Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 1
觀無量壽佛經疏鈔演義
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Thời
gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990
Địa
điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh
Mỹ, Đài Loan
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến, Đức
Phong và Huệ Trang
Tập 1
Xin
chư vị mở phần Lời Tựa trong sách Sớ
Sao Diễn Nghĩa, cũng là trang thứ nhất theo cách
đánh số bằng chữ số Ả Rập[1] ở
cuối trang, mở trang thứ nhất, tức trang thứ
nhất sau phần Khoa Phán.
Lần
này tôi được Diệp cư sĩ khải thỉnh,
giảng bộ Quán Kinh Diệu Tông Sao. Chúng tôi đang in Sớ
Sao[2],
có thể sẽ gởi tới ngày hôm nay. Sau khi nhận
được sách, sẽ chia ra biếu tặng các vị
đồng tu. Sớ Sao không chỉ phân lượng lớn,
lại c̣n có mức độ khá tinh vi, sâu thẳm, trong kỳ
hạn một tuần ngắn ngủi rất khó giảng
xong! Khóa giảng này, chúng tôi chọn bộ Sớ Sao Diễn
Nghĩa. [Có danh xưng] Diễn Nghĩa là do lăo pháp sư Đế
Nhàn đă viết một bản tinh giản cho bộ Diệu
Tông Sao, tức là chọn lọc những phần trọng
yếu và tinh hoa. V́ thế, sách Diễn Nghĩa chính là tinh
hoa của Sớ Sao. Lần này, chúng tôi cùng chư vị
chung sức nghiên cứu, cũng dùng phương thức tinh
giản, ngơ hầu trong khoảng thời gian ngắn ngủi
chư vị có thể nhận biết khái lược lư luận,
cách tu học, nhân quả, và thành tựu của Tịnh
Tông, như vậy th́ mục đích của khóa giảng này
đă đạt được! Do đó, tôi cũng chẳng
bỏ qua lời tựa của lăo pháp sư, v́ Ngài viết
lời tựa rất hay; những điểm trọng yếu
trong lời tựa cũng cần phải đề cập.
Chúng ta xem lời
tựa, “Quán Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa tự”, trước hết, hăy đọc
đoạn ấy một lượt: “Di Đà kinh dĩ tín nguyện lực tŕ Phật danh
hiệu, vi chí trực tiệp, chí viên đốn, tối cực
ổn đáng, tối dị thành tựu, thị Thế Tôn
triệt để bi tâm, phổ linh nghiệp trọng chúng
sanh hoành siêu tam giới, đới nghiệp văng sanh, cố
xưng dị thắng phương tiện chi pháp môn dă” (Kinh
Di Đà dùng sức tín nguyện để tŕ danh hiệu Phật,
là [cách tu] thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, ổn
thỏa, thích đáng tột bậc nhất, dễ thành tựu
nhất, đó là bi tâm triệt để của đức
Thế Tôn, khiến cho khắp các chúng sanh vượt khỏi
tam giới theo chiều ngang, đới nghiệp văng sanh,
nên được gọi là “pháp môn có phương tiện
thù thắng lạ thường”).
Ba bộ kinh trọng
yếu nhất trong Tịnh Độ Tông là kinh Vô Lượng
Thọ, kinh A Di Đà và kinh này, được gọi là Tịnh
Độ Tam Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ là khái luận của
Tịnh Độ Tông, giới thiệu viên măn y báo và chánh
báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, nên là một
bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh
Độ Tông. Kinh Di Đà là tinh yếu của kinh Vô Lượng
Thọ, điểm đặc sắc trong kinh ấy là khuyến
tín, khuyến nguyện, khuyến hành. Những điểm
đặc sắc của kinh Di Đà đă được
nêu rơ bởi mấy câu này [của pháp sư Đế Nhàn],
xác thực là “dị thắng
phương tiện”, “dị”
(異) là lạ lùng,
chẳng giống với những kinh điển và pháp môn
khác, “thắng” (勝) là thù thắng.
[“Dị thắng phương
tiện”] là pháp môn thù thắng lạ lùng, thuận tiện
khôn sánh. Cũng có thể nói là [trong khi] bất cứ
phương pháp nào cũng đều chẳng độ
được, [v́] nghiệp chướng và tập khí của
các chúng sanh ấy quá nặng, đều độ không
được, th́ pháp môn này có thể độ. V́ vậy,
pháp môn này đích xác là pháp môn thù thắng bậc nhất!
Chúng ta nh́n lại
kinh này, [kinh này] thiên trọng lư luận và phương pháp của
Tịnh Tông. Phương pháp là mười sáu phép Quán, bao gồm
Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật,
và Tŕ Danh Niệm Phật, các phương pháp niệm Phật
đều có trong bộ kinh này. Đồng thời, kinh lại
c̣n giảng rơ nhân quả của bốn cơi và chín phẩm
trong Tịnh Độ rơ ràng, cặn kẽ hơn Tam Bối
Văng Sanh (ba bậc văng sanh) trong kinh Vô Lượng Thọ. V́
thế, đối với người tu Tịnh Độ,
nói thực tại, phải hợp ba kinh lại để
xem th́ mới có thể liễu giải và nhận thức
triệt để Tịnh Tông, tín tâm mới có thể sanh
khởi. Về sau, các vị đại đức như
cư sĩ Ngụy Nguyên đă ghép phẩm Phổ Hiền Bồ
Tát Hạnh Nguyện vào sau ba kinh, trở thành Tịnh Độ
Tứ Kinh; lăo pháp sư Ấn Quang là một vị tổ
sư cận đại của Tịnh Tông lại ghép
chương Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông của
kinh Lăng Nghiêm vào sau bốn kinh, trở thành Tịnh Độ
Ngũ Kinh. Chúng ta suy nghĩ, có c̣n cần phải ghép thêm một
kinh nào nữa để thành Tịnh Độ Lục Kinh
hay không? Nói thật ra, đến năm kinh là đă thật
sự viên măn trọn đủ, chẳng cần đến
sáu kinh, chẳng cần thêm nữa, đă đạt đến
viên măn rồi! V́ thế, tu hành trong Tịnh Tông, năm bộ
kinh ấy là viên cực, tức là đă đạt đến
viên măn tột bậc, mà cũng là đốn cực (nhanh
chóng tột bậc). Đó là người trong thời đại
chúng ta có phước, kinh điển hoàn bị đă xuất
hiện trong thời này!
Chúng ta lại
xem đoạn kế tiếp: “Cổ
đức vân: Nhược nhân đản niệm A Di
Đà, thị danh Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”. (Cổ
đức nói: “Nếu ai chỉ niệm A Di Đà, bèn gọi
là Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”). Nói rơ Niệm Phật
là Thiền học vô thượng thậm thâm vi diệu.
Không chỉ là Thiền, một câu A Di Đà Phật c̣n là vô
thượng thần chú, từ kinh Vô Lượng Thọ chúng
ta thấy được điều này. Mật Tông trong
cơi này do Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát truyền dạy. Kim
Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) là người sáng lập Mật
Tông, là tổ sư khai sơn đời thứ nhất của
Mật Tông; vị Bồ Tát ấy là hóa thân của Phổ
Hiền Bồ Tát. Trong hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ
Tát đề xướng Tịnh Độ đầu
tiên, mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, nên một câu A Di Đà Phật là vô thượng
thần chú của Mật Tông. Quư vị niệm câu A Di
Đà Phật, không chỉ là Giáo, mà c̣n bao gồm Thiền, lại
c̣n bao quát Mật, cũng bao gồm giới luật, tất
cả hết thảy các pháp môn đều được
bao gồm chẳng sót! Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn;
trước hết, chúng ta phải nhận biết rơ ràng
điều này.
Kế đó, lời
tựa viết: “Ngô
nhân quả năng y giáo tu hành, dĩ chân tín thiết nguyện,
đản niệm Di Đà, tắc vô luận thời chi cửu
cận” (chúng ta thật sự có thể tu hành đúng
như lời dạy, dùng ḷng tin chân thật, nguyện thiết
tha, chỉ niệm Di Đà, ắt chẳng cần bàn tới
thời gian [niệm Phật] đă lâu hay mới đây). “Cửu” (久) là quư vị niệm Phật
trong một thời gian dài. “Cận”
(近) là quư vị niệm
Phật trong một thời gian ngắn, thậm chí khi lâm
chung mới bắt đầu niệm Phật vẫn chẳng
trễ. “Công chi thiển thâm” (công
phu sâu hay cạn), “công” (功) là nói tới công phu. Công phu
là nói về mức độ khuất phục phiền năo,
tâm địa thanh tịnh. “Lâm
mạng chung thời, quyết định văng sanh. vô khả
nghi giả” (Lúc lâm chung, chắc chắn văng sanh, chẳng
thể nghi ngờ). Đến đây là một đoạn,
đều nhằm khuyên chúng ta phải nghiêm túc tu học
pháp môn này.
Hai ḍng tiếp
theo rất trọng yếu: “Như
kỳ tín bất chân, nguyện bất thiết, niệm bất
chuyên giả, bất danh đản niệm” (Nếu tín
chẳng chân thật, nguyện chẳng thiết tha, niệm
chẳng chuyên th́ chẳng gọi là “chỉ niệm”). Đó
chẳng gọi là “đản
niệm” (但念). “Đản niệm” là chuyên niệm.
Kinh Vô Lượng Thọ nói “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.
Câu “chuyên niệm” trong kinh Vô
Lượng Thọ chính là “đản
niệm” được nói ở đây. Như thế sẽ không gọi là “nhất hướng chuyên niệm”.
“Năi danh tạp niệm” (mà gọi là tạp niệm); chẳng
phải là chuyên niệm, mà là tạp niệm. “Tuy khẳng niệm Phật, nan
trăn thật ích” (tuy chịu niệm Phật, khó đạt
được lợi ích thật sự). Tuy niệm Phật,
không dễ ǵ đạt được lợi ích chân thật
do niệm Phật. Lợi ích chân thật là ǵ? Văng sanh trong
đời này, đó là lợi ích chân chánh. Đời này chẳng
thể văng sanh, sẽ chẳng đạt lợi ích chân thật.
“Sở dĩ niệm Phật
nhân đa, văng sanh giả thiểu nhĩ” (do đó,
người niệm Phật đông, người văng sanh ít
ỏi). Đạo lư ở ngay chỗ này. Ở đây,
đại sư đă giảng rất rơ ràng, minh bạch.
Lăo pháp sư tuy
là tổ sư bên Thiên Thai Tông, nhưng Ngài niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Trong hội của Ngài, người
niệm Phật văng sanh, biết trước lúc mất rất
nhiều. Trước kia, chúng ta đă nghe lăo pháp sư
Đàm Hư kể: Ngài Đế Nhàn có một học tṛ,
tức là đồ đệ, không biết chữ, chưa
từng nghe kinh, chưa hề nghe Phật pháp. Ông ta theo lăo
nhân gia xuất gia, Sư dạy ông ta một câu Nam-mô A Di
Đà Phật. Sư bảo: “Ông cứ niệm măi một
câu Phật hiệu ấy. Hễ niệm đă mệt bèn nghỉ
ngơi. Nghỉ khoẻ rồi bèn niệm tiếp, tương
lai nhất định có lợi”. Nói thật ra, người
học tṛ ấy hết sức thật thà, tuân theo lời
thầy dạy một trăm phần trăm. Ông ta niệm
như vậy, hễ niệm đă mệt bèn nghỉ
ngơi. Nghỉ ngơi khỏe khoắn xong lại niệm
tiếp. Niệm ba năm, biết trước lúc mất,
đứng văng sanh. Sau khi văng sanh, c̣n đứng sững suốt
ba ngày, chờ sư phụ đến lo liệu hậu sự
cho ḿnh. Chuyện này chẳng dễ dàng, sau khi văng sanh c̣n
đứng suốt ba ngày! Vị này là học tṛ của lăo
pháp sư Đế Nhàn. V́ lẽ đó, chuyện này ngàn vạn
phần chân xác. Bản chú giải này của lăo ḥa thượng
là công phu tu chứng chân thật của Ngài, tuyệt đối
chẳng có một câu nào là vọng ngữ, chúng ta hăy nên y
giáo phụng hành.
Đối
với phần c̣n lại của lời tựa, quư vị
tự xem, tôi chỉ đề cập những chỗ trọng
yếu với quư vị. Chúng ta xem trang thứ hai, số
trang đều được ghi ở cuối trang. Xem từ
ba chữ cuối của ḍng thứ tư: “Phật thuyết tam chủng Tịnh nghiệp,
đáp bỉ tư duy, thuyết thập lục diệu quán,
thù kỳ Chánh Thọ” (Đức Phật nói ba thứ Tịnh
nghiệp để đáp câu hỏi của bà ta về cách
tư duy, nói ra mười sáu phép Quán mầu nhiệm để
trả lời câu hỏi về Chánh Thọ). Chữ Bỉ
(彼) chỉ phu nhân Vi
Đề Hy. Bà ta gặp hoàn cảnh xấu hèn, nói theo cách
bây giờ, con trai của bà ta làm chánh biến (đảo chánh)
đoạt quyền, cha anh ta là quốc vương. Anh ta
đoạt quyền của cha, giết cha, hại mẹ.
Trong t́nh huống như vậy, bà ta phát tâm chẳng muốn
ở trong thế gian này, mong cầu sanh Tịnh Độ,
mong đức Phật dạy cho biết có nơi nào tốt
đẹp để bà ta sanh về đó hay không! Thích Ca
Mâu Ni Phật dùng thần lực, biến hiện hết thảy
các cơi Phật trước mặt phu nhân Vi Đề Hy
để bà ta tự xem, tự ḿnh chọn lựa. Sau khi
xem xong, bà ta thưa rơ với Thích Ca Mâu Ni Phật, mong mỏi
được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. [Ư nguyện] cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới do chính phu nhân Vi Đề Hy chọn lựa,
chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu. Phật
độ chúng sanh, phương pháp rất dân chủ, chẳng
phải là chuyên chế, chẳng khuyên quư vị đến
đâu, mà cho quư vị thấy toàn thể các cơi Phật
để quư vị tự do chọn lựa. Đương
nhiên, bà ta chọn lựa cơi tốt nhất, điểm này
đáng cho chúng ta chú ư. Sau khi đă chọn lựa, bà ta liền
thỉnh giáo Thích Ca Mâu Ni: “Làm thế nào th́ mới có thể
sanh về đó?” Do vậy, ở đây, đức Phật
mới nói ra hai phương pháp quan trọng:
- Một là ba thứ
Tịnh nghiệp,
- Hai là mười
sáu phép Quán mầu nhiệm.
Đấy là dạy
cho bà ta phương pháp trọng yếu để tu Tịnh
Độ.
Trong
đoạn này, cụ Đế Nhàn đă nói rơ: “Tiền thập nhị Quán, vị
thượng căn nhân, giáo Quán Tưởng Niệm Phật”
(mười hai phép Quán đầu để dạy người
thượng căn tu Quán Tưởng Niệm Phật).
Người thượng căn như vừa mới nói chính
là người phiền năo nhẹ, căn tánh ấy là thượng
căn. Phép Quán thứ mười ba là Quán Tượng Niệm
Phật (mười hai phép Quán trước đó là Quán
Tưởng Niệm Phật) để dạy kẻ trung
căn. Trung căn th́ phiền năo nặng hơn một
chút, mười hai phương pháp trước đó chẳng
thích hợp. Phép Quán cuối cùng, tức phép Quán thứ
mười sáu dành cho kẻ hạ căn, hạ căn là
ai? Kẻ ác nghiệp nặng nề.
Quư vị xem
trang thứ hai, ḍng thứ tư từ dưới đếm
lên: “Duy tối hậu nhất
Quán, vị tối hạ căn nghiệp trọng ác nhân,
lâm chung ngục cảnh hiện tiền chi thời, thiện
hữu giáo linh xưng Phật danh hiệu, tức đắc
văng sanh” (Chỉ có phép Quán cuối cùng là v́ kẻ ác, căn
cơ thấp nhất, nghiệp nặng nề, lúc lâm chung
cảnh địa ngục hiện tiền, bạn lành dạy
người ấy xưng niệm danh hiệu Phật, liền
được văng sanh). Đây là kẻ tạo tác Ngũ
Nghịch, Thập Ác, nghiệp chướng vô cùng nặng
nề. Chúng ta hăy nghĩ xem nghiệp chướng của chính
ḿnh có nặng nề hay không? Có người nói: “Tôi chẳng
phải là thượng căn, cũng coi như là trung
căn, c̣n chưa đến mức hạ căn”. Thật
ra, quư vị đọc kinh này kỹ càng, [sẽ thấy] chúng
ta đích xác là kẻ hạ hạ căn. Chúng ta tạo ác
nghiệp, ác nghiệp cực nặng, nhưng chính ḿnh không
biết, chính ḿnh chẳng giác ngộ! Hy vọng trong một
tuần này, sau khi quư vị nghe xong, có thể tự ḿnh biết
bản thân nghiệp chướng, tập khí nặng nề
th́ quư vị đến tham gia pháp hội lần này sẽ có
thu hoạch! Người tội nghiệp cực nặng,
phương pháp ǵ sẽ có thể độ được?
Tŕ danh niệm Phật có thể độ. Tập khí nghiệp
chướng, tội nghiệp nặng nề, đừng
sợ! Sợ là sợ chính ḿnh không biết, chẳng biết
quay đầu, chẳng biết niệm Phật th́ chẳng
c̣n có cách nào cả! Tội nghiệp cực nặng,
nhưng tự biết chính ḿnh nghiệp chướng nặng
nề, biết niệm Phật, biết cầu sanh Tịnh
Độ, vậy th́ có thể cứu được, chẳng
phải là không thể cứu. V́ thế, pháp môn này thật
sự là một pháp môn chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng
ta lại xem ḍng thứ sáu nơi trang thứ ba kế
đó, đọc câu cuối cùng: “Kinh vân, tŕ thị kinh giả, tức thị tŕ Vô
Lượng Thọ Phật danh, túc chứng tŕ kinh, tŕ danh,
vô nhị trí dă. Tu tri Tŕ Danh nhất pháp, pháp nhĩ viên cụ
Tam Quán diệu hạnh, sở vị ngô nhân nhật dụng
tự bất tri nhĩ” (Kinh dạy: “Tŕ kinh này chính là
tŕ danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”. Đủ chứng
tỏ tŕ kinh và tŕ danh chẳng hai. Cần biết rằng:
Một pháp Tŕ Danh vốn sẵn trọn đủ diệu
hạnh Tam Quán, đó gọi là “bọn chúng ta sử dụng
hằng ngày mà chẳng hay biết”). Mấy câu này rất trọng
yếu, khai thị minh bạch: Niệm Phật và niệm
kinh như nhau. Đúng như trong chương Viên Thông, Đại
Thế Chí Bồ Tát đă nói: “Nhớ
Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai,
nhất định thấy Phật”. V́ nghiệp chướng
tập khí của chính ḿnh rất nặng, trong các buổi
giảng, chúng tôi cũng thường nhắc nhở
chư vị đồng tu điều này, nghiệp chướng
là ǵ? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất
rơ ràng, vọng tưởng và chấp trước là nghiệp
chướng. Trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất rơ rệt,
Ngài nói: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai, nhưng do vọng tưởng và chấp trước
mà chẳng thể chứng đắc”. Vọng tưởng
là Sở Tri Chướng, chấp trước là Phiền
Năo Chướng. Quư vị có hai thứ ấy tồn tại,
nên chẳng thể thấy Phật, chẳng thể minh tâm
kiến tánh. Tu học trong Phật pháp là trừ hai chướng
mà thôi, dùng phương pháp là Giới, Định, Huệ. Những
điều được gọi là Giới chính là “lấy độc trị độc”,
dạy quư vị nghiêm tŕ giới luật. “Tŕ” (持) là chấp
trước, dùng phương pháp chấp trước để
phá chấp trước, lấy độc trị độc
mà! Chúng ta phải hiểu điều này!
Mục
đích của Giới là ở chỗ nào? Mục đích là
đắc Định. Tŕ giới luật dẫu tốt
đẹp cách mấy, nhưng tâm chẳng thanh tịnh th́ Giới
ấy liền biến thành phước báo hữu lậu,
biến thành một thứ thiện hạnh trong thế tục.
Điều thiện trong thế tục chẳng phải là
chân thiện, mà là phước báo hữu lậu, nhất
định phải đắc Định! Giống như
chúng ta lên cầu thang, giới luật giống như cầu
thang, nhằm mục đích nào? Phải tiến lên tầng
lầu bên trên, chẳng thể ngừng tại cầu
thang, chẳng tiến lên! [Ngừng tại đó] là sai lầm!
Trèo lên thang lầu để tiến lên tầng trên, ắt
cần phải bỏ tầng dưới th́ mới có thể
lên được tầng trên. V́ thế, nói là “xả đắc” (có bỏ
th́ mới đạt được), quư vị có thể bỏ
phía dưới th́ mới có thể lên được tầng
trên. Do đó, có cần giới luật hay không? Cần! Phải
nghiêm tŕ giới luật. Do vậy, cổ đức khuyên
chúng ta tŕ giới niệm Phật. Trong kinh Vô Lượng
Thọ, từ chương ba mươi ba đến
chương ba mươi bảy là giới luật. V́ lẽ
đó, trong công khóa sáng của các đồng tu tại [Hoa Tạng]
Đồ Thư Quán, chúng ta niệm bốn mươi tám
nguyện; khóa tối bèn niệm từ chương ba
mươi ba đến chương ba mươi bảy.
Đó là tŕ giới niệm Phật. Mục đích của
chúng tôi là hy vọng tâm nguyện và giải hạnh của
chúng ta tương ứng với A Di Đà Phật, giống
như A Di Đà Phật; như vậy th́ mới có thể
quyết định văng sanh. Đó là giảng rơ: Công đức
đọc kinh và tŕ danh hoàn toàn giống nhau.
Niệm
Phật nhằm mục tiêu nhất tâm bất loạn. Nhất
tâm bất loạn chẳng dễ cầu được! V́
thế, khuyên các đồng tu trước hết hăy niệm
kinh Vô Lượng Thọ. Trước hết là niệm
kinh nhuần nhuyễn, niệm đến mức có thể
thuộc ḷng, có thể niệm rất thuộc là bước
công phu đầu tiên. V́ sau đă khi niệm rất thuộc,
phải tu tâm thanh tịnh, tức là nói đến công phu. Công
phu là ǵ? Trong bộ kinh ấy, [niệm] từ đầu
đến cuối chẳng dấy một vọng tưởng,
đó là công phu. Nếu niệm được một nửa
bèn dấy vọng tưởng, chẳng tính, lại niệm
từ đầu. Lại niệm đến một nửa
bèn dấy vọng tưởng, vẫn chẳng tính, lại
bắt đầu niệm từ đầu. Đó là công
phu! Công phu cạn là trong một bộ kinh chẳng có vọng
tưởng; công phu sâu là ba bộ hay năm bộ cũng
chẳng có một vọng tưởng. Sâu hơn nữa,
trong khi niệm mười bộ, hay niệm mười
hai bộ, đều chẳng có một vọng tưởng
nào, đó là thành tựu. Công phu cạn hay sâu là nói từ chỗ
này!
V́
sao tôi không nói tới Phật hiệu? Chúng ta tội nghiệp
sâu nặng, Phật hiệu chưa được! Vừa
niệm Phật hiệu, vừa dấy vọng tưởng.
Do đó, chẳng có cách nào, công phu sâu hay cạn dựa vào
Phật hiệu, quả thật nh́n không ra, nhưng niệm
kinh sẽ nh́n ra! Khi niệm kinh, hễ có vọng tưởng,
liền biết ta niệm sai, hễ sai bèn niệm lại
từ đầu. Do đó, công phu cạn hay sâu rất dễ
dàng cảm nhận qua việc niệm kinh. Niệm đến
mức công phu của chính ḿnh xác thực thành tựu th́ ta
niệm mười bộ cũng chẳng dấy lên một
vọng niệm. Khi đó, chẳng cần niệm kinh mà chuyên
niệm Phật hiệu, đó chính là “một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
Tôi dạy chư vị phương pháp này, quư vị hành
theo phương pháp này, trong một đời này, chắc
chắn văng sanh. Chướng ngại kết thành cả khối
là v́ đâu? Kết thành cả khối v́ trong tâm chúng ta vướng
mắc quá nhiều chuyện, thị phi, nhân ngă quá nhiều.
Quư vị chẳng buông những thứ ấy xuống
được, không được rồi! Do đó, tham,
sân, si, mạn, thị phi, ta người, thảy đều
phải buông xuống.
Đối
với chuyện tốt th́ chuyện tốt chẳng bằng
vô sự, nay chúng ta muốn ǵ? Muốn vô sự, chớ nên
mong chuyện tốt! Đến khi công phu của quư vị
thật sự thành tựu, hy vọng quư vị sẽ làm
nhiều chuyện tốt. Hiện thời, v́ sao chẳng
thể làm chuyện tốt? Quư vị chẳng có công phu; hễ
làm chuyện tốt sẽ hỏng, sẽ đọa lạc,
v́ chưa thể đoạn vọng tưởng, chấp
trước được! V́ thế, chẳng cần làm
chuyện tốt, kẻ khác chê ta là Tiểu Thừa, tiêu cực,
cứ mặc cho họ nói. Ta công phu chẳng đủ! Giống
như thấy có người ngă xuống nước chết
ch́m, [người khác thúc giục]: “Ngươi là kẻ chẳng
có tâm từ bi, ngươi chẳng nhảy xuống cứu
người ấy”. Tôi không biết bơi, nhảy xuống
sẽ chết uổng một mạng! Tôi phải ngay lập
tức đi học bơi. Người ta nói quư vị là Tiểu
Thừa, là kẻ chỉ lo giải thoát riêng ḿnh, [hăy đáp]:
“Tôi đang học bản lănh, hiện thời chẳng có bản
lănh cứu người khác!” V́ thế, chẳng mong mỏi
quư vị phải làm chuyện tốt. Chẳng phải là
tôi khuyên chư vị tiêu cực, mà do tôi thấy mọi
người thiếu bản lănh ấy. Quư vị chẳng
có năng lực làm chuyện tốt, nên tôi nói lời thật
cùng quư vị!
Tôi chỉ giới
thiệu lời tựa với mọi người đến
đây, nay chúng ta sẽ xem nội dung chính nơi trang thứ
năm. Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa quyển thượng,
chúng ta xem đề mục trong hàng thứ nhất: “Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao”. “Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh” là tựa đề của kinh này. “Sớ” (疏) có nghĩa là khai
thông. Kinh quá sâu, chúng ta là kẻ sơ học không hiểu. Sớ
là chú giải, giải thích, khai thông những nghĩa lư, nên
gọi là Sớ. Chú giải có rất nhiều danh xưng.
Luận là chú giải, mà Sớ cũng là chú giải. Dùng những
chữ ấy có ǵ sai khác? Bồ Tát chú giải kinh, như Đại
Trí Độ Luận là chú giải của kinh Ma Ha Bát Nhă Ba
La Mật. Chúng ta thấy Lư Trưởng Giả Lư Thông Huyền
chú giải kinh Hoa Nghiêm, đặt tên là Hoa Nghiêm Hợp Luận,
dùng chữ Luận, không dùng chữ Sớ, chẳng dùng chữ
Sao. Chư vị phải biết, dùng chữ Luận nhằm
nói rơ bản chú giải của vị ấy quyết định
không sai, chẳng khác ǵ đức Phật đă nói, người
đời sau chẳng thể sửa đổi, ngữ
khí vô cùng khẳng định. Bồ Tát đại đức
chú giải kinh bèn dùng chữ ấy. Về sau, các vị tổ
sư đại đức khiêm hư, chẳng dùng chữ
Luận, mà dùng chữ Sớ. “Sớ”
là có thể trong đó c̣n có chỗ chẳng đúng, xin quư vị
hăy sửa đổi cho đúng hơn. Luận là chẳng
thể sửa đổi, lời tôi chú giải chẳng
khác lời Phật giảng, chẳng thể sửa đổi.
V́ thế, dùng chữ Sớ hoặc Sao th́ khiêm hư
hơn. Người hiện thời càng khiêm hư hơn,
dùng chữ Giảng Nghĩa (講義), Thiển Thích
(淺釋: giải thích nông cạn), những
chữ ấy càng khiêm hư hơn, ngay cả những chữ
Sớ và Sao đều chẳng dám dùng, càng ngày càng khiêm
hư hơn.
Nói
thực tại, bộ Sớ này là Luận, nhưng đại
sư khiêm hư. Sớ là giải thích kinh, Sao (鈔) nhằm giải
thích Sớ, [v́] Sớ vẫn c̣n rất sâu, kẻ sơ học
vẫn chẳng dễ ǵ hiểu được! Tôn giả
Tứ Minh là hậu duệ của tông Thiên Thai, kế tục
Trí Giả đại sư. Bộ Sớ này do Trí Giả
đại sư soạn, [ngài Tứ Minh] lại tiếp tục
giải thích thêm lời Sớ của Trí Giả đại
sư, nên gọi là Sao. Sớ Sao là được rồi,
v́ sao đặt tên là Diệu Tông Sao (妙宗鈔)? Trong phần
giải thích dưới đây có giảng, chúng ta hăy xem ḍng
thứ hai đếm từ dưới lên trong trang này, câu
cuối cùng: “Sao danh Diệu
Tông giả”, [nghĩa là] tác phẩm Sao này có tựa đề
là Diệu Tông Sao. “Năi thủ Sớ
thích kinh đề đại ư” (do lấy từ đại
ư trong phần Sớ giải thích tựa đề kinh). Chữ
Diệu Tông ngụ ư dựa theo các ư nghĩa chánh yếu
trong phần giải thích tựa đề kinh của Trí Giả
đại sư, tức là trong phần Huyền Nghĩa, [chọn
lấy] đoạn Huyền Nghĩa giải thích tựa
đề kinh thuộc Ngũ Trùng Huyền Nghĩa. Trí Giả
đại sư dùng “viên diệu
Tam Quán” để giải thích Năng Quán, tức là giải
thích chữ Quán trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ
Phật. Thiên Thai đại sư (Trí Giả đại
sư) dùng Không, Giả, Trung Tam Quán để giải thích
chữ Quán ấy. Quán xét theo phương diện Năng
Quán là Viên Diệu Tam Quán, đức Phật được
quán (Sở Quán) là Vô Lượng Thọ Phật, nên Năng
Quán (chủ thể thực hiện sự quán tưởng)
và Sở Quán (đối tượng được quán
tưởng) đều là viên diệu tột bậc. Đối
với đối tượng của sự Quán ấy, [tức
là đối tượng của sự] Quán trong Năng
Quán gồm Tam Quán Không, Giả, Trung, chúng ta chẳng khó thấu
hiểu; [bởi lẽ] cảnh được quán gồm
có [các cảnh tượng được giới thiệu
trong] mười sáu phép Quán. Đă là mười sáu phép Quán,
v́ sao chỉ nói “Quán Vô Lượng
Thọ Phật”? V́ sao đức Phật chẳng nói là Nhật
Quán (quán mặt trời [sắp lặn]), Thủy Quán (quán
nước [đóng băng] giống như đất
lưu ly), hoặc Thụ Quán (quán cây báu)? V́ sao Ngài không nói
những điều ấy, mà nói [quán] Vô Lượng Thọ
Phật?
“Phật kư tổng nhiếp
dư thập ngũ cảnh” ([nói tới] Phật đă
gồm chung mười lăm cảnh kia), bao gồm toàn bộ
mười sáu phép Quán. “Cố
tri nhất nhất giai thị viên diệu Tam Đế Tam
Quán dă” (cho nên biết: Mỗi một [phép Quán] đều
là Tam Đế, Tam Quán viên diệu), đó là cảnh giới
của đối tượng được Quán (Sở
Quán). Năng Quán là Trí, Sở Quán là Lư. “Thị kinh kư dĩ diệu quán vi Tông” (kinh này
đă lấy Diệu Quán làm Tông), trong bộ kinh này, Tông (宗) là phương
pháp, tông chỉ tu học. [Kinh này] lấy Quán làm
phương pháp tu học. “Học
giả ưng đương chú trọng Diệu Tông”
(người học hăy nên chú trọng Diệu Tông), hăy đặc
biệt chú trọng. Niệm một câu danh hiệu A Di
Đà Phật cũng là Quán, [phép Quán này] được xếp
thành phép Quán thứ mười sáu. Nếu nói “trong Tŕ Danh chẳng
có Tam Chỉ Tam Quán[3]”,
tức là chẳng phù hợp với giáo nghĩa trong kinh! Rất
nhiều người niệm Phật chẳng biết
đạo lư này. Không biết, nhưng nếu người ấy
có thể thật thà niệm Phật th́ cũng chẳng
quan trọng, v́ sao? Diệu quán ở ngay trong thật thà!
Nói thật ra, lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thật thà. Thật
thà th́ tốt đẹp rồi, ai là người thật
thà? Pháp sư Đế Nhàn nói người đồ đệ
ấy của Ngài (tức vị tăng không biết chữ
xuất thân là thợ vá nồi) mới là người thật
thà. Trong ngàn vạn người, khó t́m được một
người thật thà! Người thật thà phục
tùng lời thầy răn dạy một trăm phần
trăm, chẳng hoài nghi. Một câu Phật hiệu thật
sự niệm đến mức chẳng hoài nghi, không gián
đoạn, không xen tạp, đó là thật thà. Chúng ta suốt
ngày từ sáng đến tối niệm Phật hiệu,
nhưng lại tưởng Đông, nghĩ Tây, lại nghĩ
trước, nhớ sau, thật thà ở chỗ nào? Đó
chẳng phải là thật thà! Có thể thấy thật
thà đúng là chẳng dễ dàng.
Kế
tiếp, phần đảnh cách[4] là
nguyên văn [trong lời Sớ], “Thiên
Thai Trí Giả đại sư thuyết” (Thiên Thai Trí Giả
đại sư nói), “thuyết”
là “thuyết Sớ”, v́ phần Sớ do Trí Giả
đại sư soạn. “Tứ
Minh Pháp Trí đại sư sao”, Sao là chú giải Sớ, do tôn giả Tứ Minh, tức
pháp sư Tri Lễ (知禮) [soạn lời
Sao]. Tứ Minh (四明) là danh xưng của
một địa phương, tức là núi Thiên Thai ở huyện
Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang. Hai vị đại
sư này, ngài Thiên Thai Trí Giả sống vào cuối đời
Tùy đầu đời Đường, Tri Lễ đại
sư là người thời Tống, là hậu duệ của
ngài Thiên Thai, có rất nhiều cống hiến đối
với tông Thiên Thai, có thể nói Ngài là “Thiên Thai trung hưng đại sư”. Ngài trước
tác rất nhiều, chúng ta thường tôn xưng Ngài là “tôn giả Tứ Minh”, lời
Sao do Ngài viết. Chúng tôi tỉnh lược truyện kư của
hai vị này, quư vị có thể tự đọc trong Cao
Tăng Truyện. Ở đây, pháp sư Đế Nhàn tỉnh
lược tiểu sử của Trí Giả đại
sư, viết đại lược tiểu truyện của
tôn giả Tứ Minh, chúng ta có thể không cần đọc
phần này.
Chúng
ta xem phần lời tựa của Ngài trong trang thứ tám,
xem phần đảnh cách. “Phù
lạc bang chi dữ khổ vực, kim bảo chi dữ nê
sa, thai ngục chi vọng hoa tŕ, cức lâm chi tỷ quỳnh
thụ” (Ôi! Lạc bang so với khổ vực, vàng và chất
báu sánh với bùn cát, thai ngục trông ngóng ao hoa, rừng gai
góc đem so cây quỳnh), bốn câu này so sánh hai thế giới.
“Lạc bang” là thế giới
Cực Lạc, “khổ vực”
(cơi khổ sở) là thế giới Sa Bà của chúng ta.
Trước hết, nh́n từ hoàn cảnh sống trong hai
thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới
thù thắng hơn cơi này quá nhiều! Tôi chỉ nói đại
ư, phần giải thích chư vị tự đọc. Câu
thứ hai, “kim bảo chi dữ
nê sa” là nói đến hoàn cảnh vật chất. Trong thế
giới này, nh́n đâu cũng thấy là bùn, cát, khắp mặt
đất là bùn, cát. Tây Phương Cực Lạc thế
giới là bảy báu. Kinh dạy: Đất đai trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là lưu ly, lưu
ly (琉璃) là vật ǵ?
Người Hoa gọi lưu ly là Phỉ Thúy (翡翠). Phỉ Thúy là một
loại ngọc màu xanh, là loại ngọc tốt nhất, trân
quư nhất, trong suốt; trong Phật pháp loại ngọc ấy
được gọi là “lưu
ly”. Đại địa của Tây Phương thế
giới do phỉ thúy tạo thành, chẳng phải là bùn, cát.
Đất ấy kiên cố, chất đất trong suốt,
thấy rơ ràng phía dưới mặt đất. Kinh nói là “hoàng kim vi địa”, vàng ṛng
lót đường. Chất đất bằng phỉ thúy,
là đất lưu ly. Trên mặt đất lưu ly, vàng
ṛng lót thành đường, giống như trong cơi này dùng nhựa
đường và xi-măng để trải đường.
[Từ đó] quư vị chỉ biết nơi ấy sản
vật phong phú, hai thế giới chẳng thể so sánh! Người
trong thế giới này lấy những thứ bảy báu ấy
làm thành đồ trang sức, đeo trên thân [cảm thấy]
rất đẹp đẽ. Trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, những thứ báu ấy giống như
bùn đất, là vật liệu để lót đường,
ai ham những thứ ấy? Quư vị bèn hiểu kết cấu
vật chất của hai thế giới chẳng giống
nhau.
Nay
chúng ta biết: Dưới sự phân tích hóa học, bảy
báu và bùn cát như nhau, chẳng khác ǵ! Phân tích đến cuối
cùng đều là nguyên tử, điện tử, nhưng công
thức cấu tạo khác nhau! Thật ra, hết thảy vật
chất đều do một loại vật chất cơ
bản biến hiện. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
đă giảng về hiện tượng vật lư ấy,
các khoa học gia trong thế gian măi đến gần
đây mới phát hiện, nhưng từ ba ngàn năm
trước, đức Phật đă giảng rơ ràng. Kinh Kim
Cang giảng điều ǵ? “Nhất
hợp tướng”, nay chúng ta gọi “nhất” là vật chất cơ bản. Tất cả
hết thảy các nguyên tố đều do một vật
chất ấy ḥa hợp, kết thành, hiện thời chúng
ta nói là do công thức cấu tạo khác nhau mà tạo thành
[những loại vật chất khác nhau]. Các công thức ấy
được sắp xếp như thế nào? Thưa cùng
quư vị, do tâm ư thức biến hiện. “Duy thức sở biến”, thức là ǵ? Là suy
tưởng. Tâm chúng ta nghĩ đến chuyện ác, nó sẽ
kết hợp chẳng tốt đẹp, nên kết quả
sẽ chẳng tốt đẹp, biến thành bùn, cát. Tâm chúng
ta rất thanh tịnh, suy nghĩ những điều thuần
thiện, kết cấu của nó liền biến hóa, biến
thành đẹp đẽ nhất. V́ thế, thế giới
tịnh hay uế, hoàn cảnh nhân sinh thiện hay ác đều
do tâm chúng ta biến hiện.
Tâm
người hiện thời so với tâm người trong
quá khứ, nói thật thà th́ xấu xa hơn rất nhiều,
chẳng được thuần hậu như người
thuở trước. V́ thế, hiện thời toàn cầu
bị ô nhiễm nghiêm trọng. Sự ô nhiễm ấy gần
như khiến cho nhân loại trên thế giới chẳng
có cách nào sống sót, nên nói là “hoàn cảnh ô nhiễm”. Hoàn cảnh
ô nhiễm từ đâu tạo thành? Tâm lư ô nhiễm, tinh thần
ô nhiễm, đó mới là căn bản! Nếu chúng ta chẳng
thể tịnh hóa từ tâm địa, tịnh hóa nơi
tinh thần, mà muốn cải thiện sự ô nhiễm
nơi hoàn cảnh, sẽ là chuyện chẳng thể nào thực
hiện được! V́ sao? Đó là chuyện đằng
ngọn. Tâm địa là gốc, phải đổ công dốc
sức nơi tâm địa, đó là “trị tận gốc”.
Dẫu nỗ lực làm chuyện bên ngoài thế nào đi nữa,
đều là “trị đằng ngọn”, chẳng có cách
nào thật sự cứu văn triệt để được!
Câu thứ hai là nói về hoàn cảnh vật chất.
Câu
thứ ba nói về hoàn cảnh nhân sự. Trong thế giới
này, chúng ta là thai sanh, thai, noăn, thấp, hóa, thai sanh bèn có nỗi
khổ của thai sanh. Tây Phương Cực Lạc thế
giới là liên hoa hóa sanh. “Hoa
tŕ” (華池) ư nói “hóa sanh
trong hoa sen nơi ao bảy báu”. Làm sao có thể so sánh cho
được? Thai sanh có những nỗi khổ sanh, lăo, bệnh,
tử; hóa sanh chẳng có. Văng sanh thế giới Cực Lạc,
đức Phật đến đón tiếp chúng ta, liên hoa
hóa sanh, thân tướng do hóa sanh hoàn toàn giống như A Di
Đà Phật, cũng chẳng thấp hơn A Di Đà Phật
chút nào, mà cũng chẳng xấu hơn A Di Đà Phật
chút nào, chẳng thể! A Di Đà Phật có vô lượng
tướng, mỗi tướng đều có vô lượng
hảo, hóa thân của quư vị giống như Phật. V́ vậy,
thế giới Tây Phương là thế giới b́nh đẳng,
chuyện này được chép trong kinh Vô Lượng Thọ.
Không chỉ là kinh Vô Lượng Thọ, mà trong bốn
mươi tám nguyện, A Di Đà Phật đích thân nói ra.
Do đó, người trong thế giới Tây Phương diện
mạo hoàn toàn giống nhau, vóc dáng cũng giống nhau, màu
da cũng như nhau, thọ mạng cũng giống nhau, đều
là vô lượng thọ. Chẳng thể nói “hóa sanh trong hoa
sen là một đứa bé, dần dần trưởng thành”;
nếu vậy th́ có ǵ khác với thế giới này của
chúng ta? Chỉ cần có biến hóa th́ sẽ c̣n có sanh tử.
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có biến
hóa, chẳng có trẻ nhỏ, người lớn, cũng
chẳng có già chết! Phật vô lượng thọ, tất
cả hết thảy những người văng sanh cũng đều
vô lượng thọ, điều này chẳng thể
nghĩ bàn! Trong cơi này, chúng ta luôn biến hóa trong từng sát-na,
nên thế gian này nói “vạn pháp
vô thường”. Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có biến hóa, hết thảy các pháp là chân
thường. Hễ có biến hóa, sẽ chẳng thật.
Chẳng có biến hóa mới là thật, kinh Vô Lượng
Thọ đă giảng điều này hết sức cặn
kẽ.
Câu
cuối cùng nói đến sự thọ dụng. Cuộc sống
trong cơi chúng ta gian nan, giống như ở trong rừng gai
góc, cây cối có gai, hết sức khó đi lại. Con
người từ lúc sanh ra cho đến khi chết già, con
đường ấy rất khổ! [Dùng “rừng gai góc”]
để tỷ dụ chuyện này. Tây Phương Cực
Lạc thế giới “quỳnh
lâm, ngọc thụ” (瓊林玉樹: rừng quỳnh,
cây ngọc), hoàn toàn là hưởng thụ, du sơn ngoạn
thủy, sự hưởng thụ ấy chẳng thể
sánh tầy. Do đó, bốn câu này là tŕnh bày đơn giản
về sự khác biệt giữa hai thế giới. Về
mặt Sự, chúng ta hiểu rơ: V́ sao bất đồng? Phải
nói tới nguyên nhân nào, đoạn kế tiếp sẽ nêu
ra. Trên thực tế, chúng tôi vừa mới đề cập
cùng chư vị đại lược nguyên nhân ấy.
Chúng
ta đọc đoạn văn ấy ḍng thứ tư từ
dưới đếm lên trong trang thứ chín: “Thành do tâm phân cấu tịnh, kiến
lưỡng độ chi thăng trầm, hạnh khai thiện
ác, đổ nhị phương chi thô diệu” (Đúng
là do tâm chia ra cấu hay tịnh, mà thấy hai cơi thăng trầm;
do hạnh phân thành thiện, ác, mà thấy hai phương thô
hay diệu). Trong lời Sao, tôn giả Tứ Minh đă giảng:
“Báo chi tịnh uế, thật
tùng tâm hạnh nhị nhân sở trí” (Quả báo là tịnh
hay uế, thật sự do hai cái nhân là tâm và hạnh gây
nên). Quả báo trong hai thế giới khác nhau; v́ sao khác nhau?
Do ḷng người trong hai thế giới khác nhau, hành vi
cũng khác nhau. Ngài nói ra nguyên do ấy. Tâm là ǵ? Một đằng
là mê, một đằng là ngộ, “liễu” (了) là giác ngộ.
Ḷng người trong thế giới Sa Bà mê hoặc, điên
đảo; tâm người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới thông đạt, hiểu rơ hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian. Trong hành vi [của
người trong thế giới Sa Bà] có thiện hay ác, c̣n
hành vi của họ (người trong cơi Cực Lạc)
hoàn toàn tương ứng với Chân Như bản tánh.
Đó là thuận, là thiện. Hành vi của chúng ta hoàn toàn
trái nghịch Chân Như bản tánh, đó là ác. Đây là nói
rơ v́ sao quả báo trong hai thế giới khác nhau: V́ nhân của
họ khác nhau. Bộ kinh này nhằm đặc biệt nói
rơ, nhằm nói tường tận nhân quả với chúng
ta. Nếu chúng ta muốn cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chư vị đồng tu phải
biết: Tâm chúng ta phải tịnh, hạnh của chúng ta
phải thiện. Tâm chẳng thanh tịnh, hạnh bất thiện,
niệm A Di Đà Phật cũng chẳng có tác dụng! Cổ
nhân bảo là “mỗi ngày niệm
mười vạn câu Phật hiệu, rách toạc cổ họng
vẫn uổng công”. Chỉ có thể nói là gieo một
chút thiện căn, chẳng thể văng sanh trong một đời này! V́ thế, người
thật sự cầu văng sanh, phải chú trọng tu tŕ
nơi tâm hạnh. Có cần nghỉ giải lao hay không?
Được rồi, chúng ta nghỉ mấy phút.
Tập 2
Xin mở quyển
kinh, trang thứ mười, ḍng thứ ba đếm từ
dưới lên:
“Dụ h́nh đoan tắc ảnh
trực, nguyên trược tắc lưu hôn” (Ví như
h́nh thể ngay ngắn th́ h́nh ảnh ngay thẳng; nguồn
đă nhơ bẩn th́ ḍng chảy đục ngầu). “H́nh đoan” (形端): “Đoan” là đoan chánh, tỷ
dụ tịnh nhân, thiện hạnh; “ảnh trực” (影直) là tỷ dụ quả báo. Nhân quả
trong Tây Phương thù thắng là do chỗ này. Nh́n lại
thế giới Sa Bà, “nguyên trược”
(源濁), “nguyên” là nói tới “tâm
nguyên” (心源: nguồn
tâm). Tâm chúng ta nhiễm đắm, nói theo cách hiện thời
là “ô nhiễm”. Kinh thường h́nh dung thế giới của
chúng ta là “ngũ trược ác
thế” (đời ác năm trược). “Trược” (濁) là ô nhiễm, [“ngũ trược”] là năm
thứ ô nhiễm nghiêm trọng. Tâm không thanh tịnh, nên
hành vi sẽ bất thiện, hành vi tạo nghiệp Thập
Ác, hạnh bèn bất thiện. Do đó, sẽ là “lưu hôn” (ḍng chảy đục
ngầu). “Lưu” (流) là giống như nước
chảy, tự nhiên sẽ chẳng sạch sẽ. Nước
ấy “hôn” (昏: đục ngầu), [chữ
“lưu hôn”] chỉ thế
giới này của chúng ta. Đó là dùng tỷ dụ để
nói về nhân và quả báo trong hai thế giới.
Trong
đoạn văn tiếp theo, “tựu
tịnh thị tu” (dạy cách tu hành để đạt
được tịnh), [hăy xem] ḍng thứ tư nơi
trang mười một: “Cố
tri dục sanh Cực Lạc quốc độ, tất tu
thập lục diệu quán, nguyện kiến Di Đà Thế
Tôn, yếu hành tam chủng Tịnh nghiệp (V́ thế,
biết là muốn sanh về Cực Lạc, ắt phải
tu mười sáu phép Quán nhiệm mầu, nguyện thấy
Di Đà Thế Tôn, phải hành ba thứ Tịnh nghiệp).
Ở đây, đại sư đă v́ chúng ta thiết tha
khai thị: Muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chẳng thể không biết mười
sáu môn diệu quán. Tu thành công bất cứ một phép Quán
nào trong mười sáu môn diệu quán, đều có thể văng
sanh Tây Phương thế giới. Từ phép Quán thứ nhất
là Nhật Quán đến phép Quán cuối cùng là Tŕ Danh, thành
tựu bất cứ phép Quán nào cũng đều được.
Tu hai ba phép Quán trong ấy cũng được; tu trọn
mười sáu phép Quán cũng được. Bất luận
là bao nhiêu, chỉ cần quư vị có thể tu thành công; như
thế nào th́ mới được gọi là “thành”? Đoạn
kinh văn tiếp đó đă giảng rơ: Mười sáu
phép Quán ấy đều là diệu quán, v́ sao? Bất cứ
phép Quán nào cũng đều là tu trọn vẹn Không - Giả
- Trung Tam Quán, Nhất Tâm Tam Quán. Mười sáu phép Quán ấy
đều là Nhất Tâm Tam Quán, kể cả niệm Phật.
Đó là chánh tu, là thiện nhất trong các điều thiện.
“Nguyện kiến Di Đà Thế
Tôn, yếu hành tam chủng Tịnh nghiệp” (nguyện
thấy Di Đà Thế Tôn, phải hành ba thứ Tịnh
nghiệp). Ba thứ Tịnh nghiệp vô cùng quan trọng;
khi giảng Di Đà Kinh Sớ Sao, tôi đă nói cặn kẽ
cùng quư vị. Ở đây, vẫn phải giảng chi tiết
cùng mọi người, v́ có những đồng tu chưa
nghe Di Đà Kinh Sớ Sao, điều này có quan hệ quá lớn
đối với sự tu Tịnh nghiệp của chúng
ta. Trong phần sau, chúng ta sẽ xem đến ba thứ Tịnh
nghiệp, sẽ đọc thấy [những điều ấy]
khi xem đến phần kinh văn [tương ứng]. Chúng
ta lại xem phần kế tiếp của lời tựa
nơi trang mười hai, ḍng thứ hai.
“Nhiên hóa nhân sự tiệm, giáo tạ
duyên hưng, thị dĩ Xà Vương sát nghịch, Vi
Đề ai thỉnh” (nhưng nhân duyên giáo hóa phải do
Sự mà dần dần h́nh thành, giáo cậy vào duyên để
hưng khởi. Kinh này là do vua A Xà Thế phạm tội
nghịch giết cha, bà Vi Đề Hy buồn bă thỉnh cầu).
Đoạn này nói đến nguyên do của pháp hội. V́
sao có pháp hội như thế này? V́ hành vi phản nghịch của vua A Xà Thế (Ajātaśatru), khiến
cho mẹ ông ta vô cùng đau thương. Phu nhân Vi Đề
Hy (Vaidehi) là mẹ của A Xà Thế, bèn khải thỉnh
đức Thế Tôn, hy vọng văng sanh một cơi Tịnh
Độ an lạc. Pháp hội do đó mà có, đó cũng
là duyên do giáo học của bộ kinh này được
hưng khởi như thế đó. “Đại thánh thùy Từ, thừa cơ diễn pháp”
(đức đại thánh rủ ḷng Từ, thừa dịp
diễn nói pháp), chúng ta hăy xem câu văn được in
theo lối đỉnh cách trong lời Tựa. “Đại thánh” là Thích Ca Mâu
Ni Phật. Trong hết thảy thánh hiền, Phật đă chứng
đắc quả vị rốt ráo viên măn, chẳng có ai cao
hơn Ngài, nên chúng ta tôn xưng Ngài là Đại Thánh. “Thừa cơ diễn pháp” là
dựa vào cơ duyên này để diễn giảng pháp môn
này. “Diệu ngọc tướng
dĩ lưu thái, tủng kim đài nhi hiển thụy, tuy
quảng thị trân vực, nhi tông quy An Dưỡng” (Tướng
ngọc chói ngời tuôn hào quang nhiều màu, đài cao chót
vót hiện điềm lành, tuy chỉ bày rộng răi cơi quư
báu, nhưng đề cao, quy kết An Dưỡng). Mấy
câu này nhằm nhắc đến câu chuyện đức Thế
Tôn phóng quang, hiện tướng lành, phu nhân Vi Đề Hy
chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trong phần trước, tôi đă nhắc sơ qua: Thích Ca
Mâu Ni Phật triển hiện hết thảy các cơi Phật
trước mặt phu nhân để bà ta tự tuyển chọn.
Sau khi xem xong, bà ta chọn lấy Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Câu cuối cùng trong lời Sao, tức là từ
hàng thứ ba trong trang mười ba, bà ta nói: “Ngă kim nhạo sanh Cực Lạc
thế giới, A Di Đà Phật sở” (Nay con thích sanh
về thế giới Cực Lạc là chỗ của A Di
Đà Phật), phu nhân tự ḿnh chọn lựa.
Lại xem lời
tựa: “Sử mạt tục hữu
duyên, tuân tư diệu quán” (khiến cho kẻ tục hữu
duyên trong đời Mạt Pháp, sẽ tuân hành pháp Quán mầu
nhiệm này). Nói thật ra, phu nhân Vi Đề Hy và vua A Xà
Thế đều là Bồ Tát hóa thân, giống như hát tuồng,
diễn tṛ cho chúng ta xem, há có phải là ác nghịch thật
sự? Không ǵ chẳng nhằm dùng phương pháp này để
khuyên chúng ta chọn lựa pháp môn vô thượng, viên đốn,
thù thắng bậc nhất, khiến cho hết thảy
chúng sanh tội ác sẽ được thành tựu trong một
đời. Đúng là bi tâm triệt để của chư
Phật, Bồ Tát, nhất là trong thời kỳ Mạt
Pháp. “Mạt tục” (末俗) là chúng sanh thế
tục hữu duyên trong thời Mạt Pháp, những ai hữu
duyên? Giống như các đồng tu đang hiện diện
đều có duyên. Duyên có sâu hay cạn khác nhau! Duyên sâu, vừa
tiếp xúc liền tin tưởng, liền nghiêm túc tu hành.
Duyên cạn th́ có thể tin, nhưng vẫn chẳng thể
buông xuống được, tức là như trong phần
trước đă nói, chẳng thể chuyên tu, mà là tạp
tu. Đó là duyên cạn. Chuyên tu là duyên sâu, duyên sâu quyết
định thành tựu trong một đời này. Duyên cạn
bèn kết pháp duyên, trong đời này, rất khó thành tựu!
Cổ đức bảo chúng ta: Tạp tu th́ trong một vạn
người chỉ có thể dăm ba người văng sanh.
Thiện Đạo đại sư nói người chuyên
tu th́ trăm người tu, trăm người văng sanh,
ngàn người tu, ngàn người văng sanh, chẳng sót một
ai! Vạn người tu, vạn người đến!
Nói thực tại, pháp môn này khó tin, đúng là khó tin!
Chúng ta thấy tổ
sư đại đức từ xưa, thường là
đến tuổi già mới tin tưởng. Tổ sư
của Tịnh Tông cũng chẳng phải là ngoại lệ.
Các vị Liên Tŕ và Ngẫu Ích đều là lúc tuổi già. Liên
Tŕ đại sư đến tuổi xế chiều,
chúng ta biết Ngài thật sự triệt để giác ngộ,
nên mới nói: “Tam Tạng thập
nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ, bát
vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ tha nhân hành” (Tam Tạng,
mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ.
Tám vạn bốn ngàn hạnh, để cho kẻ khác hành).
Lúc tuổi già, sau khi triệt để giác ngộ, bèn một
bộ kinh Di Đà, một câu Phật hiệu A Di Đà Phật,
những thứ khác thảy đều bỏ sạch. Chư
vị phải biết: Văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quư vị đọc Tịnh Độ Ngũ
Kinh, hăy tra duyệt, điều kiện [văng sanh] là Tín, Nguyện,
Hạnh. Tín là thật sự tin tưởng, tuyệt đối
chẳng hoài nghi. Nguyện là có nguyện vọng khẩn
thiết, ta muốn sanh sang Tây Phương Cực Lạc
thế giới, muốn thấy A Di Đà Phật. Hạnh
là một câu Phật hiệu trong mười hai thời chẳng
gián đoạn, không xen tạp, đó là Hạnh. Chúng ta xem lời
khai thị của Ngẫu Ích đại sư về niệm
Phật: Một người niệm Phật vừa muốn
hành tŕ giới, muốn đắp y, đi tŕ bát (khất
thực), vừa muốn tụng kinh, vừa muốn làm pháp
hội, vừa muốn bái sám, đó là tạp tu! Quả báo
là một chút si phước trong thế gian mà thôi, chẳng
thể thành tựu, đă hoàn toàn phá hoại chuyên tu!
Chúng
ta nghĩ tới Liên Tŕ đại sư vào lúc tuổi già:
Một câu A Di Đà Phật bốn chữ. Quư vị đọc
Trúc Song Tùy Bút sẽ thấy: Người khác thỉnh giáo lăo
nhân gia: “Lăo nhân gia dạy người khác tu hành theo cách nào?”
Ngài đáp: “Tôi dạy người khác niệm sáu chữ Nam-mô
A Di Đà Phật”. Người ta hỏi: “Chính lăo nhân gia tu
hành th́ sao?” Ngài bảo: “Bản thân tôi tu hành niệm bốn
chữ A Di Đà Phật”. Người khác bèn hỏi Ngài:
“Do duyên cớ nào?” Ngài đáp: “Tôi
nhất tâm nhất ư trong một đời này, quyết
định phải thấy A Di Đà Phật. Kinh dạy
‘chấp tŕ danh hiệu’ mà danh hiệu chỉ có bốn chữ,
Nam-mô chẳng phải là danh hiệu”. V́ thế, thật
sự mong văng sanh, hết thảy những thứ khách sáo
đều chẳng cần, đều chẳng cần thiết.
Ngài nói: “Tôi khuyên người
khác, người khác chưa chắc đă bằng ḷng văng
sanh, nên thêm chữ Nam-mô rất thích hợp. Nam-mô nghĩa là
cung kính, quy y”. Tức là quy y, cung kính A Di Đà Phật,
nhưng chưa chắc muốn văng sanh. Thật sự mong
văng sanh th́ hết thảy những thứ cố kỵ
đều chẳng có.
Cổ
đức giảng về pháp môn này rất rơ ràng: Là cảnh
giới Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là cảnh giới ǵ? Hoa Nghiêm là cảnh
giới Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chẳng
có chướng ngại. Nói cách khác, chẳng có hết thảy
kỵ húy. Tượng A Di Đà Phật có thể thờ
trong pḥng ngủ. Quư vị nói người tŕ giới [thờ
như vậy] đâu có được, thiếu cung kính!
Được rồi, sự cung kính ấy khiến cho công
phu của quư vị gián đoạn, xen tạp, chẳng thể
văng sanh! Hiện thời, nếu muốn đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng bàn tới
những chuyện ấy, điều khẩn yếu là ǵ? Ở
bất cứ chỗ nào, ta đều có thể trông thấy
tượng của A Di Đà Phật, ta luôn có thể khởi
lên “A Di Đà Phật”. Đó là đúng, chẳng sai tí nào! Đối
với kẻ chẳng muốn văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới th́ phải cung kính, pḥng ngủ của
quư vị là căn pḥng thông thường[5], chớ
nên thờ tượng Phật. Người thật sự
muốn văng sanh, nghi ngại ǵ cũng đều chẳng
có, chư vị phải biết chuyện này. V́ sao? Mục
đích là khiến cho trong mười hai thời, thời
thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, quyết
định chớ nên quên mất lần nào. Chúng ta nghe âm
thanh niệm Phật nhắc nhở chính ḿnh, nh́n tượng
Phật để nhắc nhở chính ḿnh, chuyện này trọng
yếu hơn bất cứ điều ǵ khác! Nghi ngại
ǵ cũng đều chẳng cần kiêng kỵ! Pháp môn này
là Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Do đó, pháp
môn này thù thắng, viên đốn đến tột bậc,
vô ngại tột bậc. Cổ nhân bảo: “Chuyên trung chi chuyên, đốn
trung chi đốn, viên trung chi viên” (Chuyên nhất trong các
pháp chuyên, đốn nhất trong các pháp đốn, viên nhất
trong các pháp viên). Nếu c̣n có những chướng ngại
ấy, làm sao có thể gọi là Viên cho được? Nếu
[c̣n có chướng ngại như vậy] sẽ chẳng viên.
Cái này chẳng thể, cái kia chẳng thể, tức là có
chướng ngại, chẳng phải là vô chướng ngại.
Chúng
ta chỉ có một niềm hy vọng; nói thật thà, hy vọng
duy nhất của A Di Đà Phật và Thích
Ca Mâu Ni Phật là mong sao chúng ta thành Phật trong một
đời này, hy vọng chúng ta suốt một đời
này một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn.
Trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, tuyệt đối
chẳng có vọng niệm thứ hai. Hễ có một vọng
niệm là trật rồi, vọng niệm ấy liền
biến thành xen tạp, gián đoạn. [Chư Phật, Bồ
Tát, chư vị tổ sư đại đức] dạy
chúng ta công phu chẳng xen tạp, không gián đoạn
như thế nào th́ nhất định phải tuân thủ.
Đó gọi là duyên sâu, duyên chín muồi, quyết định
văng sanh trong một đời này. Văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, quyết định thành Phật
trong một đời này, quư vị nghĩ xem: Duyên ấy
hy hữu lắm! V́ lẽ đó, cư sĩ Bành Tế
Thanh đă viết trong Vô Lượng Thọ Kinh Khởi
Tín Luận như sau: “Đây là
một ngày hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp
đến nay”, đúng vậy, chẳng giả!
Lại
xem hai câu kế tiếp: “Lạc
nhật huyền cổ, dụng tiêu tống tưởng
chi phương” ([quán tưởng] mặt trời lặn
giống như cái trống treo nhằm nêu rơ nơi chốn
sẽ đặt tâm tưởng vào đó). Đây là nói
đến mười sáu phép Quán trong kinh này. Phép Quán thứ
nhất trong mười sáu phép Quán là Nhật Quán, [tức
là] quán mặt trời lặn, cũng nhằm dạy chúng
ta nghĩ tới Tây Phương. Trong phép Quán mặt trời
lặn, có hai ư nghĩa:
- Thứ nhất
là khiến cho tâm chẳng rong ruổi, tâm chẳng tán loạn.
- Thứ hai là niệm
niệm nghĩ tưởng Tây Phương.
Đó là thật
sự giác ngộ, triệt để giác ngộ, v́ sao? Chúng
ta đời đời kiếp kiếp đều phải
luân hồi trong lục đạo, quá khổ! Trong đời
quá khứ, chúng ta có tu Tịnh Độ hay không? Đă tu!
Không chỉ đă tu, mà c̣n là đời đời kiếp
kiếp đều tu tập! V́ sao đời đời kiếp
kiếp tu tập mà vẫn chẳng thể văng sanh, đều
chẳng văng sanh thành công? Do chúng ta tu hành chẳng đúng
pháp, công phu không đắc lực, lầm lạc! Thế
nào là không đúng pháp? Tạp tu! Chẳng phải là chuyên tu.
Trong đời này, nếu phạm phải bệnh cũ;
nói cách khác, đời này vẫn chẳng thể thành tựu,
vẫn phải đợi đến đời sau. Thật
sự giác ngộ trong một đời này, từ nay về
sau, chúng ta chuyên tu, quyết định chẳng tạp tu.
Chuyên tu th́ phải hỏi: Ta phải tu bao lâu th́
mới có thể thành tựu? Chuyện này phụ thuộc
công phu của bản thân quư vị là siêng năng hay
lười nhác. Nếu quư vị tinh tấn, thời gian ắt
chẳng rất dài. Nếu quư vị giải đăi, phải
mất mấy năm công phu. Vẫn phải là tùy thuộc
thiện căn của chính ḿnh dầy hay mỏng, thiện
căn là ǵ? Chân tín, chân nguyện là thiện căn. Phước
đức là ǵ? Chuyên niệm là có phước, là phước
đức, câu danh hiệu này được gọi là “vạn đức hồng danh”.
Chuyên niệm bèn có phước; tạp niệm, phước
mỏng hơn một chút. Chuyên niệm, phước dầy
nhất. Ngẫu Ích đại sư khuyên chúng ta chuyên tŕ Phật
hiệu, buông xuống hết thảy, v́ sao? Trong một câu
Phật hiệu, không chỉ bao quát hết thảy các pháp
môn và hết thảy các phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong một đời, mà ngay cả vô lượng
vô biên pháp môn do hết thảy chư Phật, chư Bồ
Tát trong mười phương vô lượng vô biên thế
giới đă nói, cũng chẳng vượt ra ngoài một
câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này là pháp môn đại
tổng tŕ, quư vị chẳng niệm câu này th́ niệm ǵ
đây? Niệm những thứ khác, tu những thứ khác
chỉ là một bộ phận, niệm câu A Di Đà Phật
là toàn thể. Phải biết điều này, công đức
ấy chẳng thể sánh tầy!
Câu
kế tiếp là: “Đại
thủy kết băng, thật biểu lưu ly chi địa”
(đại thủy đóng băng, quả thật biểu
thị đất lưu ly). Đây là phép Quán thứ hai, tức
Thủy Quán. Đối với loại quán tưởng này,
kinh Hoa Nghiêm đă nêu ra lư luận. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất
thiết duy tâm tạo” (hăy nên quán tánh của pháp giới,
hết thảy chỉ do tâm tạo). Kinh Lăng Nghiêm giảng:
“Nhược năng chuyển
cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể
chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai). Do vậy
có thể biết, hết thảy “vật cảnh” (hoàn cảnh
vật chất) đều do phân biệt, tưởng
tượng biến hiện. Kinh Kim Cang đă dạy: “Nhất thiết hữu vi pháp,
như mộng, huyễn, bào, ảnh” (Hết thảy pháp
hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng). Y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới sanh từ tâm
tưởng. Tâm tịnh, biến hiện cảnh giới Tịnh
Độ. Tâm uế, cảnh được biến hiện
sẽ là uế độ. Nếu chúng ta hiểu rơ đạo
lư này, không chỉ là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, mà c̣n trong một đời này, khi thọ mạng
vẫn chưa hết, sống trên thế gian này, đối
với khổ, lạc, họa, phước trong thế
gian, chính ḿnh đều có thể làm chủ tể. Chỉ
cần hiểu rơ đạo lư này, chính ḿnh có thể làm chủ,
xác thực là trong một đời này, chính ḿnh có thể hưởng
thụ viên măn nhất, sung sướng nhất, cuộc đời
hạnh phúc nhất. Thưa cùng quư vị, đó gọi là hoa
báo, tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới là quả báo.
Đời
người hạnh phúc mỹ măn, không nhất định
là rất có tiền, không nhất định là rất có
địa vị! Nói thật thà, có tiền, có địa vị,
chưa chắc đă có hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự
là ǵ? Là trong tâm chẳng vướng mắc, chẳng có
ưu lự, đó là hạnh phúc thật sự. Trong tâm
chuyện ǵ cũng đều chẳng có, tâm thanh tịnh,
thân thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, thế giới bèn
thanh tịnh. Thế giới là cảnh chuyển theo tâm, thế
giới bèn thanh tịnh. Đó là hạnh phúc thật sự.
Trong tâm có ưu lự, có vướng mắc, tâm sẽ
không thanh tịnh, sẽ có phiền năo, sẽ có nghiệp
chướng. Trong tâm thanh tịnh, lấy đâu ra chướng
ngại? Chẳng có chướng ngại. V́ thế, nếu
chư vị muốn biết khi nào nghiệp chướng
của chính ḿnh tiêu trừ ư? Khi nào trong tâm quư vị chẳng
có vọng niệm, chẳng có ưu lự, vướng mắc,
nghiệp chướng liền tiêu trừ. Khi ấy, quư vị
sẽ cảm ứng đạo giao cùng Tây Phương Cực
Lạc thế giới A Di Đà Phật, trao đổi tin
tức với Ngài, gởi điện báo qua lại, chính
ḿnh nắm chắc văng sanh, đă có tín tâm, đó là vui sướng!
Trong thế gian này, giống như chư Phật, Bồ
Tát thị hiện, du hư thần thông, du ngoạn khắp
nơi, đến thế giới Sa Bà để văn cảnh,
đến để du lịch. Đó mới là hạnh
phúc thật sự, viên măn thật sự.
Lại
xem hai câu tiếp theo: “Phong ngâm
bảo diệp, cộng thiên nhạc nhi đồng phồn.
Ba động kim cừ, tương khế kinh nhi hợp
hưởng” (Gió lùa cây báu vang tiếng ngân nga, ḥa điệu
cùng nhạc trời rộn ră. Sóng gợn khe ng̣i vàng, ḥa tiếng
cùng khế kinh vang vọng). Hai câu này, câu trước là Bảo
Thụ Quán, câu sau là Bảo Tŕ Quán, đến phần sau
chúng ta sẽ đọc tới ao sen bảy báu. “Quán nhục kế[6] nhi chiêm thị giả, niệm sắc
tướng nhi đổ Như Lai” (quán nhục kế để
chiêm ngưỡng hai vị thị giả, nghĩ nhớ sắc
tướng để thấy Như Lai), câu trước
là quán tưởng Quán Âm và Thế Chí, câu sau là quán Vô Lượng
Thọ Phật. Trong thế giới Tây Phương, sắc
tướng của Phật và Bồ Tát giống nhau. Chỗ
sai biệt giữa Phật và Bồ Tát là đỉnh đầu
nơi thân tướng của các Ngài khác nhau. Đỉnh
đầu Phật là tướng nhục kế, c̣n Bồ
Tát đội măo. Trên thực tế, nếu Bồ Tát bỏ
măo ra, sẽ hoàn toàn giống như Phật, hoàn toàn chẳng
có sai biệt. Ngài đội măo th́ măo c̣n có sai biệt. Chính
giữa măo của Quán Âm Bồ Tát là tượng đứng
của A Di Đà Phật, chính giữa măo của Đại
Thế Chí Bồ Tát là một b́nh báu. Đấy là điểm
sai biệt để chúng ta phân biệt vị nào là Quán Âm,
vị nào là Đại Thế Chí. Nếu chẳng có tướng
ấy, sẽ chẳng có sai biệt, hoàn toàn giống nhau.
Đến phần kinh văn, chúng ta sẽ đọc thấy
[chuyện này].
“Cập kỳ minh mục cáo chung,
thượng trân đài nhi cao dũng. Văn thành ấn hoại,
tọa kim liên nhi hóa sanh” (Tới khi nhắm mắt qua
đời, ngự đài báu bay vọt lên cao; nét khắc đă
in thành, ấn liền tan nát, ngồi sen vàng để hóa
sanh), đây là nói tới ba bậc chín phẩm văng sanh. Trong
phần giải thích, tôn giả Tứ Minh đă giảng rất
rơ ràng.
Rất
nhiều vị tổ sư đại đức nói: Con
người sau khi đă chết, trong ṿng tám tiếng sau khi
người ấy đă tắt hơi, đừng nên
động đến, hăy trợ niệm cho người ấy.
Nói thật ra, trợ niệm tám tiếng đồng hồ,
người ấy chẳng văng sanh. Người ấy văng
sanh th́ đă ra đi khi chưa tắt hơi, đi rồi
mới tắt hơi, đó là văng sanh thật sự.
Nhưng đă tắt hơi, th́ [trợ niệm] trong tám giờ
là v́ sợ ǵ? Sợ rằng người ấy chẳng
văng sanh. Chưa văng sanh, nhưng khi ấy, thần thức
của người đó chưa rời đi, chúng ta niệm
Phật để nhắc nhở người ấy. Nếu
lúc đó, người ấy bỗng nhớ tới Phật
hiệu, tự cầu văng sanh, th́ vẫn có thể văng sanh.
Đấy là thời khắc then chốt. Chuyện này
được gọi là “độ
Trung Ấm”, độ Trung Ấm là trong thời khắc
then chốt ấy. Qua khỏi thời khắc ấy, hết
sức khó khăn, chẳng dễ dàng! Tuy chẳng văng sanh,
nhưng trợ niệm cho người ấy trong lúc
đó, nói thật ra là tăng phước, giảm thiểu
sự đau khổ cho người ấy, giúp người
ấy văng sanh trong thiện đạo, chẳng đến
nỗi đọa trong ác đạo, mục đích ở
chỗ này. V́ thế, cầu nguyện văng sanh tốt nhất
là dựa vào chính ḿnh, đừng ỷ vào người khác trợ
niệm. Lỡ vạn nhất khi đó chẳng có duyên phận
ấy, chẳng có ai trợ niệm th́ làm sao đây? Cho nên
nhất định phải dựa vào chính ḿnh.
Quư
vị thấy trong Niệm Phật Luận, lăo pháp sư
Đàm Hư đă kể chuyện nữ cư sĩ họ
Trương thuộc Niệm Phật Hội chùa Trạm
Sơn tại Thanh Đảo. Người ta văng sanh chẳng
cần kẻ khác trợ niệm, biết trước lúc mất.
Người ấy sống rất kham khổ, chồng kéo
xe tại bến tàu, một nhà bốn người, ngày nào
chẳng làm việc, ngày ấy chẳng có tiền tiêu. Chính
bà ta cũng không biết chữ, tham dự Niệm Phật
Hội để niệm Phật với người khác,
làm việc lặt vặt trong nhà bếp, giúp người
khác rửa chén đũa. Bà ta nghiễm nhiên niệm Phật
hiệu giỏi như vậy; lúc ra đi tỉnh táo, sáng
suốt. Lúc bà ta mất là vào buổi sáng, chẳng cần
ai trợ niệm, biết sẽ đi lúc nào. Do đó,
đấy là thật sự hiện thân thuyết pháp, nêu
gương tốt nhất cho chúng ta. Người bị bệnh
đau khổ, thật thà niệm Phật, niệm kinh Vô
Lượng Thọ, chẳng thể nghĩ bàn. Lần
đầu tiên tôi đến Bắc Kinh gặp lăo cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ, lăo cư sĩ bảo tôi: Cụ
có mười mấy học tṛ theo học với cụ. Học
tṛ cụ cho biết họ ngă bệnh chẳng đi bác
sĩ, không uống thuốc, cả nhà niệm kinh Vô Lượng
Thọ, niệm A Di Đà Phật, một mực niệm
đến lành bệnh. Các học tṛ cũng bảo tôi: “Chúng
tôi thật sự làm như vậy”. Kinh này công đức
chẳng thể nghĩ bàn! Do đó, nếu chúng ta mắc bệnh,
có chướng ngại, có nghiệp chướng, quư vị
niệm kinh này nhất định có thể tiêu trừ.
Tiếp
theo đó, sách viết: “Tùy tam bối
nhi hoành tiệt, việt ngũ khổ nhi trường vụ”
(nương theo ba bậc để cắt ngang [ḍng sanh tử],
vượt năm khổ để măi xa ĺa [chốn Sa
Bà]). Hai câu này nói đến ba bậc văng sanh, từ thượng
thượng phẩm cho đến hạ hạ phẩm, trong
một đời này vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.
“Hoành tiệt” (橫截) là hoành siêu, đây
là chỗ thù thắng của pháp môn này. Tu những pháp môn
khác chẳng có hoành siêu; chẳng có hoành siêu sẽ rất
khó, v́ sao? Người ấy phải tu Tứ Thiền, Bát
Định. [Đắc] Tứ Thiền sanh trong Sắc Giới
Thiên; thành tựu Bát Định, sanh trong Vô Sắc Giới Thiên,
lại phải tu Đệ Cửu Định mới
vượt thoát luân hồi, người b́nh phàm chẳng thể
làm được! Trong kinh Tiểu Thừa, đức Phật
dạy: Hàng Tiểu Thừa đoạn tám mươi tám phẩm
Kiến Hoặc, chứng đắc quả Tu Đà Hoàn,
tính từ ngày hôm ấy, qua lại trong cơi trời và cơi người
bảy lần mới có thể đoạn sạch tám
mươi mốt phẩm Tư Hoặc, tu thành tựu
Đệ Cửu Định vượt thoát luân hồi. Qua
lại bảy lần trong cơi trời và cơi người phải
mất thời gian bao lâu? Tuổi thọ trong nhân gian ngắn
ngủi, thọ mạng cơi trời lâu dài, có thể thấy
cách này khó khăn lắm! Những pháp môn Đại Thừa
khác cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, cũng phải là đoạn
Kiến Tư phiền năo th́ mới có thể thành tựu.
Chỉ
riêng Tịnh Tông chẳng cần đoạn; tuy chẳng cần
đoạn, nhưng phải khuất phục. Khuất phục,
chứ chưa đoạn, cổ nhân sánh ví “khuất phục”
giống như đá đè cỏ, chẳng trừ tận
gốc. Đè như thế nào? Đè nén chẳng cho nó dấy
lên hiện hành. Đá là ǵ? Cỏ ví như phiền năo, vọng
tưởng, chấp trước, sánh ví những điều
ấy; đá là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật.
Dùng câu Phật hiệu ấy để đè nén vọng
tưởng, chấp trước, phân biệt, chẳng cho
chúng dấy lên hiện hành. Những thứ ấy quả
thật chưa đoạn, chỉ cần chúng chẳng dấy
lên hiện hành là được rồi, hữu dụng, có
thể văng sanh. Nhưng phải đè nén; nếu chẳng đè
nén được, sẽ chẳng thể văng sanh. Hễ
đè nén được, bèn gọi là “công phu đắc lực”.
Do đó, chúng ta niệm câu Phật hiệu này, chẳng dấy
phiền năo, chẳng có vọng niệm; đó là công phu
đắc lực. Niệm câu Phật hiệu này mà vẫn
dấy lên vọng niệm, vẫn sanh phiền năo, công phu chẳng
đắc lực! Phải đặc biệt chú ư điều
này.
“Khả vị vi hành diệu quán,
chí đạo yếu thuật giả tai” (Có thể nói:
Cách hành tŕ vi diệu và các phép quán mầu nhiệm chính là thuật
trọng yếu nhằm đạt tới đạo tột
bậc vậy). Đây là lời tổng kết cho đoạn
này. “Vi” (微) là vi diệu, vi diệu tột
bậc, tu hành là nói tới ba thứ Tịnh nghiệp. “Diệu quán” (妙觀) là mười
sáu phép Quán. “Đạo” (道) là đạo
thành Phật. “Chí” (至) là đạt tới
chỗ tột cùng, đạo thành Phật không chi hơn
được cách này! “Thuật”
(術) là phương
pháp. Phương pháp quan trọng nhất là ba thứ Tịnh
nghiệp và mười sáu diệu quán. Trong phần trước,
tôi đă thưa cùng quư vị, đối với mười
sáu diệu quán, chỉ cần nắm được một
phép Quán bèn thành tựu. Phật Thế Tôn cùng chư Phật,
các vị tổ sư đại đức dạy chúng ta
chọn pháp Quán thứ mười sáu, chọn lựa
phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật. Quư vị thấy
trong Tịnh Độ Tam Kinh, phương pháp này được
kinh Vô Lượng Thọ đề xướng, kinh A Di
Đà cũng đề xướng, nên biết hết thảy
chư Phật, Bồ Tát, chẳng có vị nào không đề
xướng pháp môn này. Ngay như lăo pháp sư Đế
Nhàn giảng giải Diệu Tông Sao bằng tác phẩm Giảng
Nghĩa này, qua đoạn mở đầu trong lời tựa,
[chúng ta thấy rơ] Ngài cũng đề xướng Tŕ Danh
Niệm Phật. Có thể thấy Tŕ Danh thật sự chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta lại lật qua xem trang thứ
mười sáu.
“Thử kinh tâm quán vi Tông, Thật
Tướng vi Thể” (kinh này lấy tâm quán làm Tông, lấy
Thật Tướng làm Thể), nêu bày phần Minh Tông Biện
Thể của bộ kinh này. “Kinh
dĩ Quán Phật vi đề, Sớ dĩ tâm quán vi Tông”
(Kinh dùng chuyện quán Phật để làm tựa đề,
Sớ dùng tâm quán làm Tông). Vừa khởi đầu, tôn giả
Tứ Minh đă dặn ḍ rơ ràng, rành rẽ. [Bàn luận] tỉ
mỉ, trọng yếu [nhận định này] th́ khi nói
đến phần kinh văn, tôi sẽ lại thưa tŕnh
cùng quư vị. Nay ở đây, chúng ta hiểu điều
quan trọng nhất là ba thứ Tịnh nghiệp và mười
sáu diệu quán. Ba thứ Tịnh nghiệp rất khó làm
được, nhưng lại chẳng thể không làm, v́
sao? Chẳng làm được, sẽ chẳng thể văng
sanh! Chẳng làm, sẽ chẳng thể vượt thoát
luân hồi, nhất định phải làm được!
Điều này khẩn yếu hơn bất cứ điều
ǵ khác! Nguyên lư của nó là như kinh này đă dạy: “Thị tâm thị Phật, thị
tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Tâm
năng niệm là Thỉ Giác, đức Phật được
niệm là Bổn Giác. V́ thế, khởi tâm niệm Phật
là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn
Giác bất nhị là Cứu Cánh Giác. Do đó, niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả. Niệm Bồ Tát thành Bồ
Tát, niệm Thanh Văn thành Thanh Văn, niệm thiên liền
sanh thiên, niệm người được thân người,
niệm tham, sân, si, niệm ngũ dục, lục trần,
sẽ là ba ác đạo, tùy thuộc quư vị niệm
điều ǵ.
Trong phần chú
giải, chúng ta xem ḍng thứ năm trong trang mười
sáu, xem câu cuối trong ḍng thứ năm: “Kim quán Di Đà y chánh vi duyên” (nay dùng quán y báo và
chánh báo của Phật Di Đà làm duyên). V́ sao kinh thường
nói Quán, chẳng nói Niệm? V́ sao chẳng nói Tưởng,
mà phải nói Quán? Chữ này có quan hệ rất lớn! Nếu
nói Niệm hoặc Tưởng, [người nghe] sẽ dễ
sanh t́nh chấp, “t́nh chấp” (情執) là chấp
trước theo phương diện cảm t́nh, chẳng
thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam giới.
Quư vị nói “nay ta không mến chuộng thế giới này,
ta yêu mến A Di Đà Phật”, như vậy th́ chẳng
thể văng sanh, [v́ vẫn là t́nh chấp]! Quán là lư tánh, chẳng
phải là cảm t́nh, nó là lư trí, giống như trong Thiền
Tông nói Quán Chiếu, Chiếu Trụ và Chiếu Kiến, sử
dụng những công phu đó. Niệm Phật cũng là niệm
niệm chẳng ĺa công phu quán chiếu. Quán chiếu thuộc
về lư tánh, chẳng thuộc về cảm t́nh. Do đó,
dùng chữ Quán, chẳng dùng chữ Niệm, chẳng dùng chữ
Tưởng!
“Kim quán Di Đà y chánh vi duyên, huân
hồ tâm tánh, tâm tánh sở cụ Cực Lạc y chánh, do
huân phát sanh, tâm cụ nhi sanh, bất ly tâm tánh, toàn tâm thị
Phật, toàn Phật thị tâm, chung nhật quán tâm, chung nhật
quán Phật” (nay quán y báo và chánh báo của Phật để
làm duyên, huân tập tâm tánh. Y báo và chánh báo cơi Cực Lạc
sẵn có trong tâm tánh sẽ do huân tập mà phát sanh. Do tâm
đă sẵn có, nên sanh khởi. Chẳng ĺa tâm tánh, toàn thể
tâm là Phật, toàn thể Phật là tâm. Suốt ngày quán tâm
là suốt ngày quán Phật). Phải biết mấy câu này là
bí quyết niệm Phật! Có biết th́ quư vị mới chịu
niệm, niệm thành công. Thế giới Cực Lạc là
thế giới ǵ? Là “duy tâm Tịnh Độ”. A Di Đà Phật
là ai? Là “tự tánh Di Đà”. Có lẽ sẽ có người
hỏi, duy tâm Tịnh Độ và Tịnh Độ của
A Di Đà Phật là một hay là khác, là một hay là hai? Tự
tánh Di Đà và A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới có mối quan hệ ǵ? Thưa cùng
quư vị, Tây Phương Cực Lạc thế giới do
tự tánh biến hiện, A Di Đà Phật cũng do tự
tánh biến hiện. Không riêng ǵ Cực Lạc và Phật Di
Đà do tự tánh biến hiện, mà tất cả hết
thảy đông đảo chúng sanh nơi cơi Sa Bà trong hiện
tiền vẫn do tự tánh biến hiện. Đó là tự
tánh biến hiện uế độ. Tây Phương Cực
Lạc thế giới là tự tánh của quư vị biến
hiện Tịnh Độ, v́ sao? V́ tâm quư vị thanh tịnh
liền biến thành Tịnh Độ. Tâm quư vị chẳng
thanh tịnh, Tịnh Độ chẳng biến hiện. Duy
tâm Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ là
một, không hai, chẳng có biên giới; tự tánh Di Đà và
ngài Pháp Tạng tu thành Phật Di Đà cũng là một,
không hai. Đó là nguyên lư chân thật.
Các
triết gia trong thế gian nói đến bản thể của
vạn hữu trong vũ trụ, bản thể là tâm tánh. Thiền
gia đ̣i hỏi tu hành phải tu từ căn bản, trọn
chẳng biết sự tu hành của Tịnh Tông mới là
căn bản của các căn bản, trỗi vượt
Thiền Tông quá nhiều. Do đó, suốt ngày niệm Phật
là suốt ngày quán tâm, nhất định phải niệm
đến mức “toàn thể tâm
là Phật, toàn thể Phật là tâm”, công phu niệm Phật
của quư vị mới thật sự đạt tới tột
bậc, đạt tới đỉnh cao nhất. Đến
khi ấy, chúng ta thấy hết thảy mọi người
đều là Phật, thấy hết thảy vật
cũng là Phật, thấy hết thảy sự vẫn là Phật,
[chúng ta] bèn thành Phật. Mắt Phật thấy hết thảy
đều là Phật, phàm phu thấy Phật, Bồ Tát
cũng là phàm phu. Do vậy có thể biết, xác thực là
cảnh chuyển theo tâm. “Nếu
có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như
Lai”, chẳng sai tí nào!
Nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ
này. Buổi chiều chúng tôi sẽ nói đến đề
mục của kinh.
Tập 3
Xin xem ḍng thứ
tư trong trang mười bảy:
“Sở ngôn Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ
Phật giả, Phật thị sở quán thắng cảnh.
Cử chánh báo dĩ thâu y quả, thuật hóa chủ dĩ bao
đồ chúng. Quán tuy thập lục, ngôn Phật tiện
châu; cố vân Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật” (Nói “Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật” v́ Phật là cảnh
thù thắng để quán. Nêu chánh báo để gồm thâu
y báo, thuật hóa chủ để bao gồm đồ
chúng. Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói đến Phật
liền trọn đủ. V́ thế nói là “Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật”). Tựa đề kinh
có Thông và Biệt. Cái được gọi là Biệt Đề
chính là chỗ khác biệt với những kinh khác. Thông
Đề th́ hết thảy các kinh đều giống nhau.
Chữ Kinh tiếp đó chính là Thông Đề, c̣n Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật trước đó là Biệt
Đề. Ở đây nói “Phật
thị sở quán thắng cảnh” (Phật là cảnh
thù thắng để quán), “Phật”
ở đây là Vô Lượng Thọ Phật, “cảnh” (境) là cảnh giới,
“thắng cảnh” (勝境) là cảnh thù
thắng nhất. Trong phần trước, chúng ta đă biết
nguyên do quán Phật và công đức quán Phật. “Chánh báo” (正報) là thân Phật.
Chúng ta quán Vô Lượng Thọ Phật tức là đă bao
gồm thế giới và hoàn cảnh sống của Vô
Lượng Thọ Phật. “Hóa
chủ” (化主) là giáo chủ,
cũng là thầy. Nhắc tới thầy, đương
nhiên cũng bao gồm các học tṛ của Ngài. Thế giới
Cực Lạc giống một ngôi trường đại
học, Vô Lượng Thọ Phật là hiệu trưởng,
những người khác đều có thể nói là học
tṛ của Ngài. Các pháp Quán tuy nói đến mười sáu loại,
nhưng hễ nói “Phật”
th́ mười sáu phép Quán đều được bao gồm.
“Châu” (周) là trọn hết,
toàn bộ đều được bao gồm. Do đó, tựa
đề của kinh này là Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh. “Kinh giả,
huấn pháp, huấn thường, do thánh nhân kim khẩu, cố
vân Kinh dă” (Kinh là dạy về pháp, dạy về lẽ
thường, xuất phát từ miệng vàng của thánh
nhân, nên gọi là Kinh). Đạo tràng của chúng ta giảng
kinh quanh năm không gián đoạn, những phần giống
như Thông Đề có thể tỉnh lược, có thể
chẳng cần nói!
Chúng
ta lại xem đoạn văn tiếp theo: “Thử kinh nghĩa sớ, nhân hy tịnh báo, cố
thuyết thính giả đa hỹ” (Sớ giải ư
nghĩa kinh này, do người ta mong mỏi tịnh báo, nên người
nói, kẻ nghe đông đảo). Đối với kinh
này, Nghĩa Sớ là chú giải do Trí Giả đại
sư soạn, v́ người tu hành đều mong cầu
sanh về Tịnh Độ, nên bản chú giải này là bộ
sách vô cùng quan trọng để tu Tịnh Độ. V́ thế,
người giảng nhiều, người nghe cũng
đông. Kinh này giảng cặn kẽ y báo và chánh báo trang
nghiêm trong thế giới Tây Phương; v́ nếu không nói
tỉ mỉ, chúng ta chẳng thể nào quán tưởng
được, ắt cần phải nói rơ ràng, tường
tận, tỉ mỉ phương pháp tu hành. V́ thế,
người thật sự phát nguyện, mong cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới trong một
đời này, nói thật ra, chẳng thể nào không biết
đến. Mấy câu này nhằm nói rơ v́ sao phải viết
chú giải. Tiếp đó: “Sở
bẩm Bảo Vân sư thủ chế kư văn,
tương duyên chí kim, trước thuật bất tuyệt,
giai tông Trí Giả” (Nhờ có thầy Bảo Vân ghi chép đầu
tiên, truyền măi đến nay, trước thuật chẳng
ngừng, đều noi theo ư chỉ của ngài Trí Giả).
Câu này nói về sư thừa; nếu chẳng có sư thừa,
chẳng thể khiến cho kẻ khác tin tưởng. Trung
Quốc và Ấn Độ hết sức coi trọng
sư thừa. Những ǵ quư vị đă học là do học
với ai? Điều này rất trọng yếu. Không như
hiện tại, người hiện thời chẳng coi trọng
sư thừa cho mấy! Mỗi người đều có
thể tự lập một trường phái, thời cổ
chẳng có chuyện ấy!
Chúng
ta đọc Đàn Kinh sẽ thấy chuyện thiền
sư Vĩnh Gia. Ngài Vĩnh Gia là một người vô cùng
thông minh, gặp gỡ ngài Huyền Sách. Ngài Huyền Sách nhận
biết Sư là một nhân tài, khuyên Sư phải t́m một
bậc cao minh để ấn chứng, tức là chứng
minh cho Sư. Người chứng minh cho Sư sẽ là thầy.
Nếu không có ai chứng minh, nói chính ḿnh học thành công,
ngài Huyền Sách nói: “Nói theo Phật
pháp, trước thời Oai Âm Vương th́ có thể. Sau Oai
Âm Vương Phật, nếu chẳng có sư thừa,
đều là thiên nhiên ngoại đạo”.
Sư
thừa của bản chú giải này là từ ngài Bảo
Vân. Trong chú giải có nói ngài Tứ Minh được bẩm
thụ pháp từ pháp sư Bảo Vân[7].
Ngài Bảo Vân là người xứ Cao Ly, tức là người
Đại Hàn, khai ngộ trong hội của Trí Giả
đại sư. Ngài đến Trung Quốc du học, sau
khi đă ngộ, muốn trở về, quay về nước
ḿnh để hoằng pháp, nhưng về sau bị các
đồng tu bên Trung Hoa giữ lại. Ngài nói Phật pháp chẳng
có giới hạn chủng tộc, mà cũng chẳng có giới
hạn quốc gia, ở đâu có duyên th́ đến đó
hoằng dương, cần ǵ cứ phải nhất định
trở về nước ḿnh! Do đó, Ngài ở lại.
Ngài Bảo Vân có hai đệ tử; hai người đệ
tử ấy đều hết sức nổi tiếng
trong Phật giáo sử Trung Quốc, một là tôn giả Tứ
Minh, vị kia là Từ Vân Tuân Thức đại sư.
Đối với tông Thiên Thai sau này, có thể nói là các Ngài
là những vị đại pháp sư chủ yếu phục
hưng tông Thiên
Lại
xem đoạn kế tiếp là “trước
thuật dụng ư”, [hăy đọc] ḍng cuối cùng trong
trang mười chín: “Khởi hữu
bất tri tu tâm diệu quán, cảm tứ Tịnh Độ
văn nghĩa giả da?” (Há có lẽ nào chẳng biết
tu tâm diệu quán, mà cảm bốn cơi Tịnh Độ
ư?). Trước hết, Ngài đặt ngược vấn
đề. Há có lẽ nào mà có kẻ chẳng biết tu tâm,
chẳng biết tu diệu quán, lại có thể văng sanh Tây
Phương Tịnh Độ? Tây Phương có bốn loại
Tịnh Độ: Thường Tịch Quang Tịnh Độ,
Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Phương Tiện Hữu
Dư Độ và Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Câu
nói này đă nêu khái quát: Bốn loại Tịnh Độ
đều phải tu diệu quán. Cùng tu diệu quán như
nhau, v́ sao sanh trong các cơi khác nhau? Do công phu diệu quán của
quư vị có cạn hay sâu khác biệt. V́ thế, bất luận
tu phương pháp nào, công phu [đều có] cạn hay sâu.
Nói theo kinh điển Tịnh Tông, sẽ là công phu thành phiến,
Sự nhất tâm bất loạn, và Lư nhất tâm bất loạn.
Đó là phân chia đại lược. Nếu chia tỉ mỉ,
trong mỗi loại lại có nhiều loại nhỏ khác
biệt, nên mới [nói tổng quát là phẩm vị văng
sanh] có ba bậc chín phẩm.
Đoạn
kế đó là Chánh Thị (正示), tức là giảng rơ ư nghĩa. “Lương dĩ mẫn vật
t́nh thâm” (do ḷng thương xót chúng sanh sâu đậm), “vật” (物) là tiếng gọi
chung chúng sanh. Nếu nói “người”, sẽ chẳng bao gồm
chư thiên, chẳng bao gồm súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục. V́ thế, dùng chữ Vật để bao quát tất
cả hữu t́nh chúng sanh trong lục đạo. Đức
Phật mở ra pháp môn này, không chỉ nhằm độ
chúng ta, mà c̣n muốn độ chư thiên, cũng muốn
độ ba ác đạo. Dẫu là chúng sanh trong địa
ngục, nhưng nếu họ có thể tin tưởng, có
thể y giáo phụng hành, đều có thể văng sanh. Có thể
thấy pháp môn này xác thực là rộng lớn vô biên, chẳng
thể nghĩ bàn. Đó là các vị tổ sư đại
đức dấy ḷng bi mẫn đối với hết
thảy chúng sanh. “Thích thời trí
xảo, cố đa đàm sự tướng, thiểu thị
Quán môn, vụ tại hạ phàm, phổ triêm duyên chủng”
(Trí xảo diệu nhằm thích ứng thời cơ, nên
bàn nhiều về sự tướng, ít chỉ dạy quán
tưởng, chú trọng bọn phàm phu hạ căn, khiến
cho họ được gieo duyên trọn khắp). Đây
là nói về chuyện giảng kinh, thuyết pháp thông thường.
Nhằm khế cơ, căn cơ của chúng sanh hèn kém, tầm
nh́n ngắn ngủi, tham cầu lợi ích trước mắt,
vẫn chẳng mong văng sanh Tịnh Độ, vậy th́ tạo
pháp duyên cho họ là được rồi, chẳng cần
phải nói sâu. Đó là “đa
đàm sự tướng, thiểu thị Quán môn”. Giới
thiệu Phật pháp với người khác, xác thực là có
phương tiện thiện xảo. Trước hết,
phải làm cho chúng sanh sanh tâm hoan hỷ, bằng ḷng nghe, bằng
ḷng tiếp nhận, chẳng đến nỗi nghe một
lần, lần sau chẳng tới nữa. V́ thế, phải
dùng phương tiện thiện xảo để tiếp
dẫn họ. Đợi đến khi họ nhập môn, đă
có một chút căn cơ rồi, lại nói lời thật
với họ. Nếu trước tiên, vừa mở đầu,
quư vị bảo họ niệm Phật văng sanh chẳng dễ
dàng, lần sau họ cũng chẳng đến nữa,
[v́ họ nghĩ]: “Pháp môn này vô dụng, ta niệm suốt
đời chẳng thể thành tựu, ta c̣n đến
đây làm chi?” V́ thế, trước hết, phải bảo
họ [pháp môn này] rất dễ dàng, đến khi họ cảm
thấy dễ dàng, sau khi đă học được vài
năm, lại bảo họ: “Pháp môn này cũng chẳng dễ
dàng như quư vị tưởng tượng”. Nói lời thật
với quư vị!
Do
đó, chúng ta dạy người khác, quư vị thấy
đó: Dạy quư vị thọ tŕ kinh pháp, chấp tŕ danh hiệu,
trước tiên dạy quư vị niệm nhuần nhuyễn;
đó là công phu bước đầu. Đă thấu triệt
nhuần nhuyễn, lại dạy quư vị dùng
phương pháp khuất phục phiền năo, cũng tức
là dùng phương pháp này khiến cho vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, ưu lự của chúng
ta thảy đều bị khuất phục. Có thể khuất
phục [các phiền năo], sẽ quyết định văng
sanh, [sanh vào] cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Khi đạt
đến công phu ấy, lại bảo quư vị: “V́ sao quư
vị chẳng muốn tiến thêm một bước nữa?”
Tiến thêm một bước là Sự nhất tâm bất
loạn, đoạn sạch phiền năo, công phu càng thù thắng,
phải nói tới Quán môn. Do đó, tu học và tu hành có thứ
tự, tuy pháp môn này là đại pháp viên đốn, nó vẫn
có thứ tự. Đúng như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hành bố chẳng ngại viên
dung, viên dung chẳng ngại hành bố”, Hành Bố (行布) là [tu tập] theo
thứ tự.
“Phương kim gia vận, thịnh
diễn viên thừa, mộ học chi đồ, giai dục
đắc chỉ nhi tu chứng hỹ” (nay gặp vận
tốt lành, sôi nổi diễn giảng giáo pháp viên đốn,
những đồ đệ ham học đều muốn
nắm được ư chỉ để tu chứng), đoạn
này cho biết nhân duyên đă chín muồi. Nhân duyên chẳng
chín muồi, sẽ chẳng thể nói; hễ chín muồi
bèn có thể nói. “Gia vận”
(嘉運) là một hội
tốt đẹp, đây là một pháp hội thù thắng
nhất. “Viên thừa” (圓乘) là viên đốn
Nhất Thừa. Kinh này và kinh Vô Lượng Thọ đồng
loại, cổ đức tán thán kinh Vô Lượng Thọ
là “viên nhất trong các pháp viên,
đốn nhất trong các pháp đốn, là Đại Thừa
của các pháp Đại Thừa, là Viên Giáo của Viên Giáo”.
Tán thán tới tột bậc! Kinh này đă là đồng loại
với kinh ấy, đương nhiên cũng là pháp Nhất
Thừa viên đốn. Có thể hâm mộ, mong tu học
pháp môn này th́ chẳng phải là căn khí tầm thường!
Đúng như trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đă nói, căn khí ǵ vậy? Cơ duyên thành Phật
đă chín muồi, người này sẽ thành Phật trong một
đời này, lỗi lạc thay! Trong hết thảy các
căn khí, thành Phật là bậc nhất, c̣n cao hơn thành Bồ
Tát. Người này muốn thành Phật trong một đời
này, phải thành Phật th́ mới có thể cảm động
chư Phật, Bồ Tát v́ chúng ta nói pháp môn này; do đó gọi
là “gia vận”.
Trong
lời chú giải có mấy câu viết rất hay. Ngài viết
“viên đốn sơ tâm”, “viên đốn” là nói về căn
tánh, xác thực là người căn tánh viên măn đốn
siêu, đó là căn tánh Bồ Tát. “H ỷ văn viên
nghĩa” (thích nghe giáo nghĩa viên đốn), người
ấy nghe kinh, đọc kinh, thích đọc kinh điển
Viên Giáo Đại Thừa, người ấy mới có thể
thỏa măn. “Ngưỡng mộ
Diệu Tông”, vô cùng hâm mộ phương pháp tu học vi
diệu thù thắng này. Thời tiết, nhân duyên chín muồi,
tuyệt đối chẳng phải là ngẫu nhiên! Chúng ta
nh́n từ chỗ này, chư Phật, Bồ Tát thương
xót chúng sanh xác thực là chẳng có cách nào tưởng
tượng được, chẳng biết c̣n vượt
quá bao nhiêu lần t́nh cha mẹ yêu mến con cái. Lúc càng khổ
nạn, càng dễ thấy. Chẳng phải là trong lúc khổ
nạn th́ cơ duyên chẳng chín muồi, mọi người
vẫn tỉnh tỉnh mê mê, chẳng mong tiến cao hơn,
nên Phật, Bồ Tát chẳng đến. Trong lúc đại
kiếp nạn, khổ nạn xảy đến, người
ta liền cảm nhận cuộc đời và kiếp
người hết sức đau khổ, mong mỏi giải
thoát, mong mỏi rời khỏi hoàn cảnh này; khi ấy,
cơ duyên chín muồi, Phật, Bồ Tát liền đến.
Trong
toàn thể Phật pháp, Tịnh Tông là pháp môn thù thắng nhất.
Nói thật ra, không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện
trong cơi đời, mà hết thảy chư Phật đều
xuất hiện trong cơi đời. Nếu quư vị hỏi
các Ngài, các Ngài đến thế gian này để làm ǵ? [Các
Ngài sẽ đồng thanh trả lời]: Độ chúng sanh
thành Phật đạo. Các Ngài dùng phương pháp ǵ? Chẳng
có vị nào không dùng phương pháp Niệm Phật, đều
dùng phương pháp này; nên đây là pháp môn bậc nhất. V́
sao nói các pháp khác, nói kinh điển nhiều như vậy?
Đó là v́ thiện căn của chúng sanh chưa chín muồi,
chưa thể tiếp nhận pháp môn này, nên mới giảng
những pháp môn khác nhằm bồi dưỡng căn tánh của
họ, khuyên dụ họ trở về pháp môn Niệm Phật;
đó là Như Lai đă buốt ḷng rát miệng lập bày
phương cách. Nếu chư vị thâm nhập kinh tạng,
sẽ có thể nh́n ra. Người Hoa có duyên với Phật
pháp rất sâu, chư Phật, Bồ Tát hóa thân ở Trung Quốc
hết sức nhiều; trong những nơi khác trên thế
giới chưa hề nghe nói [có t́nh h́nh giống như vậy].
Chẳng phải là Phật, Bồ Tát có ḷng thiên vị, Phật,
Bồ Tát chẳng hề thiên vị, mà là chúng sanh ở
nơi ấy duyên đă chín muồi, các Ngài bèn thị hiện.
Nhân duyên chưa chín muồi, hăy thong thả chờ đợi.
Trong thời
đại này, so trong lịch sử Trung Quốc, thậm
chí trong lịch sử cả thế giới, là thời kỳ
thống khổ nhất, trong quá khứ chẳng hề gặp
đại kiếp nạn như trong hiện tại, nên Phật,
Bồ Tát cũng xuất hiện trong thời cận đại
rất nhiều. Chúng ta biết tổ sư Ấn Quang là Tây
Phương thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát
tái lai, chúng ta biết điều này. Tổ Ấn Quang tán
thán sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư,
Ngài nói: “Dẫu cổ Phật
tái lai viết bản chú giải kinh Di Đà khác, cũng chẳng
thể hay hơn được”. Ngẫu Ích đại
sư là hạng người nào mà được Đại
Thế Chí Bồ Tát tán thán dường ấy? Nếu Ngài
chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, tôi tin tưởng
Ngài quyết định là Quán Âm Bồ Tát tái lai. Từ lời
tán thán ấy, chúng ta có thể suy đoán đôi chút tin tức.
Thời cận đại là lúc gặp kiếp nạn lớn
nhất, Tịnh Tông chẳng dễ được kẻ
khác tiếp nhận nhất! Không chỉ là người Hoa
trong thời hiện đại chẳng chịu tiếp nhận,
mà người ngoại quốc lại càng khỏi cần
nói nữa. Do đó, cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện.
Hạ lăo cư sĩ là vị nào tái lai? Không ai biết! Quan
sát từ nhiều dấu tích và phương diện, chúng tôi
đoán vị này chẳng phải là Phật tái lai, cũng
là bậc Bồ Tát từ Đẳng Giác trở lên, tuyệt
đối chẳng phải là phàm nhân. Ngài xuất hiện
trong thế gian này để làm ǵ? Chỉnh lư kinh Vô Lượng
Thọ một lần nữa, ḥng khiến cho trọn khắp
chúng sanh trên thế giới đều hoan hỷ tiếp nhận,
Ngài đến làm chuyện này. Cũng là v́ kinh này được
lưu thông tại Trung Quốc, bao nhiêu lần phiên dịch
đều chẳng viên măn cho lắm, chẳng có một bản
nào viên măn! Đấy là Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng
phải là người tầm thường!
Tôi đă hai lần
nói với Hoàng lăo cư sĩ, mong cụ viết truyện
kư của thầy Hạ để chúng tôi lưu thông. Lần
này, lăo nhân gia bảo tôi: “Chưa được! Chưa
đến lúc. V́ sao? Sợ là viết ra sẽ bị kẻ
khác hủy báng”. Tôi ở Đại Lục quan sát đôi
chút, quả đúng là thời tiết nhân duyên chưa chín muồi;
nhưng bản kinh do thầy Hạ hội tập thịnh
hành ở Đài Loan như vậy, cũng là chuyện tôi
không ngờ đến. Chúng tôi đề xướng kinh này
mới ba, bốn năm, nghiễm nhiên hiện thời tại
Đài Loan, từ Nam đến Bắc, người đọc
tụng bộ kinh này đông ngần ấy, người diễn
giảng cũng nhiều, người ấn hành cũng lắm,
đúng là hy hữu khó gặp! Đó là thời tiết nhân
duyên chín muồi, rất khó thấy. V́ thế, Đài Loan là
đảo báu, là phước địa, được chư
Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên gia tŕ, nơi này
sẽ chẳng có tai nạn. Tục ngữ có nói “hữu kinh vô hiểm” tức
là chẳng có đại kiếp nạn!
Kế
đó là “thuật sao sở
dĩ” (nguyên do viết lời Sao), nêu rơ ư nghĩa Ngài viết
chú giải lần này. “Cố
kiệt bỉ tư, sao sổ thiên ngôn” (do đó, dốc
cạn tâm tư thô lậu, viết lời Sao gồm mấy
ngàn chữ), hai câu này là tôn giả Tứ Minh khiêm hư. Nói
thật ra, tôn giả là bậc thông gia trong Phật môn, thông
Tông, thông Giáo, v́ chúng ta giảng kinh này, há c̣n tốn tâm
tư ǵ? Chẳng tốn sức! Ở đây, Ngài nói “cố kiệt bỉ tư, sao sổ
thiên ngôn” là nói khách sáo. “Thượng
thuận diệu tông, lược tiêu thử sớ” (kính
vâng theo tông chỉ mầu nhiệm, giải thích đại
lược ư nghĩa trong bản sớ giải này), tùy thuận
tông chỉ tu học vi diệu để giải thích bộ
Sớ của Trí Giả đại sư. “Thích thời chi xảo, phi ngă sở năng” ([đó
là do] thời cơ khéo phù hợp, chẳng phải là sức
tôi [có thể tạo thành như vậy]), càng khiêm hư
hơn nữa! Có nghĩa là Ngài nói, thời tiết, nhân
duyên phù hợp khéo léo, Tam Bảo gia tŕ, [nên bản Sớ
Sao này được ra đời], chứ chẳng phải
là năng lực của chính tôi. Lời này là nói khiêm tốn,
nhưng thật ra cũng là lời thật. Nay chúng ta có thể
nói, có thể nghe, hoan hỷ tin nhận, đều do thiện
căn từ quá khứ hiện hành, nay được Tam Bảo
gia tŕ, đúng là như vậy!
Kế
đó là dụng ư thật sự của Ngài: “Nguyện cộng hữu t́nh, tức
tâm niệm Phật, năi thử Sao sở dĩ tác dă” (nguyện
cùng các hữu t́nh dùng ngay cái tâm niệm Phật, đấy
chính là lư do viết lời Sao này). Dụng ư soạn bộ
Sớ Sao này để lại cho thời ấy và mai sau của
Ngài đă được nêu ra trong hai câu này. Bản thân Ngài
đạt được lợi ích chân thật nơi bộ kinh này, sau khi đă đạt được,
bèn hy vọng mọi người chúng ta ai nấy đều
có thể đạt được. Nguyện cùng các hữu
t́nh, ta cùng hết thảy hữu t́nh chúng sanh, dùng ngay cái tâm
này để niệm Phật. Hăy chú ư! Chẳng phải là miệng
niệm, chẳng phải là bảo quư vị niệm
Phật đằng miệng, mà là niệm Phật bằng
chính cái tâm. Miệng niệm Phật, trong tâm chẳng có Phật,
vô dụng! Trong tâm có Phật, miệng chẳng niệm, vẫn
hữu dụng, vẫn là hữu ích. V́ thế, khẩn yếu
là nơi tâm, tâm mới là Diệu Tông, tu từ tâm là tu
nơi căn bản.
Đồng tu niệm
Phật rất nhiều, nhưng người biết chân
tướng sự thật chẳng nhiều! Nếu quư vị
thật sự biết chân tướng sự thật này, sẽ
rất hoan hỷ niệm Phật, sẽ niệm Phật
chẳng gián đoạn. V́ sao? Quả thật là “một niệm tương ứng
một niệm Phật”. Trong khi quư vị niệm Phật,
tâm là Phật, miệng là Phật, hạnh là Phật, ba nghiệp
đă khế nhập cảnh giới nơi quả địa
Như Lai, người ấy có thể chẳng niệm ư?
Do đó, “niệm niệm tương
ứng niệm niệm Phật”, chẳng niệm ǵ
khác, những thứ khác, người ấy đều chẳng
cần niệm. V́ sao? Niệm Phật, tất cả vô
lượng vô biên pháp môn khác thảy đều thành tựu.
Kinh Hoa Nghiêm nói “một tức là
nhiều, nhiều chính là một”, “nhiều” là vô lượng
vô biên pháp môn, “một” là A Di Đà Phật, vô lượng
vô biên pháp môn đều quy vào A Di Đà Phật, nên vô lượng
chính là một. Niệm một câu A Di Đà Phật, hết
thảy các pháp môn đều tu học viên măn; niệm đến
mức nhất tâm bất loạn, tất cả hết thảy
các pháp môn đều viên tu, viên chứng, [do đó], một
chính là vô lượng.
Cổ
đức đă so sánh các giáo pháp trong một đời
đức Thế Tôn. Các Ngài nói hết thảy các kinh, nay
chúng ta gọi “hết thảy các kinh” là Đại Tạng
Kinh, tức là đem toàn bộ kinh điển do Thích Ca Mâu
Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm so sánh
một phen, Hoa Nghiêm là bậc nhất. Cao tăng đại
đức trong ngoài nước đều thừa nhận
điều này. So sánh kinh Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất. V́ sao? Nếu kinh
Hoa Nghiêm chẳng đến cuối cùng “mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc”, Hoa Nghiêm chẳng viên măn, quy về
Cực Lạc mới viên măn. Kinh Vô Lượng Thọ từ
đầu đến cuối từng câu, từng chữ
đều giảng về thế giới Cực Lạc,
là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm, đương nhiên kinh
Vô Lượng Thọ là bậc nhất. Bản hội tập
của ngài Hạ Liên Cư đă chia kinh thành bốn
mươi tám chương. Trong bốn mươi tám
chương ấy, chương nào bậc nhất?
Chương thứ sáu là bậc nhất. Chương thứ
sáu là bốn mươi tám nguyện, do chính A Di Đà Phật
tự nói. Kinh Vô Lượng Thọ do hai vị Phật
thuyết pháp, phần kinh văn ấy do chính A Di Đà Phật
tự nói. Bốn mươi tám nguyện là bậc nhất.
Bốn mươi tám nguyện c̣n có bốn mươi tám
điều, điều nào là bậc nhất? Các vị tổ
sư đại đức cũng công nhận như sau:
Nguyện thứ mười tám là bậc nhất. Nguyện
thứ mười tám là ǵ? “Mười
niệm ắt văng sanh”, tức là quy vào một câu Phật
hiệu. V́ lẽ đó, đến cuối cùng quư vị mới
hiểu: Nguyên lai A Di Đà Phật là bậc nhất.
Nếu
quư vị hỏi: A Di Đà Phật nghĩa là ǵ? Một bộ
kinh Vô Lượng Thọ nhằm giải thích ư nghĩa A
Di Đà Phật. Một bộ Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh là chú giải của kinh Vô Lượng
Thọ, mà cũng là thuyết minh cặn kẽ về A Di
Đà Phật. Nếu nói chi tiết hơn một chút, sẽ
là Đại Tạng Kinh; toàn bộ Đại Tạng Kinh
nhằm giảng điều ǵ? Giảng về A Di Đà Phật,
quư vị phải hiểu cho rơ! Nếu chưa hiểu rơ
điều này, đúng là sẽ coi rẻ A Di Đà Phật.
V́ thế, cổ đức so sánh từng tầng một,
dần dần so sánh đến cuối cùng, mới phát hiện
chót núi tột cùng vốn là A Di Đà Phật, thống nhiếp
vô lượng vô biên pháp môn. V́ vậy, năng niệm và sở
niệm đều chẳng thể nghĩ bàn!
Trong
lời Sao của ngài Tứ Minh, câu cuối cùng trong trang hai
mươi mốt là: “Phàm hữu
tâm giả, giai đương tác Phật, tức tâm tức
Phật, niệm Phật niệm tâm, tâm Phật bổn tự
bất nhị, năi sở dĩ tác thử sao dă” (Phàm những
ai có tâm sẽ đều làm Phật. Tâm chính là Phật, Phật
chính là tâm, niệm Phật là niệm tâm. Tâm và Phật vốn
tự chẳng hai. Đấy chính là lư do soạn bộ Sao
này vậy). Mấy câu này của tôn giả Tứ Minh có thể
nói là giải thích vô cùng thấu triệt. Trí Giả đại
sư soạn Sớ, nhằm mục đích dạy chúng ta “tức tâm niệm Phật” (dùng
ngay chính cái tâm này để niệm Phật), tâm là Phật,
Phật là tâm. Hăy ghi nhớ: Cái tâm ấy là chân tâm, là cái tâm
chẳng có vọng niệm. Tông chỉ tu hành của Thiền
gia chẳng khác những điều đang được
nói ở đây. Trong Ngữ Lục, ḥa thượng Đại
Châu vừa mở đầu liền nói “người khéo tu th́ tu từ căn bản”.
Căn bản là ǵ? Tâm là căn bản, cho nên phải dốc
sức từ tâm địa; đó gọi là “tu từ căn bản”;
nhưng phải dùng chân tâm, chớ nên dùng vọng tâm, đấy
mới là tu hành thật sự. V́ vậy, phương pháp
tu hành trong Thiền Tông là tham cứu, chẳng gọi là nghiên
cứu. Hiện thời chúng ta thường nói: “Quư vị
hăy nghiên cứu kỹ càng chuyện ǵ đó”, Thiền gia bảo
quư vị hăy tham cứu, chẳng bảo hăy nghiên cứu! V́
sao? Nghiên cứu dùng suy nghĩ, xét đoán, mà suy nghĩ, xét
đoán là thức thứ sáu, tức ư thức. Tham cứu chẳng
cần suy nghĩ, xét đoán, không dùng tâm ư thức. Thức
thứ sáu tức ư thức là phân biệt, thức thứ bảy
tức Mạt Na là chấp trước, thức thứ tám
tức A Lại Da là lưu lại ấn tượng. Chẳng
cần tới ba thứ ấy! Nói cách khác, chẳng phân biệt,
không chấp trước, không lưu lại ấn tượng,
mới gọi là tham cứu; tham cứu dùng chân tâm. Người
thế gian dùng cái tâm phân biệt, dùng cái tâm chấp trước,
ắt giữ lại ấn tượng, họ sử dụng
tâm ư thức, [tức là] dùng vọng tâm, chẳng phải là
chân tâm.
Đại
Thừa Phật pháp đều dùng chân tâm. Tông Môn dùng chân
tâm, Giáo Hạ cũng chẳng phải là ngoại lệ.
Đối với Giáo Hạ, quư vị thấy trong Đại
Thừa Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă dạy
chúng ta nguyên tắc tu học. Ngài dạy chúng ta, bất luận
là đọc kinh hay nghe giảng, “ly ngôn thuyết tướng”, chẳng phân biệt,
chẳng dùng thức thứ sáu, tức ư thức; “ly danh tự tướng” tức
là chẳng chấp trước, chẳng dùng thức thứ
bảy; “ly tâm duyên tướng”, tức là đừng khởi
vọng niệm, đừng suy nghĩ loạn xạ, cũng
chẳng cần suy tưởng ư nghĩa trong kinh, quyết
định chớ nên nghiên cứu, đừng dùng thức
thứ tám. V́ thế, Giáo Hạ cũng là ĺa tâm ư thức
th́ mới có thể đại khai viên giải. Trong Tịnh
Độ Tông, nếu quư vị chẳng ĺa tâm ư thức, cứ
dùng tâm ư thức hoặc vọng tâm để niệm, vẫn
được! C̣n có thể văng sanh. Chuyện này lạ
lùng, đúng là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng giống
các pháp môn khác. Cơi Phàm Thánh Đồng Cư và cơi
Phương Tiện Hữu Dư đều là dùng tám thức
để niệm Phật văng sanh, c̣n cơi Thật Báo Trang
Nghiêm và cơi Thường Tịch Quang là ĺa tâm ư thức để
niệm Phật văng sanh, nên khác nhau! V́ thế, Tịnh Tông c̣n
có cái hay: “Chẳng biết dùng chân tâm, vẫn có thể văng
sanh”; đó là lư do khiến cho chư Phật, Bồ Tát
đặc biệt tán thán. Chính v́ như thế, pháp môn này
có thể phổ độ hết thảy chúng sanh, chúng
sanh căn tánh thượng, trung, hạ đều đắc
độ. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới,
thấy A Di Đà Phật, lại ĺa tâm ư thức, như vậy
th́ sẽ thuận tiện hơn, an toàn hơn, v́ sao? Chẳng
phải luân hồi trong lục đạo nữa, pháp môn
này đặc biệt thuận tiện!
Phần
lời tựa tới đây là kết thúc, đă giới
thiệu viên măn. Kế tiếp là “nhập văn” (入文), tức là [bước vào phần]
chánh văn của Diệu Tông Sao. Chánh văn được
mở đầu bằng năm tầng huyền nghĩa của
tông Thiên
Trong các bộ
đại luận của kinh Phật, Du Già Sư Địa
Luận thuộc loại Tông Kinh Luận, chẳng phải
là giải thích kinh văn từng câu một. Đại Trí
Độ Luận là Thích Kinh Luận, giải thích kinh
văn từng câu một. Tông Thiên Thai kết hợp hai loại
ấy thành một, Tông Kinh Luận và Thích Kinh Luận đều
có. Phần Huyền Nghĩa thuộc loại Tông Kinh Luận.
“Thích kinh ngũ nghĩa, Danh, Thể,
Tông, Dụng, Giáo Tướng, vân vân” (Giải thích
năm nghĩa trong kinh là Danh, Thể, Tông, Dụng và Giáo
Tướng v.v…). Nay chúng ta nói “vân
vân” là v.v… Ngài dùng năm hạng mục ấy, tức là
dùng năm khoa để giới thiệu đại ư của
cả bộ kinh. Chúng ta đem đọc lời Sao dưới
đó một lượt. “Sao
vân” (Sao rằng), Sao là lời giải thích của tôn giả
Tứ Minh, Trí Giả đại sư giải thích rất đơn
giản. “Ngôn vân vân giả, linh
y chư bộ, minh ư thông thích ngũ chương chi
nghĩa” (nói “vân vân” là dựa theo [thể lệ được
sử dụng] trong các bộ [sách của ngài Thiên Thai Trí Giả],
nói rơ sẽ giải thích ư nghĩa theo thể lệ thông
thường gồm năm chương): Theo thể loại
Ngũ Chương, tức là chia [phần Huyền Nghĩa]
thành năm chương để giới thiệu đại
ư của toàn thể bản kinh. “Diệu
Huyền vân” (sách Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa có nói); Diệu
là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Huyền là Huyền Nghĩa, [tác
phẩm] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa [của tổ
Trí Giả] giải thích kinh Pháp Hoa, [trong phần giảng giải
Huyền Nghĩa, đă chia thành năm phần] là Kinh Đề,
Biện Thể, Minh Tông, Luận Dụng và Giáo Tướng.
Trí Giả đại sư giảng [phần Huyền
Nghĩa phải mất] chín mươi ngày, đó là “cửu tuần đàm diệu” nổi
tiếng của tông Thiên Thai. Điển cố ấy phát
xuất từ chuyện này. Xét về kích thước, trong
Đồ Thư Quán của chúng ta có [tác phẩm ấy], bản
in b́a cứng dầy như vậy, đại khái [bộ sách
ấy] gồm có ba quyển giống như bộ Diệu
Tông Sao quư vị đồng tu đang cầm trên tay. Ba quyển
ấy nói ǵ vậy? Năm tầng Huyền Nghĩa của
kinh Pháp Hoa, vẫn chưa giảng vào kinh văn. [Những điều
do] Trí Giả đại sư giảng giải trong chín
mươi ngày, được ghi lại thành ba quyển dầy
dường ấy. Đó là sách Diệu Huyền, là một
bộ lớn trong Thiên Thai Tam Đại Bộ.
Bộ
phận lớn thứ hai [trong Thiên Thai Tam Đại Bộ]
là giảng kinh văn, kinh văn [được giảng
giải] trong bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú. V́ thế, trong hai bộ
phận lớn trên đây, bộ phận lớn phía trước,
tức Diệu Huyền là Tông Kinh Luận của kinh Pháp
Hoa, Văn Cú là Thích Kinh Luận của kinh Pháp Hoa; bộ c̣n
lại là phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai, tức Ma
Ha Chỉ Quán. Trước đây, người học Thiên
Thai nhất định phải đọc thuộc ḷng ba bộ
sách lớn ấy. Chẳng thể đọc thuộc ḷng,
chẳng thể vào giảng đường của tông Thiên
Thai! Nghe kinh trong giảng đường Thiên Thai, ba bộ
sách lớn ấy đều rất thuộc th́ mới có tư
cách bước vào giảng đường nghe giảng. V́
thế, tŕnh độ học Phật xưa kia cao hơn
chúng ta trong hiện thời rất nhiều. Hiện thời,
mỗi người chúng ta đều cầm kinh bổn,
chiếu theo kinh bổn để giảng. Trước kia,
người ta chẳng có kinh bổn như vậy, kinh sách
chẳng có nhiều như vậy, thuật ấn loát
chưa phát triển. Nhất là như trong thời đại
Đường - Tống, chưa phát minh ra kỹ thuật
ấn loát, sách đều là chép tay, há có nhiều như vậy?
Tất cả mọi người đều học thuộc
ḷng, người giảng kinh rất thuộc, chẳng cần
dùng kinh bổn, người nghe kinh cũng học rất
thuộc, cũng chẳng dùng kinh bổn, [ai nấy] đều
chẳng cần dùng kinh bổn. Hiện thời, kỹ thuật
ấn loát phát triển, ấn hành rất thuận tiện,
mỗi cá nhân đều có thể có kinh
bổn, cầm kinh bổn để nghe giảng. Nói thật
ra, xét theo mức công phu chân chánh, chẳng bằng cổ
nhân! Cổ nhân đều là đọc thuộc ḷng, đều
nhớ nằm ḷng. Được rồi, chúng ta nghỉ mấy
phút.
Tập 4
Xin mở kinh bổn,
xem trang hai mươi hai.
Trong
phần Sao, chúng ta thấy “thất
phiên cộng giải” (七番共解) của tông
Thiên
Chúng
ta xem phần kế tiếp là phần giải thích tầng
thứ nhất trong năm tầng Huyền Nghĩa. “Đệ nhất Thích Danh giả”
(thứ nhất là giải thích tên kinh). Tông Thiên Thai vừa
mở đầu liền giảng tựa đề kinh. “Nhất thiết chúng kinh, giai hữu
thông biệt nhị danh, Thông tắc Kinh chi nhất tự, Biệt
tắc hữu thất, hoặc đơn nhân, pháp, thí, hoặc
phức, hoặc cụ” (Hết thảy các kinh đều
có Thông Đề và Biệt Đề. Thông là một chữ
Kinh, Biệt th́ có bảy loại [đặt tên] hoặc là
đơn nhân, đơn pháp, đơn thí dụ, hoặc
phức (ghép hai loại một), hoặc có đủ cả
ba loại nhân, pháp, thí). Đây là quy nạp các đề mục
lại. Hết thảy các kinh không ngoài việc lấy nhân
(người) để đặt tên kinh, hoặc dùng pháp
để đặt tên kinh, hoặc dùng tỷ dụ để
đặt tên kinh, đó gọi là “tam đơn” (ba cách đặt tên chỉ dùng một
loại). “Tam phức” là
trong tựa đề một kinh có hai loại, hoặc là
nhân pháp, hoặc là nhân dụ, hoặc là pháp dụ. Loại
thứ bảy được gọi là “cụ túc lập đề”, tức là nhân, pháp, dụ
thảy đều có. Đề mục kinh Phật rất
nhiều, nhưng chẳng ra ngoài bảy nguyên tắc ấy,
nên gọi là “thất lệ lập
đề” (bảy quy tắc đặt tên kinh), điều
này cũng thuộc loại kiến thức thông thường
trong Phật học.
Đối
với kinh này, phần kế tiếp, nơi trang hai
mươi bốn, đă giới thiệu: “Kim kinh tùng năng thuyết, sở thuyết nhân dĩ
lập danh, tức giáo biệt” (Nay kinh này dựa trên
người nói và người được nói để
đặt tên, đó chính là tên riêng của giáo pháp này). Trong
bộ kinh này, “Phật Thuyết”
là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói, đó là người
“năng thuyết”. “Vô Lượng
Thọ Phật” là giáo chủ của Tây Phương Cực
Lạc thế giới, cũng là tên người, [đó là
sở thuyết (người được nói đến)].
V́ vậy, trong đề mục này, dùng người nói và
người được nói, [tức là] dùng Nhân để
đặt tên kinh, thuộc quy cách “chỉ dùng Nhân để
đặt tên”, đúng như Tiểu Bổn A Di Đà Kinh
vậy. “Phật Thuyết” là
Thích Ca Mâu Ni Phật, “A Di Đà”
là Vô Lượng Thọ Phật. Trong tựa đề
kinh này, chẳng có pháp, mà cũng chẳng có tỷ dụ,
chỉ dùng Nhân để đặt tên. Đó là “giáo biệt”, tức Biệt
Đề, danh xưng chẳng giống các kinh khác. “Đồng danh vi Kinh, tức
giáo thông” (Cùng gọi là Kinh, đó là chỗ giống nhau
giữa các giáo). Như kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa
đều gọi là Kinh, danh xưng Kinh ấy được
gọi là Thông Đề, điều này được gọi
là “giáo thông”. “Vị hạnh bất đồng, tùng nhất chí vô
lượng, tức Hạnh Biệt. Hội đồng
thường lạc, tức Hạnh Thông. Lư tuy vô danh,
tương môn danh lư, lư tùy ư môn, tứ tứ thập lục,
tức danh Lư Biệt. Môn tùy ư Lư, tức danh Lư Thông. Thử
ước nhất hóa, dĩ minh Thông, Biệt” (Do hạnh
khác nhau, từ một đến vô lượng, nên Hạnh
Biệt (hạnh khác nhau). [Tuy khác nhau, nhưng đều]
cùng có thể [khiến cho người tu tập] hưởng
sự thường lạc, nên là Hạnh Thông (chỗ giống
nhau giữa các hạnh). Tuy lư chẳng có tên, nhưng dùng Môn
(pháp môn) để đặt tên cho Lư. Lư tùy thuộc từng
môn, bốn lần bốn thành mười sáu, nên gọi là
Lư Biệt. Do môn tùy thuộc Lư, nên gọi là Lư Thông. Đây
là dựa theo giáo pháp trong một đời của đức
Phật để giảng rơ ư nghĩa Thông và Biệt).
Đối với những ư nghĩa này, nếu chưa từng
biết về giáo nghĩa Thiên Thai, đều chẳng dễ
hiểu cho lắm, v́ trong ấy có khá nhiều thuật ngữ
của Thiên Thai Tông, kẻ sơ học rất khó hiểu
chúng có nghĩa là ǵ!
Ở
đây, phải nói rơ cùng quư vị về “tứ tứ thập lục”. Tông Thiên Thai chia Lư
và Sự thành bốn môn, bốn môn là Không, Có, Cũng Không Cũng
Có, Chẳng Có Chẳng Không, chia thành bốn môn ấy. Trong
bốn giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên th́ Tạng Giáo có bốn
môn, Thông Giáo cũng có bốn môn, Biệt Giáo và Viên Giáo
cũng lại như thế, nên bốn giáo nhân với bốn
môn thành mười sáu. Lư được nói ra sẽ là bất
đồng, [người nghe cảm thấy] Lư bất
đồng là [do tùy theo căn cơ của người nghe
mà Phật, Bồ Tát, tổ sư nói ra Lư ấy] cạn hay
sâu sai khác, chẳng phải là Lư có những điểm sai
biệt nào khác, chỉ là được nói ra cạn hay sâu
khác nhau! Hết thảy các pháp do đức Phật đă
nói trong bốn mươi chín năm đều chẳng ĺa
nguyên lư này, nên đức Phật đă dựa trên Chân Đế
và Tục Đế để thuyết pháp. Nói đơn
giản, Tục Đế (俗諦) là thuận theo
kiến thức thông thường của chúng ta. Tùy thuận
kiến thức thông thường của chúng ta, chúng ta nghe
xong sẽ lư giải rất dễ dàng. Chân Đế (真諦) là cảnh giới của Như Lai, Ngài nói ra, chúng
ta thường chẳng dễ ǵ hiểu được,
chẳng dễ lănh hội! Ắt phải là tâm địa
thanh tịnh đến một mức độ kha khá,
chúng ta chẳng có chướng ngại th́ đức Phật
nói, chúng ta bèn có thể thông hiểu và lư giải được.
V́
lẽ đó, đối với Phật pháp, chư vị hăy
nhớ một nguyên tắc: Phật pháp lưu lộ từ
Chân Như bản tánh. Cái tâm mà lũ phàm phu chúng ta sử dụng
hằng ngày là tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở.
Những ǵ chúng ta có thể tưởng tượng và lư giải
đều thuộc phạm vi của tám thức, chẳng
có cách nào thấu hiểu tâm tánh. Do vậy, đối với
những đạo lư do đức Phật giảng, chúng
ta nghe không hiểu. Thật sự học Phật th́ tu từ
đâu? Dốc sức nơi Định, chẳng dốc sức
nơi Giáo, trước hết là tu Định. V́ thế,
vào thời cổ, bất luận là xuất gia hay tại gia,
hễ học Phật bèn là năm năm học giới. “Năm năm học giới” chẳng
phải học Luật Tạng trong Kinh, Luật, Luận,
chẳng phải là học giới luật, mà là tuân thủ
lời thầy răn dạy. Thầy dạy quư vị những
ǵ? Dạy quư vị buông tất cả hết thảy phân
biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống.
Dùng phương pháp nào? Không nhất định! Thiền
Tông dạy quư vị tham Thiền, dạy quư vị tĩnh
tọa. Khi tĩnh tọa, chẳng cần nghĩ thiện,
mà cũng chẳng nghĩ ác. Không nghĩ thiện, chẳng
nghĩ ác, khiến cho tâm định. Nếu quư vị có thắc
mắc đến hỏi thầy, vừa mới nêu lên câu hỏi,
thầy đă quơ hương bản đập liền,
v́ sao? “Dạy ngươi đừng khởi vọng niệm,
sao ngươi lại khởi vọng niệm?” Thầy thấy
quư vị thường chẳng hỏi, khi chẳng có vọng
niệm, hương bản lại giáng xuống, v́ sao? Vô
minh! “Ngươi chẳng phải là vọng tưởng, bèn
là vô minh”. Vọng tưởng th́ phải đánh, mà vô minh
cũng phải đánh. Do đó, cách giáo học của Thiền
Tông có lúc thấy [dường như] hết sức phi lư!
Vô duyên vô cớ đánh đập người ta! [Thật
ra] họ muốn xóa sạch vọng tưởng cũng
như vô minh của quư vị.
Giáo Hạ quá nửa
là dùng đọc tụng, giống như Tiểu Học
thuở trước ở Trung Hoa, bảo quư vị học
thuộc sách, chẳng cần giảng giải, cứ học
thuộc sách. Mỗi ngày phải đọc thuộc sách bao
nhiêu lần, giống như tông Thiên Thai học thuộc
kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa phân lượng khá nhiều; mỗi ngày
niệm một lần, năm năm niệm hơn một
ngàn lần. Chẳng cần cầu giải hiểu
nghĩa của kinh, niệm sao cho tâm định. Sau khi
đă định, lại nghe kinh bèn khai ngộ. Quư vị thấy
Đàn Kinh có chép chuyện thiền sư Pháp Đạt. Sư
Pháp Đạt niệm kinh Pháp Hoa, lúc gặp Lục Tổ,
lễ bái chẳng khấu đầu sát đất, Lục
Tổ trông thấy: Lễ bái mà đầu chẳng chạm
đất, ngạo mạn! Do đó, Lục Tổ hỏi
Sư: “Ông có chuyện ǵ đáng để ngạo mạn ư?”
Nay ta nói là “đáng kiêu ngạo”, ngươi có ǵ đáng
để kiêu ngạo? Sư rất thật thà thưa: “Con
đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa”, đáng kiêu ngạo lắm
chứ! Niệm ba ngàn bộ Pháp Hoa mà! Kết quả bị
Lục Tổ hỏi một câu, [Sư cứng họng].
Kinh Pháp Hoa niệm khá như vậy, niệm nhiều
như vậy, nhưng chẳng hiểu, chẳng lănh hội
ư nghĩa! Sư giác ngộ, cung kính hướng về Lục
Tổ đại sư thỉnh giáo. Lục Tổ giảng
một chút, Sư bèn thông đạt, khai ngộ.
Nay
chúng ta cũng đọc đoạn khai thị của Tổ
dành cho sư Pháp Đạt, v́ sao chúng ta chẳng khai ngộ?
Sư nghe giảng mấy câu bèn khai ngộ, chúng ta đọc
những lời ấy một trăm lần, một ngàn lần,
vẫn chẳng khai ngộ. Vấn đề ở chỗ
nào? Tâm người ta thanh tịnh đă nhiều năm ngần
ấy, đó là công phu, tâm chúng ta loạn cào cào! Bởi lẽ,
tâm tán loạn chẳng thể nào khai ngộ, tâm tán loạn
chẳng thể hiểu những ư nghĩa do đức Phật
đă nói. Bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện
giải Như Lai chân thật nghĩa”. Ắt phải là
tâm địa thanh tịnh, thanh tịnh đến một
mức độ nhất định th́ mới có thể
hiểu ư Phật trong kinh điển. Do đó, người
thật sự học Phật, thiện tri thức thật
sự, luôn dạy quư vị giảm thiểu phiền năo,
phiền năo ngày càng giảm ít, thực hiện từ chỗ
này!
Hiện
thời, học Phật rất khó khăn, rất khó gặp
thiện tri thức. Như tôi theo thầy Lư, thầy Lư
đặt ra ba điều kiện theo biện pháp của
cổ nhân, nhưng biện pháp của thầy khoan dung
hơn cổ nhân rất nhiều:
1) Tôi tôn cụ
làm thầy, điều kiện thứ nhất là từ nay
về sau, chỉ có thể nghe một ḿnh cụ giảng
kinh. Bất cứ pháp sư, đại đức, cư
sĩ nào giảng kinh, đều nhất loạt chẳng
cho phép nghe. Đấy là chặn lấp, cắt đứt
vọng tưởng muốn nghe kinh, chớ nên nghe!
2) Điều thứ
hai là xem sách, chúng tôi có chút chữ nghĩa, ưa đọc
sách. Bất luận xem sách nào, kinh Phật cũng thế,
mà chẳng phải là kinh Phật cũng thế, phải
được cụ đồng ư. Sách nào cụ chẳng
đồng ư, nhất loạt chẳng được phép
đọc. Cũng là ngăn lấp chuyện xem sách, chẳng
cho phép quư vị xem.
3) Điều kiện
thứ ba là “những ǵ anh đă học trước kia, tôi
chẳng thừa nhận, nhất loạt coi như những
thứ bỏ đi. Từ nay trở đi, bắt đầu
học [những điều tôi dạy]”.
Chúng tôi nghe thầy
Lư giảng có những điều chẳng giống như
người khác đă giảng trước kia. Có khi tôi muốn
đến hỏi thầy: “Trước kia, con nghe nói là
như vậy”. [Thầy bảo]: “Trước kia chẳng
tính, coi như lời bậy bạ, ngay cả một câu
cũng chẳng được nhắc tới!” Kể ra
cũng khá lắm, thầy có lập kỳ hạn, năm
năm [tuân thủ ba điều kiện ấy]. Trong
năm năm ấy, nói thực tại là mong cho tâm quư vị an tĩnh. Phương pháp ấy
nói thật ra là phương pháp “tẩy năo” của đảng
Cộng Sản: Trước hết, quét sạch sành
sanh những thứ loạn cào cào trong đầu óc quư vị,
sau đó [đầu óc quư vị rỗng rang] mới tiếp
nhận Phật pháp. Đó gọi là “năm năm học giới”, quư vị mới có
thọ dụng đôi chút. Tâm chẳng thanh tịnh, gặp
vị thầy giỏi, dẫu Phật, Bồ Tát đích
thân thuyết pháp cho quư vị, cũng đều uổng
công, [quư vị] chẳng phải là pháp khí, chẳng có
năng lực tiếp nhận! Năng lực là ǵ? Tâm thanh
tịnh là năng lực.
Chúng
tôi giới thiệu đơn giản đoạn này đến
đây, lại xem đoạn kế tiếp, xem hàng thứ
nhất nơi trang hai mươi sáu. Phía trước là nói theo
phương diện “nhất
hóa” (一化), tức là nói theo cái
được gọi “nhất
đại thời giáo” (giáo pháp suốt một đời
đức Phật) trong sự giáo hóa chúng sanh của Thích
Ca Mâu Ni Phật, c̣n ở đây là nói theo bộ kinh này. “Cánh ước nhất đề”
(lại dựa theo tựa đề của một bản
kinh), [tức là] nói theo tựa đề kinh này. “Phật Thuyết” là Giáo, “Quán” là hạnh, tức là
phương pháp tu hành, “Vô
Lượng Thọ Phật tức thị Lư, Giáo, Hạnh,
Lư túc” (Vô Lượng Thọ Phật chính là Lư. Giáo, Hạnh
và Lư đều đầy đủ), “túc” (足) là đầy
đủ. “Nhậm vận hữu
thông biệt ư” (tự nhiên có ư nghĩa Thông và Biệt), “nhậm vận” (任運) là tự nhiên nó vừa có Thông Ư, mà cũng có Biệt
Ư. Trong một Thể, chúng ta thấy có Giáo, có Hạnh, có
Lư; Lư là lư luận để làm căn cứ. “Cánh tựu nhất tự Thuyết
giả, Thích Luận vân, sở hành như sở thuyết.
Thuyết tức thị Giáo, như tức thị Lư, hành tức
thị Hạnh” (Lại nói theo một chữ Thuyết
th́ Thích Luận có nói: “Việc làm đúng như lời nói”.
Thuyết chính là Giáo, Như chính là Lư, Hành chính là Hạnh). Ư
nghĩa được bao hàm trong một chữ Thuyết của
tựa đề kinh cũng vô cùng rộng lớn. Thông
thường, trong hết thảy kinh luận, chúng ta thấy
chữ này được giải thích rất nông cạn, dễ
hiểu: “Thuyết thị duyệt
sở hoài dă” (Thuyết là thỏa thích những điều
được ấp ủ trong tâm). Đức Phật thấy
cơ duyên của chúng sanh chín muồi, Ngài lấy độ
chúng sanh làm bản hoài, nay cơ duyên đắc độ của
chúng sanh đă chín muồi, đương nhiên phải dạy
cho chúng sanh phương pháp ĺa khổ được vui, chuyển
phàm thành thánh. V́ thế, Thuyết là hoan hỷ v́ chúng sanh mà thuyết
pháp. Ở đây là nói theo Lư, cách giảng trong phần trên
là nói theo Sự.
“Sở hành như sở thuyết”:
Giải và Hạnh hoàn toàn nhất trí. Nếu lời đức
Phật nói và điều Ngài làm khác nhau, tức là chẳng
tương ứng. Từ câu này, chúng ta biết, trong kinh
này, đức Phật khuyên chúng ta niệm Phật, Ngài có
niệm Phật hay không? Sở hành đúng như sở thuyết,
đương nhiên đức Phật niệm Phật! Nếu
đức Phật chẳng niệm Phật, làm sao có thể
khuyên chúng ta niệm Phật? Xác thực là quư vị đọc
những kinh điển được dẫn chứng
trong tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ của
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, [sẽ thấy] không riêng Thích
Ca Mâu Ni Phật niệm Phật thành Phật, mà hết thảy
chư Phật Như Lai chẳng có vị nào không niệm Phật
thành Phật. Chúng ta thấy kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Thập Địa Bồ Tát từ
đầu tới cuối chẳng ĺa niệm Phật”,
Thập Địa là từ Sơ Địa đến Đẳng
Giác. Do vậy có thể biết, đạo thành Phật chỉ
là niệm Phật, đó là “sở
hành như sở thuyết”. Thuyết là Giáo, Như là Lư,
ư nghĩa Bất Nhị như thế hoàn toàn nhất trí, tâm
và hạnh là một, tâm là hạnh, hạnh là tâm. Nay chúng ta
tu học pháp môn Tịnh Tông, đề xướng kinh Vô
Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là giáo
nghĩa viên măn, là căn cứ rơ rệt, chân thật nhất
của Tịnh Tông, có thể nói là khái luận của Tịnh
Độ. Bất luận tánh, tướng, lư, sự, nhân,
quả thảy đều được nói đến. Do
đó, tôi khuyên mọi người nương theo bộ
kinh này, hoàn toàn thực hiện những lư luận,
phương pháp, và cảnh giới đă nói trong bộ kinh
này, biến chúng thành tư tưởng, kiến giải,
ngôn ngữ, và hành vi của chính ḿnh. Chúng ta và Phật đồng
tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng
hạnh, há lẽ nào chẳng văng sanh? Quyết định văng
sanh! V́ lẽ đó, thọ tŕ kinh điển và Phật hiệu
nhằm mục đích này.
Đoạn
tiếp theo nói: “Phật tức
Pháp Thân, Quán tức Bát Nhă, Vô Lượng Thọ tức Giải
Thoát” (Phật chính là Pháp Thân, Quán là Bát Nhă, Vô Lượng
Thọ là Giải Thoát), đây là phối hợp với ba
đức Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát để nói.
Quư
vị nói chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta đối
với Lư và Sự của A Di Đà Phật đều thông
đạt, hiểu rơ, [sẽ là] một niệm tương
ứng một niệm Phật. Nếu chẳng hiểu rơ Sự
và Lư của A Di Đà Phật, sẽ biến câu Phật hiệu
thành ca hát. Hiện thời, chúng ta nghe cái gọi là Ngũ Hội
Niệm Phật, ca xướng đấy! Ca xướng hết
sức êm tai, có ư nghĩa ǵ hay không? Chẳng biết nữa!
Vậy là vô dụng, chỉ có thể nói là gieo một tí thiện
căn, khẩu thiện! Thầy Lư thường nói là “tốt
hơn chửi người khác”, đạt được
một chút lợi ích ấy! Nhất định phải biết
danh hiệu trọn đủ công đức, quư vị niệm
Phật mới tương ứng. Một câu A Di Đà Phật
viên măn đầy đủ hết thảy Tánh Đức
và Tu Đức, nên công đức của Phật hiệu lại
chẳng thể nghĩ bàn. Nói thật thà, ba kinh đều
chủ trương tŕ danh, mười lăm phép Quán
trước trong Thập Lục Quán Kinh chẳng phải là
tŕ danh, phép Quán cuối cùng là tŕ danh. Quư vị đừng
thấy là phép Quán sau cùng mà nói là nó chỉ dành cho kẻ hạ
căn. Hạ căn là ǵ? Người bệnh nặng nhất.
Người bệnh nặng nhất mà uống thuốc này
liền khỏi bệnh th́ người bệnh nhẹ c̣n
nói năng ǵ nữa? Càng dễ lành bệnh!
Cách
sắp đặt theo thứ tự thuận trong Phật
pháp có dụng ư rất sâu, tương tự như pháp thế
gian tại Trung Quốc: Thứ tốt nhất xếp cuối
cùng, giống như trong hát tuồng, màn diễn hay nhất
được gọi là “áp trục
hư” (壓軸戲: Màn diễn cuối, kết thúc tuồng hát). Tŕ danh
niệm Phật đặt ở cuối cùng chính là áp trục
hư. Chúng ta đọc kinh Lăng Nghiêm, phần hai
mươi lăm pháp Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm là pháp môn
tu học của hai mươi lăm vị Bồ Tát, những
pháp được xếp theo thứ tự là những pháp
thông thường. Pháp nào không xếp theo thứ tự thuận
mà xếp vào cuối cùng th́ pháp cuối cùng ấy là thù thắng
nhất. Chương Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Âm Bồ
Tát thù thắng nhất. Nếu pháp của Quán Âm Bồ Tát được
xếp theo thứ tự thuận th́ phải ở vị
trí thứ hai. Trong lục căn, pháp của Ngài là Nhĩ
Căn Viên Thông, thứ nhất là Nhăn Căn, thứ hai là Nhĩ
Căn. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Thất
Đại, đó là xếp theo thứ tự thuận, pháp
của Ngài chẳng được xếp theo thứ tự
thuận, mà xếp vào cuối cùng!
Trong
hai mươi lăm chương ấy, pháp môn đặc
biệt chẳng phải là một ḿnh Ngài, mà là hai vị, Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
cũng là đặc biệt. Nếu dựa theo thứ tự
thuận, Đại Thế Chí là Căn Đại. Trong Thất
Đại, theo thứ tự thuận là Địa, Thủy,
Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Do Đại Thế
Chí Bồ Tát thuộc Kiến Đại, nên [pháp môn của
Ngài] lẽ ra phải xếp trước Thức. Thức
là Di Lặc Bồ Tát, Ngài học Duy Thức. Di Lặc Bồ
Tát là Thức Đại, nên Đại Thế Chí Bồ Tát
phải xếp trước Di Lặc Bồ Tát. Kết quả
là quư vị thấy trong kinh Lăng Nghiêm, Ngài được
xếp sau Di Lặc Bồ Tát. V́ thế, xét theo thứ tự
thuận, có hai pháp môn đặc biệt trong hai mươi
lăm pháp môn, chẳng phải là [chỉ có] một pháp môn
đặc biệt. Nói như vậy, [ắt có người
bắt bẻ] v́ sao không xếp Niệm Phật Viên Thông Chương
cuối cùng, mà xếp Nhĩ Căn Viên Thông Chương cuối
cùng? Dụng ư trong ấy rất sâu, Niệm Phật Viên Thông
phù hợp căn cơ của hết thảy chúng sanh trong
tận hư không khắp pháp giới, quá lớn! Nhĩ
Căn Viên Thông Chương chỉ thích hợp với
người trên địa cầu; do thuyết pháp trên
địa cầu, nhằm thích hợp tŕnh độ của
quư vị, nên đặc biệt đưa ra pháp này. Nếu
không thuyết pháp ở đây, Quán Âm Bồ Tát vẫn dựa
theo thứ tự thuận để sắp vào vị trí thứ
hai, chẳng xếp cuối cùng, nhưng Đại Thế
Chí Bồ Tát sẽ được xếp cuối cùng,
đó là điều quyết định, chẳng bị bất
cứ ảnh hưởng nào. Đọc kinh Lăng Nghiêm
phải lưu ư điều này: Chẳng theo đúng thứ
tự thuận, ư nghĩa sẽ khác hẳn!
Do
đó, trong Tịnh Tu Tiệp Yếu, cư sĩ Hạ Liên
Cư đă viết: “Tịnh Tông
Sơ Tổ Đại Thế Chí Bồ Tát”, tôi xem đến câu ấy
cũng giật ḿnh, nhưng suy nghĩ kỹ, thấy cụ
nói chẳng sai, cụ nói rất chánh xác, trước kia tôi
không nghĩ đến. Đề xướng chuyên tu Tịnh
Tông, chuyên học pháp môn Niệm Phật trong tận hư
không, khắp pháp giới là Đại Thế Chí Bồ Tát,
nên Đại Thế Chí Bồ Tát là Tịnh Tông Sơ Tổ
trong tận hư không, khắp pháp giới. Từ Ngài, chúng
tôi lại liên tưởng trong thế giới Sa Bà, Phổ
Hiền Bồ Tát là Tịnh Tông Sơ Tổ. Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thành Phật, giảng bộ kinh đầu
tiên là kinh Hoa Nghiêm. Trong hội Hoa Nghiêm, người đề
xướng pháp môn Niệm Phật là Phổ Hiền Bồ
Tát, nên Phổ Hiền Bồ Tát là Sơ Tổ trong thế
giới Sa Bà. Tại Trung Quốc, Huệ Viễn đại
sư đề xướng đầu tiên, nên Viễn Công
đại sư là Sơ Tổ [của Tịnh Độ Tông]
tại Trung Quốc. Sau này, hễ nói tới Tịnh Tông Sơ
Tổ, phải hỏi vị Sơ Tổ nào? Cả ba vị
đều là Sơ Tổ, nhưng phạm vi giáo hóa khác biệt
rất lớn, chúng ta phải biết điều này.
Lại
xem phần tiếp theo, đại sư dùng Lục Tức
của tông Thiên Thai để giải thích chữ Phật. “Sơ thích Phật giả” (đầu
tiên là giải thích chữ Phật), giới thiệu từng
chữ trong tựa đề kinh, trước hết giải
thích chữ Phật. “Phật thị
giác nghĩa” (Phật nghĩa là giác), chữ Phật là
tiếng Phạn dịch âm, có nghĩa là Giác, giác chứ không
mê. “Hữu lục chủng tức”
(có sáu loại Tức), nói theo hiện tại th́ “tức” có nghĩa là “chính là”. “Niết Bàn kinh vân, nhất thiết
chúng sanh tức thị Phật” (kinh Niết Bàn nói: “Hết
thảy chúng sanh chính là Phật”), kinh Hoa Nghiêm cũng nói “hết thảy chúng sanh vốn đă
thành Phật”. Kinh Viên Giác cũng có câu “hết thảy chúng sanh vốn thành Phật”. Đây
là nói theo Chân Như bản tánh, v́ sao? Hết thảy chúng sanh
đều có chân tánh, nói theo chân tánh, chúng sanh và Phật chẳng
sai biệt, hoàn toàn như nhau, nên hết thảy chúng sanh
đều có Phật Tánh. [Tánh ấy nơi] hữu t́nh
chúng sanh được gọi là Phật Tánh, nơi vô t́nh chúng
sanh gọi là Pháp Tánh. Thực vật và khoáng vật có tánh, tánh
là bản thể, tức là thể tánh của nó. Pháp Tánh và Phật
Tánh là một tánh, chẳng phải là hai tánh, nên kinh Hoa Nghiêm
nói: “T́nh dữ vô t́nh, đồng
viên Chủng Trí” (hữu t́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng
Trí). Thân tâm của hữu t́nh do Chân Như bản tánh biến
hiện; vô t́nh như đất, gỗ, đá cũng do Chân
Như bản tánh biến hiện; nên xét theo bản thể,
chúng là một. Các nhà Duy Thức Học đă giảng chuyện
này rất rơ ràng.
Một niệm
vô minh dấy lên trong bản tánh, bèn có ba tế tướng
(tướng vi tế) là Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng,
và Cảnh Giới Tướng. Nghiệp Tướng là vọng
động, nghiệp là động. Hễ động,
đức dụng của bản tánh bị mất đi;
hễ động bèn biến thành tám thức. V́ vậy, chân
tâm hễ động bèn biến thành vọng
tâm. Khôi phục chân tâm bằng cách nào? Quư vị phải học
sao cho chẳng động tâm, chân tâm liền khôi phục. Trong
kinh Kim Cang, đức Phật dạy tôn giả Tu Bồ
Đề: “Bất thủ
ư tướng, như như bất động” (chẳng
chấp lấy tướng, như như bất động),
đó là đúng, chân tánh của quư vị liền khởi
tác dụng. “Bất thủ
ư tướng” là bên ngoài chẳng chấp tướng,
“như như bất động”
là bên trong chẳng động tâm. Tổ Đạt Ma
truyền Thiền sang Trung Quốc, Lục Tổ hoằng
dương Thiền rạng rỡ là do hai câu sau đây
trong kinh Kim Cang: “Ngoại bất
trước tướng, nội bất động tâm”
(ngoài chẳng chấp tướng, trong không động tâm).
Bên ngoài chấp tướng, bên trong động tâm, đó
là phàm phu.
V́
thế, quan sát từ thể tánh: “Nhất thiết chúng sanh giai Như dă” (Hết thảy
chúng sanh đều là Như). Những ǵ đại sư
đă viết trong lời Sớ đều dẫn từ
những lời kinh dạy, hết thảy chúng sanh đều
như trong kinh Duy Ma và kinh Bảo Khiếp[10]
đă nói: “Phật giới, chúng
sanh giới, nhất giới, vô biệt giới” (Phật
giới, chúng sanh giới là một giới, chẳng có giới
nào khác). Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới đều là vật
được biến hiện bởi tự tánh, giống
như quư vị tối ngủ nằm mộng, mộng thấy
Phật, Bồ Tát cũng là do tự tánh của quư vị
biến hiện; mộng thấy ngạ quỷ, địa
ngục cũng là do tự tánh của quư vị biến hiện.
Toàn bộ giấc mộng chính là tâm, toàn thể tâm chính là mộng,
giấc mộng đẹp là tâm này, mà ác mộng vẫn là
tâm này! Ác mộng hay mộng đẹp đều là một
tâm, nhất tâm, vô nhị tâm. Do vậy, tốt và xấu
đều chẳng có, đạt tới b́nh đẳng thật
sự. V́ vậy, đối với y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, người đă kiến
tánh thấy là pháp giới b́nh đẳng, là Nhất Chân
pháp giới, v́ sao? Hoàn toàn là chân thật, chẳng có ǵ là giả.
Quư
vị phải suy nghĩ kỹ càng cảnh giới ấy,
nếu quư vị hiểu ư nghĩa này, thọ dụng vô
cùng, sẽ có ích to lớn cho sự tu hành của quư vị,
giúp quư vị đoạn phiền năo, giúp quư vị xa ĺa hết
thảy phân biệt, chấp trước. Chúng sanh sở
dĩ làm chúng sanh, bị thua thiệt là v́ phân biệt, chấp
trước. Phật pháp chẳng có ǵ khác, phá chấp
trước [mà thôi]. Chấp trước Nhân và Ngă đă
phá, bèn chứng quả A La Hán. Pháp Chấp đă phá bèn thành Phật.
Hai chướng ấy nói thật ra là hai thứ chấp
trước, Ngă Chấp và Pháp Chấp, đó là sự thiệt
tḥi to lớn, vĩnh viễn chẳng có cách nào hiểu biết
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Càng là chân thật th́ càng chẳng thể liễu giải,
càng là chân thật th́ vừa nghe bèn càng chẳng thể tiếp
nhận. Từ vô thỉ kiếp tới nay, phân biệt và chấp
trước đă biến thành thói quen, thói quen ấy chẳng
dễ ǵ bỏ ngay được! Chính v́ chúng ta chẳng thể
bỏ ngay được, nên đức Phật mới nói
pháp phương tiện. Pháp phương tiện là thuận
theo sự chấp trước của quư vị mà chấp
trước, thuận theo sự phân biệt của quư vị
để phân biệt; quư vị bèn có thể nghe hiểu,
tiếp nhận, lại dần dần thong thả khuyên dụ,
hướng dẫn quư vị tiếp cận pháp chân thật.
Đoạn
tiếp theo có mấy câu rất quan trọng, nhưng lư
trong ấy khá sâu. Nơi trang hai mươi chín, ḍng thứ
tư: “Thử thị viên trí”
(đây là viên trí), tức trí huệ viên măn; chính là nói “hết thảy chúng sanh là Phật”,
đây là trí huệ viên măn, là cảnh giới Phật. “Viên giác chư pháp” nghĩa là
giác ngộ viên măn hết thảy các pháp. Hết thảy các
pháp bao gồm pháp thế gian và xuất thế gian, bao gồm
mười pháp giới, bao gồm pháp hữu t́nh và pháp vô
t́nh, thảy đều được bao gồm trong
đó, giác ngộ viên măn các pháp. “Biến
nhất thiết xứ, vô bất minh liễu” (trọn
khắp hết thảy các nơi, không ǵ chẳng hiểu
rơ). Viên giác là ǵ? Viên giác là tâm của quư vị. Tâm quư vị
vốn giác ngộ viên măn. Rất đáng tiếc, nay quư vị
mê cái tâm này, do đă mê nên bất giác. Mê là như thế nào?
Là như đức Phật nói vọng tưởng, chấp
trước, đó là mê. Vọng tưởng là ô nhiễm, là
vô minh, thứ ǵ cũng đều không biết. Chấp
trước là phiền năo, chư vị hăy nghĩ xem, tất
cả hết thảy phiền năo, hết thảy đúng
sai, hết thảy ta người, đều sanh từ chấp
trước. Quư vị chẳng chấp trước, lấy
đâu ra phiền năo? V́ lẽ đó, cội rễ của
Phiền Năo Chướng là chấp trước, cội rễ
của vô minh là vọng tưởng.
Trong
hội Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na đă hướng về
Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo, vô minh do đâu mà có? Khi nào
có vô minh? Đức Phật giải đáp. Lời giải
đáp ấy hay tuyệt! Đức Phật nói: “Tri kiến lập tri, thị vô
minh bổn” (từ nơi tri kiến mà lập ra một
cái biết nữa, đó là cội gốc của vô minh). “Tri kiến lập tri” là vô
minh. “Tri kiến” là ǵ? Là những
hiểu biết quư vị vốn sẵn có [trong chân tánh], ở
đây gọi là Viên Giác. Quư vị vốn là giác ngộ viên
măn, thế mà trong sự giác ngộ viên măn ấy, quư vị
lại tạo lập một tri kiến nữa, hỏng rồi,
hễ thêm vào liền biến thành vô minh. Lời giải
đáp ấy đơn giản, dễ hiểu, một câu đă
nói toạc ra, chẳng phải là bậc đại học
vấn chân chánh thật sự thông đạt sẽ không thể
thốt ra được! Chúng ta vốn hiểu rơ hết
thảy các pháp, rất đáng tiếc là hiện thời cái
tâm này bị ô nhiễm, tâm hiện thời đang phập
phồng, chao động bất định, giống
như sóng cuộn, luôn động, chẳng thể
tĩnh. V́ thế, tu học trong Phật pháp, bất luận
Đại Thừa hay Tiểu Thừa, bất luận tông
phái nào, bất luận pháp môn nào, đều tu điều
ǵ? Tu Định, nhằm xóa bỏ ô nhiễm trong tâm, khiến
cho cái tâm dao động, chập chờn của quư vị được
an định.
V́
lẽ đó, chúng ta cúng Phật, những thứ khác có thể
không cần cúng, nhất định phải cúng một chén
nước, nước biểu thị điều ǵ? Biểu
thị tâm. Tâm ta phải thanh tịnh như nước, phải
bất động như nước. Nước phẳng
lặng, tâm mới có thể soi rơ ràng, rành mạch hết
thảy vạn pháp trong vũ trụ. Tâm trọn khắp hết
thảy các nơi, không ǵ chẳng hiểu rơ! Quá khứ, hiện
tại, vị lai, cơi này, phương khác, tận hư
không khắp pháp giới, thảy đều hiểu rơ. V́
sao? Đều ở trong tâm, chiếu rành rẽ, rơ ràng. Tâm
này hễ nổi sóng gió, hễ nó bị ô nhiễm th́ điều
ǵ cũng không biết, dẫu bày ở ngay trước mặt
vẫn chẳng thể cảm nhận, thật đáng
thương! Do đó, học Phật là học chẳng
động tâm, học sao cho chẳng bị ô nhiễm, đó
gọi là công phu, là bản lănh. Sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, do không chấp tướng, nên chẳng
thể ô nhiễm; do không động tâm, tâm liền định,
chẳng nổi sóng gió, chúng ta bèn thành tựu. Ngàn kinh vạn
luận đều nhằm giảng một nguyên tắc
như vậy.
Nếu
quư vị thật sự thông đạt, hiểu rơ th́ tiếp
đó, [lời Sớ] viết: “Tuy
Ngũ Vô Gián” (tuy là Ngũ Vô Gián), Ngũ Vô Gián là địa
ngục, quư vị sẽ thấy Ngũ Vô Gián “giai giải thoát tướng, hôn
mê, đảo hoặc, kỳ lư tồn yên” (đều
là tướng giải thoát, hôn mê, điên đảo, phiền
năo, lư ấy sao c̣n?). Quư vị thấy chúng sanh mê hoặc, điên
đảo; trong mắt Phật, Phật tánh của họ
chẳng điên đảo. Phật Tánh của họ tồn
tại hay không tồn tại? Tồn tại! Phật Tánh của
họ có khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng. Trong
khi khởi tác dụng, họ lại thêm đôi chút vào tác dụng
ấy, lầm lạc ở chỗ này. Ví như nói mắt
chúng ta thấy sắc tướng bên ngoài, nó thấy rơ ràng,
rành rẽ, nhưng [chúng ta] cứ khăng khăng tṛng thêm một
cặp kính đen thui, đă đeo cặp kính đen, sẽ
thấy bên ngoài đều đen thùi lùi! Đeo cặp kính
xanh, sẽ thấy bên ngoài đều xanh, bên ngoài có phải
là xanh hay chăng? Chẳng phải là xanh, mắt kính xanh! Hiện
thời chúng ta đều đeo kính, có dùng mắt hay không?
Vẫn dùng mắt, dùng mắt nhưng kèm thêm cặp kính.
Đức Phật bảo quư vị bỏ nó đi, diện
mục vốn có sẽ khôi phục. Kính đeo mắt là ǵ?
Kính đeo mắt chính là vọng tưởng, chấp
trước. Vọng tưởng và chấp trước là
cặp kính khoác lên trên mắt, [khiến cho mắt] nh́n
tướng bên ngoài đều sai. Tuy thấy sai, nhưng
đức Phật nói quư vị vẫn dùng mắt của
chính ḿnh để thấy, chẳng phải là mắt kính
thấy, vẫn do con mắt thấy, bất quá mắt có chướng
ngại mà thôi. Chướng ngại ấy lại chẳng
thật, mà cũng chẳng phải là vốn có, do quư vị
đeo lên, hễ bỏ ra, nó bèn chẳng c̣n nữa! Trong Khởi
Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói: “Bổn Giác vốn có, Bất Giác vốn không”. Bất
Giác là cặp kính mầu, vốn chẳng có. Do đó, đức
Phật thấy chúng sanh đều là Phật, Phật trọn
chẳng nghĩ khi quư vị đeo cặp kính sẽ chẳng
gọi là Phật, vẫn là Phật! Mắt Phật thấy
chẳng sai, nói thực tại th́ sai lầm ở nơi bản
thân chúng ta. “Tư lư chước
nhiên, thế gian thường trụ, hữu Phật bất
năng ích, vô Phật bất năng tổn, đắc chi bất
vi cao, thất chi bất vi hạ. Cố ngôn chúng sanh tức
thị Phật, Lư Phật dă” (Lư ấy rạng ngời,
thế gian thường trụ, có Phật chẳng thể
tăng thêm, chẳng có Phật cũng chẳng thể tổn
giảm. Được chẳng coi là cao, mất chẳng
coi là thấp. V́ thế nói “chúng sanh chính là Phật”, đó
là Lư Tức Phật). Do đó, nói theo Lư Thể, nói theo bản
tánh, hết thảy chúng sanh đều là Phật. Hết
thảy chúng sanh vốn đă thành Phật là quan sát từ
góc độ này, quan sát từ bản thể.
Đoạn
này là căn cứ quan trọng nhất để bọn
phàm phu chúng ta học Phật thành Phật, tín tâm của
chúng ta được tạo lập trên lư luận này. V́
sao? Ta vốn sẵn là Phật, lẽ đâu chẳng thành Phật?
Vốn sẵn là Phật, nay ta lại muốn học Phật,
đương nhiên có thể thành Phật. Nếu vốn chẳng
phải là Phật, mà nếu nay muốn học Phật,
chưa chắc đă có thể thành tựu, chẳng nhất
định có thể thành tựu! Vốn sẵn là Phật,
nay lại học Phật, quyết định thành Phật.
V́ thế, tín tâm tu hành, tín tâm thanh tịnh, tín tâm kiên cố
được kiến lập từ chỗ này. Điều
thứ nhất trong “Lục Tức
Phật” là lư luận, năm điều sau là tu hành. Từ
Danh Tự, Quán Hạnh, Phần Chứng
cho đến Cứu Cánh đều là nói về thứ tự
tu hành, thuộc loại Tu Đức, điều đầu
tiên là Tánh Đức. Chúng ta phải hiểu rơ điểm
này. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần
1 hết
[1] Chữ số Ả
Rập (Arabic Numerals) chính là những chữ số
thường dùng trong hiện thời; đôi khi c̣n gọi
là Hindu-Arabic Numerals hoặc Indo-Arabic Numerals. Theo các nhà nghiên
cứu, chúng được h́nh thành bởi các nhà toán
học cổ Ấn Độ, và được các nhà toán
học Hồi Giáo sử dụng. Về sau, những con
số ấy được truyền vào châu Âu vào thế
kỷ thứ mười bởi những cư dân Bắc
Phi, nên có danh xưng như vậy nhằm phân biệt
với chữ số La Mă được sử dụng
thông dụng tại Âu Tây thời đó.
[2] Sớ Sao được nói
ở đây chính là cách gọi tắt của bộ Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, xin
đừng lầm với bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Tŕ đại
sư.
[3] Tam Chỉ là:
- Thể Chân Chỉ: Thể niệm lư Chân Như,
ngưng dứt hết thảy vọng tưởng phan
duyên.
- Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ (c̣n gọi là
Duyên Thủ Cảnh Chỉ): An trụ nơi lư “các pháp
đều là huyễn hóa”, biết Không chẳng phải là
Không, phân biệt dựa theo từng bệnh (phiền năo)
mà tùy duyên phân biệt các cảnh, an trụ trong Giả
Đế, bất động.
- Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ (c̣n gọi là
Chế Tâm Chỉ): Biết loại Chỉ thứ nhất
lệch về Chân, loại Chỉ thứ hai lệch
về Giả, ngưng dứt hai bên Chân và Giả, an
trụ trong Trung Đế.
[4] “Đảnh
cách” (頂格) là cách viết trang trọng trong văn
bản cổ. Ḍng chữ viết theo lối Đảnh Cách
sẽ cao hơn các cột chữ xung quanh một chữ.
Văn bản cổ thường dùng lối Đảnh Cách
để biểu thị sự tôn trọng, nhất là khi
trích dẫn chánh kinh.
[5] Ư nói chỉ là pḥng đơn, chẳng
phải là loại pḥng có ngăn ra làm hai gian, gian ngoài
để tiếp khách đến chơi.
[6] Nhục kế (Uṣṇīṣa) là một
trong ba mươi hai tướng hảo của Phật,
c̣n gọi là Kế (髻), Đảnh Kế,
Đảnh Thượng Nhục Kế v.v... hoặc
gọi theo âm Phạn là Ô
Sắt Ni Sa hoặc Úc Sắt Ni Sa. Đây là tướng
xương đầu vun cao lên, nh́n như búi tóc giữa
đỉnh đầu. Kinh Vô Thượng Y giảng: “Úc Sắt Ni Sa là xương
đỉnh đầu cao trội lên, tự nhiên thành h́nh
như búi tóc”. Kinh Vô Thượng Y c̣n giảng Nhục
Kế là do trong đời quá khứ Phật đă
nhiều kiếp tự hành Thập Thiện, lại c̣n
khuyên lơn, hướng dẫn người khác tu hành,
thấy người khác tu hành bèn hoan hỷ, tán thán, cúng
dường, d́u dắt họ luôn theo đúng chánh pháp.
[7] Ngài Bảo Vân là tổ sư đời
thứ mười sáu của tông Thiên Thai, pháp húy Nghĩa
Thông, pháp tự Duy Viễn; do về già Ngài trụ tại
chùa Bảo Vân nên thường gọi là Bảo Vân Sư.
Ngài người xứ Cao Ly, họ Y. Tướng mạo
trang nghiêm dị thường, đỉnh đầu có
nhục kế, giữa hai mày có tướng bạch hào,
nếu kéo duỗi ra sẽ dài đến năm sáu tấc.
Lúc nhỏ, Sư xuất gia tại Quy Sơn Viện, sau
khi thọ Cụ Túc, bèn học Hoa Nghiêm và Khởi Tín
Luận, được cả nước Cao Ly tôn kính,
ngưỡng mộ. Sau đó, Sư sang Trung Quốc tham học
với ngài Vân Cư (Thiều Quốc Sư) có chỗ
khế ngộ. Sau đấy, lại tham yết ngài Loa Khê
nghe yếu chỉ Nhất Tâm Tam Quán bèn than: “Cái học viên đốn ắt phải thấu
triệt ở nơi đây”, bèn ở lại theo
học. Lâu sau, danh tiếng vang lừng khắp nơi. Khi
sắp hồi hương, Sư nghỉ lại Tứ Minh,
sắp xuống thuyền, Quận Thủ Tiền Duy
Trị nghênh đón xin hỏi tâm yếu, xin thọ Bồ
Tát giới. Đạo tục hướng về quy
ngưỡng đông đảo, Quận Thủ tha
thiết thỉnh cầu, nên Ngài ở lại Trung Quốc.
Năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ tư (979), ngài Pháp Trí (tôn
giả Tứ Minh) theo học với Sư, lúc đó Sư
đă năm mươi ba, c̣n Pháp Trí mới hai mươi.
Ngôi chùa nơi Sư ở, thoạt đầu gọi là
Truyền Giáo Viện, măi đến năm Thái B́nh Hưng
Quốc thứ bảy (982), mới được vua ban
biển ngạch là Bảo Vân Tự. Đến năm Ung
Hy nguyên niên (984), ngài Từ Vân mới theo học với
Sư (lúc đó Sư đă năm mươi tám tuổi,
Từ Vân hai mươi hai). Sư thường nói Tịnh
Độ là quê cũ. Năm Đoan Củng nguyên niên (988),
vào ngày Mười Một tháng Mười, Sư nằm bên
hông hữu, an tường nhập diệt.
[8] Chúng tôi xin trích dẫn lời giảng đại
lược của tự điển Bách Độ về ư
nghĩa của từng khoa như sau:
1. Thị Chương (Tiêu Chương): Khiến cho
tầng lớp được phân minh, ngơ hầu
người nghiên cứu dễ ghi nhớ, chẳng quên.
Phần này giống như nêu ra một chủ đề
chính, một ư kiến chánh yếu hoặc một quan
điểm sẽ được thảo luận.
2. Dẫn Chứng là phần dẫn kinh văn,
đại luận, hoặc trước tác, ngữ lục
của tổ sư đại đức để
chứng minh quan điểm vừa nêu trong phần Tiêu
Chương là xác thực, không phải là ức đoán hay
bịa đặt.
3. Sanh Khởi là phần dẫn dắt, giải thích
thêm, khiến cho người đọc chẳng rối
loạn, hiểu rơ thứ tự trong lư luận.
4. Khai Hợp là nói rộng ra hoặc thu gọn
lại những luận điểm hay giáo nghĩa nhằm
thích hợp với căn tánh của chúng sanh.
5. Liệu Giản là lập ra những phần
vấn đáp giả định nhằm trừ nghi, phá
chấp.
6. Quán Tâm: Chỉ ra cách tu hành, quán tâm. Phần này
tương ứng với phần Xứng Tánh
thường dùng trong bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao của
ngài Liên Tŕ.
7. Hội Dị: Giảng giải những ưu
điểm, nêu rơ tự tâm, khiến cho người
đọc, kẻ nghe tín tâm kiên cố, nắm
được ư chỉ của Thật Tướng.
Phần này cũng tương ứng với Xứng Tánh
trong A Di Đà Kinh Sớ Sao.
[9] Nguyên văn là “đại bổn tử”. Những câu do ngài
Tứ Minh vừa dẫn trên đây trích từ Pháp Hoa Kinh
Huyền Nghĩa, nên gọi là “đại
bổn tử”, chúng tôi tạm dịch là Đại
Sớ.
[10] Kinh này có tên gọi đầy
đủ là Đại Phương Quảng Bảo
Khiếp Kinh hoặc c̣n gọi là Văn Thù Sư Lợi
Hiện Bảo Khiếp Kinh, gồm có ba quyển, do ngài
Cầu Na Bạt Đà La dịch vào đời Lưu
Tống. Kinh này ghi lại cuộc vấn đáp giữa
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và tôn giả Tu Bồ
Đề; đồng thời, các vị tôn giả như
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… đều tán thán
trí huệ sâu thẳm của Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát. Bảo Khiếp (寶篋) có nghĩa là cái tráp báu.