. Quán Tâm: Chỉ ra cách tu hành, quán tâm. Phần này tương ứng với phần Xứng Tánh thường dùng trong bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao của ngài Liên Tŕ.

7. Hội Dị: Giảng giải những ưu điểm, nêu rơ tự tâm, khiến cho người đọc, kẻ nghe tín tâm kiên cố, nắm được ư chỉ của Thật Tướng. Phần này cũng tương ứng với Xứng Tánh trong A Di Đà Kinh Sớ Sao.

[9] Nguyên văn là “đại bổn tử”. Những câu do ngài Tứ Minh vừa dẫn trên đây trích từ Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa, nên gọi là “đại bổn tử”, chúng tôi tạm dịch là Đại Sớ.

[10] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Quảng Bảo Khiếp Kinh hoặc c̣n gọi là Văn Thù Sư Lợi Hiện Bảo Khiếp Kinh, gồm có ba quyển, do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào đời Lưu Tống. Kinh này ghi lại cuộc vấn đáp giữa Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và tôn giả Tu Bồ Đề; đồng thời, các vị tôn giả như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… đều tán thán trí huệ sâu thẳm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Bảo Khiếp (寶篋) có nghĩa là cái tráp báu.