TUYẾT LƯ LĂO NHÂN

TỊNH ĐỘ TUYỂN TẬP

雪廬老人

淨土選集

(tuyển tập những bài viết về Tịnh Độ của lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam)

Trích dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

 

PHẦN THỨ NHẤT:

NHỮNG ĐOẢN VĂN TRÍCH TỪ BỘ HOẰNG HỘ TIỂU PHẨM

 

* PHÁP TU THÀNH TỰU NGAY TRONG ĐỜI NÀY

 

      I. Phải nhận thức rơ hoàn cảnh hiện tại và đường lối tương lai

1. Đời người nhiều nghịch cảnh

 

Có ai là không bị bệnh hoạn, già suy, thân thuộc sanh ly tử biệt, của cải mất mát, oán thù gia hại? Lại c̣n kẻ nghèo mong cầu tiền của, người không con cầu con, kẻ vô nghề nghiệp, chẳng có chức vụ mong có nghề nghiệp, chức vụ; nhưng rốt cuộc mấy ai được như ư? Những điều bất như ư ấy làm cách nào để giải quyết đây?

 

2. Cơi đời này lắm tai nạn

 

Gió băo nổi dậy, địa chấn phát sanh, tường đổ, nhà sập khiến lắm người bị tử thương. Lại c̣n không mưa thành đại hạn, mưa quá thành lụt, mất mùa khiến lắm người bị chết đói. Nước lớn tràn dâng, ch́m ngập thôn trang. Lửa to bốc cháy, thiêu tan thành thị khiến lắm người bị tử thương. Những chuyện như vậy gần như năm nào cũng có. Lại c̣n có năm chẳng thái b́nh, có những quốc gia trên thế giới chẳng nghĩ ǵ đến lẽ nhân đạo luôn gây tai vạ chiến tranh. Lại c̣n phát minh những vũ khí giết người tối tân, nào là bom nguyên tử, nào là bom khinh khí, chỉ sợ là chẳng giết được thật nhiều người mà thôi. C̣n bảo như vậy mới là thế giới tiến hóa, chứ nói trắng ra chỉ là một ḷ sát sanh lớn! Thử hỏi ai có biện pháp nào đtránh khỏi những tai nạn như thế hay không?

 

3. Nỗi khổ luân hồi của thân sau

 

Rất đáng thương thay! Người chết chẳng phải là hết v́ thân tuy chết đi, thần thức chẳng diệt. Có sáu cảnh giới là thiên, nhân, A-tu-la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Thần thức hoàn toàn chẳng thể vượt ra khỏi phạm vi của sáu cơi này. So trong lục đạo, cơi trời, cơi người c̣n khá, nhưng vẫn có sanh tử, xoay vần qua qua, lại lại; hốt nhiên mang thân trời, người, hốt nhiên sanh trong địa ngục, súc sanh. Ngàn lần sống, vạn lần chết, luân chuyển như thế; xương vùi cao như núi, lệ trào nhiều như biển, thật quá cực khổ! Thử hỏi ai có phương pháp nào trốn tránh sự luân hồi ấy ngơ hầu được trường sanh an tịnh chăng?

 

II. Phương pháp giải cứu nghịch cảnh, tai nạn, luân hồi

1. Chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn

 

Sự khổ vui của mỗi người vốn là một thứ quả báo, phải vận dụng cả ba đời để quán sát. Nếu chẳng hiểu rơ đạo lư này, làm sao thông hiểu được? Hiện tại chúng ta gặp phải nghịch cảnh, mắc phải tai nạn, đương nhiên là có dính líu đến nhân quả. Cách để chuyển biến, tiêu trừ chúng nhanh nhất chính là Niệm Phật. Trong kinh từng nói chí tâm niệm Phật một câu, tiêu trừ được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Nếu đă tiêu trừ được tội th́ nào c̣n có nghịch cảnh, tai nạn ǵ nữa! Kinh c̣n dạy người niệm A Di Đà Phật được vô lượng vô biên chư Phật ở bốn phương, thượng, hạ hộ niệm. Phật là bậc pháp lực vô biên vạn đức, vạn năng, đă được Phật gia bị th́ c̣n sợ ǵ tai nạn cơ chứ?

 

2. Thoát khỏi luân hồi, trường sanh vĩnh viễn

 

Ngoài lục đạo lại c̣n có cảnh giới nào khác th́ thật là chuyện lạ. A! Lục đạo là cảnh phàm, nào biết c̣n có cảnh thánh. Cảnh thánh chính là cơi Phật. Trong các thế giới ở phương Tây, có thế giới Cực Lạc là quốc độ của Phật A Di Đà, hoàn toàn do bảy báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh.

So với bất cứ cơi thiên cung nào, thế giới Cực Lạc cũng tốt đẹp hơn ngàn vạn vạn lần. Điểm tuyệt diệu nhất là thọ mạng vô lượng, chẳng giống như cơi trời, cơi người sanh tử chẳng ngừng trong lục đạo. Trong kinh có dạy: Nếu ai sanh về đó thân đều sắc vàng, quang minh chói lọi, thần thông đầy đủ, nghĩ đến áo liền có áo, nghĩ ăn liền có ăn, thọ mạng vô lượng, sống măi đến khi thành Phật.

Phương pháp rốt ráo để sanh về đó là như kinh đă dạy: Niệm A Di Đà đến Nhất Tâm Bất Loạn. Lúc lâm chung, nhất định A Di Đà Phật đến rước đi.

 

3. Nêu lời cổ huấn để chứng minh

 

Những điểm tốt lành vừa được đề cập trong hai đoạn trên đều được chép trong kinh, vốn ngàn lần, vạn lần chân thật, chẳng cần phải nhọc công nêu chứng minh. Nhưng càng chứng minh nhiều th́ tín tâm càng thêm kiên cố nên chẳng ngại dài ḍng, nêu thêm mấy câu về “mười đại lợi ích của việc niệm Phật”. Nghĩa là người niệm Phật quyết định sẽ được mười điều lợi ích:

1) Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lực thần tướng ẩn thân thủ hộ người ấy.

2) Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ Tát như Quán Âm bảo vệ, gia hộ.

3) Ngày đêm thường được chư Phật hộ niệm, A Di Đà Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.

4) Hết thảy ác quỷ, dạ-xoa, la-sát đều chẳng hại được, chẳng bị trúng phải rắn độc, thuốc độc.

5) Nước, lửa, oán tặc, đao binh, súng ống, gông, cùm, lao ngục... đều chẳng mắc phải.

6) Những tội nghiệp đă tạo khi trước thảy đều tiêu diệt.

7) Đêm ngủ mộng thấy điềm lành, hoặc thấy thân sắc vàng thắng diệu của A Di Đà Phật.

8) Tâm thường hoan hỷ, vẻ mặt tươi tắn, khí lực sung măn, việc làm tốt đẹp.

9) Thường được hết thảy mọi người trong thế gian cung kính lễ bái giống hệt như kính Phật.

10) Lúc lâm chung tâm không hăi sợ, chánh niệm hiện tiền. Tây Phương Tam Thánh dùng đài vàng tiếp dẫn văng sanh Tịnh Độ, liên hoa hóa sanh, hưởng sự vui thắng diệu.

Xin quư vị chú ư: Trong mười điều lợi ích này, chín điều trước đều là những lợi ích chuyển hóa nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn. Điều lợi ích cuối cùng là thân sau thoát khỏi luân hồi.

 

III. Phương pháp niệm Phật

 

1. Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhất

 

- Nam mô đại từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy, hoặc chỉ chắp tay).

- Nam mô đại từ đại bi A Di Đà Phật (niệm lễ giống như trên).

- Nam mô A Di Đà Phật (không cần lễ bái, chỉ cung kính niệm. Quỳ niệm, ngồi niệm, đứng niệm đều được. Tối thiểu là trăm câu đến ngàn câu, vạn câu tùy theo công việc rảnh hay bận của mỗi người. Chỉ nên từ ít tăng lên nhiều, đừng từ nhiều giảm xuống ít).

- Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (một niệm, một lạy).

- Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (niệm một niệm, một lạy. Quán Âm, Thế Chí là hai vị hiếp sĩ (Bồ Tát thị giả thân cận) của đức A Di Đà, thường gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Niệm Phật xong, lẽ đương nhiên nên lạy hai Ngài)

- Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (một niệm, một lạy. Cực Lạc thế giới có rất nhiều vị Bồ Tát, tương lai đều là thầy bạn của ḿnh nên cũng nên lễ bái)

- Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm Phật tịnh độ

Trên đền bốn ân trọng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có ai thấy nghe,

Đều phát tâm Bồ Đề,

Hết một báo thân này.

Cùng sanh cơi Cực Lạc.

(Đây là bài hồi hướng, cũng nói về nguyện lực niệm Phật của ḿnh).

Lễ bái lui ra.

 

Phụ chú:

 

Mỗi ngày sáng chiều hai lượt thực hành công khóa trên đây. Rửa tay, súc miệng, đối trước tượng Phật thắp hương, đảnh lễ, theo đúng pháp tụng niệm. Nếu không có tượng Phật hoặc chỗ ḿnh ở không thuận tiện th́ không đốt hương, không đảnh lễ cũng được, chỉ hướng mặt về Tây, trong ḷng cung kính th́ cũng có công đức tương tự. Đừng niệm những chữ ghi trong dấu ngoặc.

 

2. Phương pháp niệm Phật mười hơi

 

Cho đến hết một hơi, niệm dăm ba câu hoặc sáu bảy câu “nam-mô A Di Đà Phật”. Niệm hết mười hơi như vậy bèn niệm bài Hồi Hướng một lượt, lễ bái lui ra.

 

Phụ chú:

 

Cách này dành cho người cực kỳ bận rộn, chỉ tốn thời gian không quá năm phút. Điều trọng yếu nhất là mỗi ngày sáng chiều phải thực hành một lần. Vạn phần chẳng được gián đoạn. Có tượng Phật th́ đối trước tượng Phật niệm tụng, không có tượng Phật th́ hướng về phía Tây mà làm.

Hai cách niệm Phật vừa đề cập trên là dành cho người quá bận rộn. Nếu có lúc rảnh rỗi th́ sau khi niệm “nam-mô đại từ đại bi A Di Đà Phật”, tụng một quyển kinh A Di Đà, tụng ba biến chú Văng Sanh, Tán Phật một lượt th́ càng hay. Cách hành tŕ này tối đơn giản, hợp thực tế, quyết định thành công.

 

IV. Trợ duyên để niệm Phật thành công

1. Tiêu chuẩn đơn giản để phân biệt thiện ác

 

Niệm Phật là chánh nhân, làm lành là trợ duyên, giống như chim có hai cánh mới có thể bay cao. Nhưng người đời thường chẳng nhận rơ giới tuyến giữa thiện ác. Chuyện lành vằng vặc chẳng hay là lành, điều ác rành rành nào hay là ác. Ở đây, tôi căn cứ theo kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo để nêu ra một tiêu chuẩn: nếu ngăn dè th́ là thiện, nhược bằng trái phạm th́ là ác. Để dễ hiểu, tôi dùng biểu đồ như sau:

 

 

Ba nghiệp nơi than

Sát sanh

Trộm cắp

Tà dâm

 

Bốn nghiệp nơi miệng

Nói dối (vọng ngữ)

Nói thêu dệt (ỷ ngữ)

Ác khẩu

Nói đôi chiều (lưỡng thiệt)

 

Ba nghiệp nơi ư

Tham

Sân

Si

 

Phàm là động vật có sanh mạng, bất luận lớn hay nhỏ, cứ làm thương tổn chúng đều là “sát sanh”. Phàm là tài vật hay danh dự, dù nhiều, ít, lớn nhỏ, nếu chẳng phải là vật của ḿnh, chưa được đối phương chấp thuận mà công khai đoạt lấy, hay trộm lén, cưỡng chiếm, lừa lấy th́ đều là “trộm cắp”. Ngoài vợ chồng chánh thức, hễ hành dâm với hết thảy chúng sanh, chẳng luận v́ lư do nào đều là “tà dâm”.

Ôm ḷng khinh lừa, nói lời giả dối th́ gọi là “vọng ngữ”. Chẳng luận là ngôn ngữ hay văn tự, đă viết ra, đă nói ra, tự ḿnh đề xướng, hoặc hùa theo, tạo ảnh hưởng thương phong bại tục th́ gọi là “ỷ ngữ”. Lời lẽ thô bạo, chửi mắng người th́ gọi là “ác khẩu”. Khuấy động thị phi giữa hai bên, ly gián cảm t́nh người khác th́ gọi là “lưỡng thiệt”.

Mê đắm các thứ vật dục chẳng bỏ, đă có lại mong có thêm là Tham. Có việc bất như ư, tâm nổi nóng, phát nộ khí th́ là Sân. Không có lư trí, gặp việc mê hoặc; đối với đạo lư Phật nói, kinh sách thánh hiền đều chẳng nghe theo, lại chẳng tin nhân quả th́ là Si.

 

2. Ba đại yếu quyết để văng sanh Cực Lạc: Tín, Hạnh, Nguyện

 

Niệm Phật văng sanh Cực Lạc là một phương pháp đặc biệt ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật, được gọi là “môn dư đại đạo” (đạo lớn nằm ngoài các pháp môn). Sự tuy đơn giản, lư thực thâm áo, chẳng thể dùng dăm ba câu để tŕnh bày tường tận được.

Cần phải biết là đức Phật đạo đức tối cao không ai bằng được, lời Ngài nói ra tuyệt không dối người. Chỉ nên tin thật có cơi Cực Lạc, niệm Phật được sanh về đấy. Đó chính là yếu quyết thành công thứ nhất.

Lại phải chịu nhận rơ đời ác ngũ trược đây, phát khởi tấm ḷng chân thật, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc. Đấy chính là yếu quyết thành công thứ hai.

Đă tín, nguyện rồi lại nên theo đúng phương pháp, mỗi ngày định giờ giấc thực hành công khóa. Đấy chính là yếu quyết thành công thứ ba.

 

V. Những bậc tiền bối mô phạm và kinh điển nên tham khảo

1. Một vài vị sư trưởng cổ, kim

 

Pháp môn Niệm Phật vốn phát xuất từ bi tâm độ sanh triệt để của đức Thích Ca. Pháp môn này giản tiện nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, cao siêu nhất. Nếu chẳng tu nổi pháp môn này th́ đừng bàn đến phương pháp nào khác nữa. Điểm hay của pháp môn này là người học vấn càng rộng th́ càng nghiên cứu, càng thấu hiểu cao sâu, mà người chẳng biết một chữ vẫn tu tập được. Chỉ tiếc cho những kẻ không hiểu rơ lư này, cứ cho là cách tu của mấy bà già lụm cụm, không khỏi là lầm lạc lớn lắm ư?

Xin hăy xem trên hội Hoa Nghiêm, hai vị đại thánh Văn Thù, Phổ Hiền đều khuyên tu. Hai vị đại Bồ Tát Mă Minh, Long Thọ của Ấn Độ đều soạn luận hoằng dương. Các bậc cổ đức Trung Hoa từ Huệ Viễn đại sư cho đến Ấn Quang đại sư, lịch đại tổ sư đa phần là tu các tông khác từ trước, sau đều quy hướng Tịnh Độ. Đàm Loan đại sư được xưng tụng là hàng nhục thân Bồ Tát, Trí Giả đại sư là bậc truyền đăng trong nhà Phật, đều hoằng truyền Tịnh Độ. Cận đại, Đế Nhàn đại sư của tông Thiên Thai, Thái Hư đại sư của tông Duy Thức, Hoằng Nhất đại sư bên Luật Tông, hai vị đại sư Hư Vân và Viên Anh bên nhà Thiền đều có trước tác hoằng dương Tịnh Độ.

Về phía cư sĩ, có các vị hiền giả như ông Lưu Lôi ở Lô Sơn đời Tấn, Bạch Lạc Thiên đời Đường; Tô Đông Pha, Văn Ngạn Bác đời Tống; Viên Hoằng Đạo đời Minh, Bành Xích Mộc (Bành Tế Thanh), Dương Nhân Sơn... đời Thanh. Họ đều là bậc đại học vấn, ai nấy đều đặt tâm nơi Tịnh Độ. Những vị này ai cũng biết đến. C̣n nhiều vị như thế, nhất thời chẳng thể nêu rơ hết, nên cũng không nói thêm nữa.

Chúng ta hăy tự vấn: trí huệ, đức năng của ḿnh so với những bậc thánh hiền ấy, ai cao, ai thấp? Họ đều là bậc tu Tịnh, hoằng Tịnh. Trái lại, bọn ta lại xem thường. Tri kiến như vậy có thể nói là tri kiến chánh xác được chăng?

 

2. Kinh điển nên tham khảo

 

Tam Tạng kinh điển đâu đâu cũng chỉ dạy, quy hướng pháp môn Tịnh Độ, nhưng ai có thời gian để nghiên cứu trọn hết, cho nên trước hết chỉ kể những kinh điển chuyên biệt.

Về kinh có A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Trong ba bộ này, tối thiểu là phải đọc kinh A Di Đà mấy lượt. Nếu đủ sức, hăy nên đọc kỹ bộ Tịnh Độ Thập Yếu đôi ba lượt ngơ hầu hiểu đại khái pháp môn Tịnh Độ. Nếu chẳng hiểu nổi th́ những cuốn như Kỹ Lộ Chỉ Quy, Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam, Phật Pháp Đạo Luận... là những cuốn sách nhỏ viết bằng thể văn Bạch Thoại để tiếp dẫn người sơ cơ.

Tịnh Độ Tam Yếu Thuật Nghĩa, Long Thư Tịnh Độ Văn là những tập sách nhỏ viết theo thể loại văn ngôn, tùy sức đọc vài lượt cũng hiểu được đại lược những điểm quan trọng. Ấn Quang Đại Sư Văn Sao giống như một quyển ngữ lục của Tịnh Độ, An Sĩ Toàn Thư có những mẫu chuyện cũ khá hứng thú. Hai quyển này là có thể giúp người học khai phát trí huệ, chánh tri kiến.

Nếu có thể đọc hết các sách trên xong, xem thêm các kinh khác sẽ thấy dễ dàng hơn.

 

VI. Hai loại tâm lư sai lầm thường gặp

1. Chấn chỉnh kiến chấp phổ biến “tâm tốt th́ cũng giống như niệm Phật”

 

Tâm ai nấy đều đầy dẫy tham, sân, si, thân thường luôn gây tạo sát, đạo, dâm, vẫn cường điệu cố nói là tâm ḿnh tốt, chẳng phải là lầm lạc đến mức cùng cực ư? Giả sử như có tâm tốt thật sự th́ cũng chẳng ngoài mười thứ thiện nghiệp đă nói ở phần trên mà thôi. Đấy chỉ đáng gọi là “tu phước”, kiếp sau sẽ hưởng tiểu quả nhân, thiên, chứ vẫn không thoát khỏi luân hồi. Chẳng đến được cơi Cực Lạc là do đi không đúng đường. Muốn văng sanh Cực Lạc th́ phải tu Huệ, mà tu Huệ chính là niệm Phật. Nhân thế nào, quả thế ấy. Phước là phước, huệ là huệ, phải phân biệt rơ ràng, chẳng thể coi là cá mè một lứa đến nỗi lầm lạc đại sự!

 

      2. Chấn chỉnh lời viện cớ “bận rộn quá không có thời gian niệm Phật”

     

Niệm Phật chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn, sanh về Cực Lạc, c̣n sự nào lớn lao hơn pháp này nữa, nhưng lại xem rất thường. Phần nhiều người đời hay viện mấy lư do như quá bận rộn, không có thời gian để cự tuyệt pháp đại tiện nghi vạn kiếp khó được gặp gỡ này, thật đáng tiếc quá!

Có thật sự bận rộn hay chăng? Tôi chẳng thấy vậy. Niệm Phật th́ đi, đứng, nằm, ngồi đều làm được; dù là sĩ, nông, công thương đều chẳng trở ngại ǵ. Nếu chẳng tin th́ dưới đây tôi sẽ dẫn một bài ca ngắn để người đời đối với những sinh hoạt thường nhật có thể phân tích rơ ràng. Tôi tin rằng sau khi xem bài ca này xong, nhất định quư vị sẽ chẳng c̣n cười được nữa.

     

Bài ca chẳng nhàn

 

      Biết ngài vốn chẳng bận,

      Cứ cố nói chẳng nhàn,

      Trong hai mươi bốn giờ,

      Nằm ngủ mất tám giờ,

      Ba bữa ăn ba tiếng

      Lại uống trà, hút thuốc

      Chải gỡ, đại tiểu tiện,

      Phí mất khoảng một giờ,

      Đi ra ngoài uống rượu

      Về chuyện gẫu cùng vợ

      Ít nhất vài ba giờ,

      Lại e ḷng bận bịu,

      Thân mệt tính ngủ trưa,

      Ngủ hai giờ chẳng đă,

      Mất đi mười sáu giờ,

      Uổng phí hơn quá nửa,

      Trong tám giờ c̣n lại,

      Chưa chắc đă bận thật.

      Niệm Phật được nửa tiếng

      Đă kêu lâu lắm rồi

      Hăy xem người xưa nay,

      Mấy ai bảy mươi tuổi?

      Đừng đem khổ sanh tử,

      Vất ra đằng sau ót,

      Việc chân chánh của ḿnh,

      Vạn vạn lần khẩn cấp,

      Xin hăy gấp tỉnh ngộ,

      Mau trồng chín phẩm sen.

     

      Phụ Lục

      Yếu quyết niệm Phật

     

Trong lúc niệm Phật, hết thảy mọi sự trong tâm đều buông xuống hết, đừng nghĩ tưởng loạn xạ, chỉ c̣n quan tâm đến sáu chữ hồng danh từ tâm ḿnh phát khởi, từ miệng ḿnh vang ra, lọt vào chính tai ḿnh, in sâu vào tâm. Phải tưởng cho rơ, niệm cho rơ, nghe cho rơ. Có như vậy th́ mới cảm ứng được.

 

      GIẢI ĐÁP NGHI VẤN

     

1) Có người nói: Chúng tôi là công chức, giáo chức, ở cư xá công cộng th́ cúng Phật, lễ Phật, đương nhiên là bất tiện, niệm Phật cũng làm phiền người khác bất an, tôi chẳng biết làm sao?

      Đáp: Chốn công cộng đúng thật là có nhiều nỗi bất tiện, nhưng việc ǵ cũng có cách để dung thông cả. Nếu như đă biết niệm Phật là đại sự th́ cứ thành tâm thầm niệm, ắt có hiệu quả lớn. Bởi lẽ tâm niệm c̣n càng khẩn mật hơn miệng niệm, bất tất phải cúng Phật, lễ Phật ra tiếng.

      2) Có người nói: Niệm Phật tuy tốt, nhưng phải đến chùa, miếu, liên xă hay trai đường, tôi không có thời gian.

      Đáp: Không nhất định phải đến những nơi đó, không có thời gian đi ra ngoài, nhưng chẳng lẽ ở nhà không có thời gian nào rảnh sao? Cứ ở nhà niệm Phật nào có trở ngại chi.

      3) Có người nói: Niệm Phật là việc của kẻ có tiền, tôi không có tiền bạc dư dả!

      Đáp: Thế là lại càng lầm hơn nữa! Niệm Phật chẳng tốn tiền mấy. Ba cây nhang đáng giá là bao? Dù chẳng đốt lấy một cây nhang cũng chẳng quan hệ ǵ. Chỉ cốt sao trong tâm cung kính là đủ.

      4) Có người nói: Niệm Phật là phải ăn chay, tôi không làm được, cho nên tôi không thể niệm Phật?

      Đáp: Tạm thời bất tất phải ăn chay, chỉ nên kiêng sát sanh th́ cũng có công đức lớn. Có thể tập ăn ba thứ tịnh nhục, tức là không v́ ḿnh mà giết, chẳng thấy con vật bị giết, chẳng nghe nó bị giết. Cá, thịt ngoài chợ làm sẵn rất nhiều, đủ để cho quư vị ăn rồi.

     

* NIỆM PHẬT TAM ĐẠI LỢI ÍCH

(BA ĐIỀU LỢI ÍCH LỚN CỦA NIỆM PHẬT)

     

      1) Một câu Phật hiệu tiêu diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử (thuộc về quá khứ)

      2) Một câu Phật hiệu tiêu diệt phiền năo của nhân sanh, tiêu tai, diên thọ, hưởng phước huệ (thuộc về hiện tại)

      3) Một câu Phật hiệu khiến ta thoát khỏi lục đạo luân hồi, văng sanh thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn trường sanh bất diệt (thuộc về tương lai)

 

* PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT

     

      Hỏi: Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm mà phải chú tâm đúng không?

      Đáp: Có nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng chẳng để tâm vào đó, trong ḷng toàn là suy xằng nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng vô dụng. Miệng niệm Phật th́ tâm phải tưởng Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ một câu niệm Phật ra không c̣n nghĩ đến ǵ khác nữa, không c̣n có ư niệm nào khác khởi lên. Có vậy mới gọi là Nhất Tâm Bất Loạn, từ đó mới dễ thành công.

      Hỏi: Như vậy chẳng phải là khó lắm ư?

      Đáp: Xem ḱa! Một mặt quư vị chê niệm Phật quá dễ dàng, một mặt lại sợ nó quá khó. Thật sự ra, một pháp Niệm Phật đây, bảo là dễ th́ nó cực dễ, bảo là khó th́ nó cũng cực khó. Chẳng qua là chẳng cần biết là khó hay dễ, chỉ đáng kể ḿnh có thể bền ḷng niệm được nhiều hay không. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên tâm chẳng loạn nữa. Lời tục thường nói: “Trên đời không có việc ǵ khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên”, chính là ư này.

Lại có một cách niệm Phật như sau: Mỗi lúc niệm Phật, mỗi chữ phải phát xuất từ trong tâm. Trong tâm tưởng thật rơ ràng, miệng niệm cho thật rơ ràng, tai nghe thật rơ ràng. Mỗi một chữ phát xuất từ trong tâm, thấu qua tai lọt vào tâm, một chữ cũng chẳng để lọt mất. Tu tập lâu dài như vậy, tâm tự nhiên chẳng c̣n tán loạn. Đấy chính là một phương pháp khẩn yếu bậc nhất, ngàn vạn phần chớ quên.

      Hỏi: Nên niệm Phật vào lúc nào?

      Đáp: Nên niệm Phật vào hai thời sáng tối, lập một công khóa nhất định, hạn định số câu niệm Phật nhiều ít: hoặc là mấy trăm câu, mấy ngàn câu, tùy theo hoàn cảnh mỗi người mà định số. Chẳng cần biết là rảnh hay bận, không niệm đủ số đó không được. C̣n ngoài ra th́ chẳng cần biết là lúc nào, đang ở chỗ nào đều niệm được cả. Càng niệm nhiều càng tốt. Thời gian niệm càng lâu càng hay.

      Hỏi: Vừa làm việc vừa niệm Phật được không?

      Đáp: Lúc đang vác củi, gánh nước cũng niệm Phật được. Lúc đang cọ nồi, rửa chén cũng niệm Phật được. Lúc cày bừa, cuốc xới, cắt cứa cũng niệm Phật được. Chẳng luận là đi, ngồi, ngủ nghê, thậm chí lúc đang đại tiểu tiện cũng đều có thể niệm Phật. Nói chung, trừ lúc phải dùng trí óc làm việc, ngoài ra th́ dù đang làm ǵ cũng chẳng trở ngại việc niệm Phật cả.

      Hỏi: Nên niệm Phật lớn tiếng hay là niệm nhỏ tiếng?

      Đáp: Niệm lớn tiếng cũng tốt, niệm nhỏ tiếng cũng hay. Miệng không niệm nhưng tâm thầm niệm cũng tốt. Chỉ trừ lúc đang nằm trên giường hay đang ở chỗ không sạch sẽ th́ nên thầm niệm trong tâm, chẳng được niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là không cung kính. Nhưng lúc gặp chuyện nguy cấp, chẳng cần biết là đang ở chỗ nào, cứ việc niệm ra tiếng.

      Hỏi: Học Phật th́ nên thờ h́nh Phật nào?

      Đáp: Thờ một ḿnh đức A Di Đà Phật hoặc tượng Tây Phương Tam Thánh đều được (A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí gọi là Tây Phương Tam Thánh).

      Hỏi: Nên thờ tượng Phật ở chỗ nào?

      Đáp: Nếu có pḥng trống, dành riêng một pḥng thờ Phật là tốt nhất. Nếu không có, thờ Phật ngay trong pḥng ḿnh ở cũng được. Nói chung là phải chọn nơi sạch sẽ. Trước tượng treo màn vải vàng, lúc không niệm Phật, buông màn xuống. Làm vậy để khỏi đến nỗi khinh nhờn. Tốt nhất là để tượng Phật hướng mặt về Đông, người niệm Phật đối trước tượng Phật, hướng mặt về Tây. Nếu chẳng thể làm vậy được th́ thờ tượng ở phương nào thuận tiện cũng được.

      Hỏi: Nếu không có chỗ nào thuận tiện, không thờ Phật có được không?

      Đáp: Nếu thực sự không có chỗ nào thuận tiện, miễn sao tâm thành th́ không thờ tượng Phật cũng được. Lúc niệm Phật hướng về Tây là ổn.

      Hỏi: Nên dùng những thứ ǵ để cúng dường Phật?

      Đáp: Thông thường dùng hương, hoa, đèn, nước trong, trái cây v.v... Nếu không lo liệu được, thiếu một vài thứ hoặc không có thứ ǵ hết cũng xong; nhưng tuyệt đối chẳng được cúng rượu hoặc đồ mặn cũng như đốt giấy tiền, vàng mă trước Phật.

      Hỏi: Nên hành lễ trước Phật như thế nào?

      Đáp: Tùy ư. Hoặc là dập đầu lạy, hoặc là vái, hoặc khom ḿnh, hoặc chắp tay; nhưng dập đầu lễ bái là cung kính nhất, có thể tiêu tội, tăng phước.

      Hỏi: Lúc niệm Phật có nên quỳ trước mặt Phật không?

      Đáp: Chẳng nhất định. Quỳ niệm, đứng niệm, vừa đi vừa niệm đều được. Cốt yếu là phải thành tâm. Quỳ niệm rất tốt mà ngồi niệm cũng hay.

      Hỏi: Cụ nói hai thời niệm Phật sáng tối, phải lập một khóa tŕnh, phiền cụ lập cho tôi một khóa tŕnh có phải là hay hơn không?

      Đáp: Khóa tŕnh vốn là dựa theo thời gian, sức lực của chính mỗi người mà quy định. Ngài đă cầu tôi th́ tốt nhất là tôi soạn ra một nghi thức thật đơn giản cho ngài vậy.

      Nếu như ngài có sức th́ có thể hành tŕ thêm nhiều hơn, có thể thêm vào kinh Di Đà, chú Văng Sanh, kệ Tán Phật, văn Đại Phát Nguyện. Những bài kinh ấy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có chép đủ cả, những chỗ lưu thông kinh Phật đều có. Khóa sáng th́ lúc vừa ngủ dậy, khóa tối th́ trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng, đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau:

      - Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (niệm một lần, lễ một lạy).

      - Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy).

      - Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật (niệm một lần, lễ một lạy).

- Nam mô A Di Đà Phật (trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều càng hay. Tùy mỗi người rảnh hay bận mà định số, nhưng phải từ ít tăng lên nhiều, chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Bất luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần phải lạy).

- Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).

- Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (như trên).

- Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (như trên).

- Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ.

Trên đền bốn ân nặng.

Dưới cứu khổ tam đồ

Nếu có ai thấy nghe.

Đều phát ḷng Bồ Đề,

Hết một báo thân này,

Cùng sanh cơi Cực Lạc.

(lễ ba lạy)

      Hỏi: Khóa tŕnh này rất hay, xin giảng thêm về chữ “thập phương Tam Bảo”.

      Đáp: Tám phương, phương trên và phương dưới gọi là mười phương. Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Phật là Giáo Chủ. Pháp là kinh điển để tu nhân chứng quả do Đức Phật giảng. Tăng là những pháp tử chiếu theo lời Phật dạy tu hành, đă chứng thánh quả Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và các cao tăng đạo cao, đức trọng, hoằng pháp lợi sanh.

Phật, Pháp, Tăng đều gọi là Bảo (quư báu) v́ có thể phát sanh, tăng trưởng Pháp Thân, huệ mạng của hết thảy chúng sanh, giống như của báu trong thế gian có khả năng nuôi sống thân mạng của con người. Phải hiểu rằng khi niệm Tam Bảo chính là biểu thị ta hoàn toàn lấy Phật, kinh điển do đức Phật đă nói và các vị Bồ Tát, cao tăng tu hành đúng theo lời Phật làm thầy của ḿnh. Ta từ những vị đó quy hướng trở thành tín đồ Phật giáo.

      Hỏi: Xin hỏi v́ sao phải niệm Phật Thích Ca?

      Đáp: Là v́ pháp môn Niệm Phật do chính Ngài dạy cho chúng ta. Niệm Phật lạy Ngài chính là chẳng dám quên bỏ nguồn gốc vậy.

      Hỏi: Tại sao lại c̣n phải niệm Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát?

      Đáp: V́ người niệm Phật lúc lâm chung, hai vị Bồ Tát này cùng với đức A Di Đà Phật đồng thời đến tiếp dẫn về Tây Phương. V́ thế niệm Phật xong phải niệm danh hiệu và lễ bái hai vị Bồ Tát này.

      Hỏi: Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát là những vị Bồ Tát nào?

      Đáp: Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát là tất cả những vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc đều rất thanh tịnh. Ba chữ Đại Hải Chúng ngụ ư các vị Bồ Tát ấy nhiều như nước biển. Sớm muộn ǵ ta cũng sẽ làm bầu bạn với các vị Bồ Tát ấy; v́ thế, cần phải niệm niệm lễ bái họ.

      Hỏi: Kệ Hồi Hướng có tác dụng ǵ?

      Đáp: Công dụng của bài kệ Hồi Hướng rất lớn. Người tu hành bất luận là niệm Phật, hay niệm kinh, niệm xong, nhất định phải niệm kệ Hồi Hướng một lượt. Hồi Hướng có nghĩa là gom về, tức là một phương pháp đem công đức niệm Phật, niệm kinh gom về một nơi. Gom về nơi nào? Gom về việc cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới!

Chẳng riêng ǵ niệm Phật, niệm kinh mới hồi hướng về Cực Lạc thế giới, mà bất luận làm việc lành nào cũng đều phải hồi hướng về Cực Lạc thế giới. Càng tích thêm được một phần công đức th́ hy vọng được văng sanh càng tăng thêm một phần. Nếu làm công đức nhưng chẳng hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc th́ chỉ sợ đời sau chỉ được hưởng báo ứng trong cơi trời, cơi người, vẫn cứ luân hồi trong lục đạo, chẳng được giải thoát. Phước báo càng lớn, càng dễ tạo tội, nên kiếp kế tiếp đó càng đáng sợ hơn.

V́ thế, người học Phật phải nên đem hết thảy công đức hồi hướng văng sanh Tây Phương th́ lúc lâm chung mới có hy vọng được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi Hướng cũng giống như niệm Phật, phải từng chữ, từng câu phát xuất từ nội tâm, chẳng thể niệm suông nơi cửa miệng được.

      Hỏi: Xin cụ giảng qua ư nghĩa từng câu trong bài kệ Hồi Hướng.

      Đáp: Câu thứ nhất và câu thứ hai nghĩa là ta đem công đức niệm Phật hỗ trợ cơi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà khiến cho nó càng thêm tốt đẹp phi thường. Câu thứ ba nghĩa là lại đem công đức ấy trên là báo đáp bốn tầng ân đức: cha, mẹ, sư trưởng và đức Phật. Câu thứ bốn nghĩa là dưới th́ dùng công đức cứu vớt những chúng sanh khổ năo trong ba đường ác: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Câu thứ năm và thứ sáu nghĩa là nếu có ai thấy, nghe người đang niệm Phật, niệm kinh sẽ đều phát khởi tấm ḷng trên cầu Phật Quả, dưới độ chúng sanh. Câu thứ bảy và thứ tám nghĩa là sau khi cái thân báo ứng này đă hoàn toàn chấm dứt th́ mọi người sẽ cùng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Giải thích theo từng câu văn th́ ư nghĩa của bài kệ Hồi Hướng là như vậy.

Nói chung, tám câu kệ này lại có hai tầng ư nghĩa lớn.

Tầng thứ nhất là: Chúng ta niệm Phật là để cầu sanh về Tây Phương, chứ chẳng phải v́ cầu công danh, phú quư hay hết thảy những điều tốt đẹp của thế gian.

Tầng thứ hai là: Chúng ta niệm Phật là để cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly khổ hải, chứ chẳng phải v́ riêng bản thân ḿnh. Đă hiểu rơ tầng ư nghĩa thứ hai này rồi th́ bất luận là niệm Phật, niệm kinh hay làm bất cứ điều lành ǵ đều luôn giữ tấm ḷng như thế, hồi hướng như thế. Có như vậy mới là người học Phật phát Bồ Đề tâm chân chánh.

      Hỏi: Khóa tŕnh cụ vừa lập ở trên cố nhiên rất đơn giản, nhưng có người quá đỗi bận rộn, không lúc nào rảnh th́ làm sao thực hiện được?

      Đáp: Vẫn có biện pháp. Bất luận là đang ở đâu hay bất cứ lúc nào (niệm vào lúc sáng sớm tốt nhất), hướng mặt về Tây, lễ ba lạy, liền niệm sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật” cho đến hết một hơi. Hơi dài th́ niệm một hơi mươi câu càng hay. Hơi ngắn th́ một hơi niệm vài câu cũng được. Tổng cộng niệm đủ mười hơi rồi niệm kệ Hồi Hướng. Niệm xong, hướng về Tây lạy ba lạy là xong. Đây gọi là pháp Thập Niệm. Người rất bận mỗi ngày thành tâm chiếu theo phương pháp này mà niệm th́ tương lai cũng có thể được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, là v́ đức Phật A Di Đà đă từng phát nguyện nên tự nhiên được văng sanh không sai!

     

* CHƯA CHỨNG CHÂN NHƯ TH̀ ĐỐI VỚI LƯ NHÂN DUYÊN PHẢI RẤT CẨN TRỌNG

     

      Học Phật chú trọng “hạnh giải tương ứng”. Hiểu (giải) nhưng không hành giống như kể tên thức ăn, đếm của cải. Hành mà không hiểu dễ lạc ngơ rẽ. Cả hai đều mắc lỗi. Nay người tu Tịnh Độ chỉ nói là niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chỉ biết bám víu theo quả, đến nỗi chẳng biết những điều ḿnh niệm đó là đúng pháp hay không, cứ coi nhẹ, chẳng gia công xem xét. Bởi vậy thành ra mất cả nhân lực lẫn duyên lực, há chẳng phải là chẳng biết chăm lo cái gốc đó ư? Kinh dạy: “Nhân địa chẳng chân sẽ cảm quả cong vạy”. Kinh c̣n dạy: “Duyên là hết thảy công đức thiện căn, hỗ trợ liễu nhân, khai phát chánh nhân”. Ôi! Há có nên chẳng suy nghĩ kỹ càng chăng?

      Nói đến Tịnh Độ là nói đến quả thanh tịnh, không phiền năo nghịch ác. Niệm Phật là lấy cái tâm không nghịch ác, phiền năo, thanh tịnh làm nhân. Thêm nữa, hành các điều thiện, vạn đức chính là trợ duyên cho nhân ấy. Nhân và duyên ví như hai cánh chim; phải cùng nâng cả hai cánh mới có thể bay cao, bay xa, đạt tới chỗ ḿnh hướng đến. Phải cùng tu cả nhân lẫn duyên th́ mới thành tựu được quả.

      Cổ đức biết rơ như thế nên khi dạy người không vị nào chẳng đề cao nhân, nào là “thanh tịnh ư ḿnh”, nào là “tâm tịnh cơi nước tịnh” để hiển thị rằng: Muốn chứng tịnh quả, phải gieo tịnh nhân. Tuy bảo là “đới nghiệp văng sanh”, nhưng nghiệp nói đó chỉ là nghiệp quá khứ vẫn c̣n ẩn tàng, chứ chẳng phải cứ tạo tội nghiệt mà vẫn được văng sanh. Đủ thấy, [chư cổ đức] chẳng chấp nhận [hành nhân gây tạo] lỗi mới. Hiểu rơ lẽ này th́ vạn người tu, vạn người về. Hễ lầm lạc th́ nhân lẫn lực chẳng đủ, mong chứng quả sao được?

      Ba kinh Tịnh Độ đều trọng trợ duyên, cực lực khen ngợi phước đức. Kinh Tiểu Bổn (kinh A Di Đà) dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên mà được sanh về cơi ấy”. Kinh Đại Bổn (kinh Vô Lượng Thọ) dạy: “Khiến cho bỏ ngũ ác, trừ năm sự đau đớn, ĺa khỏi năm sự thiêu đốt”. Quán Kinh dạy: “Muốn sanh về cơi ấy nên tu ba thứ phước”. Kinh dạy rành rành, dù có nhân nhưng thiếu duyên, dễ đâu thành tựu!

      Có kẻ bảo: “Niệm Phật một câu có thể tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Nghiệp đă tiêu rồi th́ cần ǵ phải nhọc công giảng giải, suy xét nhân duyên nữa cơ chứ?

      Tôi bảo: “Một niệm sân tâm dấy, mở ra tám vạn chướng môn (ư nói phiền năo chướng). Chướng môn đă mở th́ nghiệp lại chẳng sanh khởi hay sao? Phần lớn những học nhân hiện thời, một mặt niệm Phật, một mặt tạo nghiệt, khác nào tay phải quét dọn, tay trái vẩy bụi. Hăy thử tự vấn chính ḿnh siêng năng, lười nhác thế nào; nếu chẳng tự dối ḿnh th́ ắt sẽ câm lặng, hết c̣n cười được nữa! Bởi thế, người thật thà niệm Phật th́ không một ai là chẳng kinh sợ nhân duyên. Nhân duyên bất tịnh, lại chẳng thật thà th́ đối với Hạnh và Giải, có được thứ ǵ hay không? Cầu được văng sanh kiểu đó chỉ là chuyện mơ tưởng, cầu may mà thôi”.

     

* CHẲNG HIỂU GIÁO TƯỚNG TH̀ KHÓ THỂ BÀN CHUYỆN CÓ - KHÔNG

     

      Nhà Phật nói Không, nói Có, giống như bàn tay và nắm tay, vốn chỉ là một sự. Kinh dạy: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Truy đến cội nguồn, giáo thuyết này phát xuất từ Bát Nhă. Pháp môn này từ lúc Phật đản sanh măi cho đến thời thuyết giáo thứ tư, Phật mới phu diễn; bởi lẽ giáo thuyết này chẳng dành cho kẻ sơ cơ, phải hiểu rơ như thế. Người không khéo học cứ khăng khăng chấp chặt một bề đến nỗi đường rộng thênh thang, nhưng vẫn đi lạc. Rườm lời loạn xị, càng tăng tranh căi, lợi sanh ở chỗ nào?

      Hữu là Diệu Hữu, tức là luận về Tướng. Không là Chân Không, tức là bàn về Thể. Do Thể là Không nên Hữu bất biến. Do Tướng là Có nên Hữu tùy duyên; nhưng thực ra, Tướng lại nương vào Thể mà khởi, Thể cũng nhờ vào Tướng để hiển lộ. Chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật, là hai, là một. Nếu hiểu trọn vẹn, lănh hội được ư chỉ viên tu ấy th́ chắc chắn sẽ chẳng tự ḿnh mâu thuẫn, bảo là có hai con đường nữa!

      Nay người tin vào Tịnh Độ là tin vào những thứ trang nghiêm được nói trong ba kinh Tịnh Độ. Đấy là nói về Tướng, hoàn toàn chẳng phải là chuyện ngụ ngôn của Trang Tử. Kẻ ngờ Tịnh Độ, chỉ nói là “duy tâm tự tánh”, đấy là nói về Thể, há phải là xem thường tam thân của Như Lai. Nếu phỉ báng lẫn nhau th́ khác ǵ gần lửa toan không chịu nóng, gần nước toan không chịu bị ướt, sao c̣n có nghĩa “Sắc tức Không”, sao c̣n có nghĩa Bất Biến Tùy Duyên được nữa?

      Phàm những ai nghiên cứu Tịnh Độ đôi chút đều biết Tịnh Độ có bốn phần: Cơi Thật Báo là nói về Tướng, cơi Tịch Quang chẳng phải là luận về Thể hay sao? Lấy Thể bỏ Tướng th́ cố nhiên Lư chẳng viên dung, mà Sự cũng chẳng chân thật vậy! Nếu như đối với Tây Phương đă chỉ chấp nhận duy tâm tự tánh làm Thể, chẳng chấp nhận các tướng Cực Lạc, Di Đà, ba chỗ trang nghiêm th́ lẽ ra đối với Đông Độ cũng chỉ nên chấp nhận “duy tâm tự tánh” là Thể, chẳng chấp nhận có tướng Sa Bà, Thích Ca, tám khổ, tam đồ chứ!

Nếu như đă chấp nhận các tướng cơi Sa Bà là có th́ cũng phải chấp nhận các tướng của cơi Cực Lạc chẳng phải là Không. Có như vậy th́ Sự và Lư mới chẳng mâu thuẫn. Nếu không th́ có khác ǵ nói tay người bên Tây Phương chỉ có nắm tay, tay người Đông Độ chỉ có bàn tay cơ chứ? Hoặc cũng giống như nói: Tôi chỉ chấp nhận những ǵ trong tâm, chẳng chấp nhận những ǵ ở ngoài tâm. Thử nghĩ xem: Có pháp nào ở ngoài tâm, ngoài tâm là chỗ nào vậy?

     

* TÔNG PHÁI

 

      Phật giáo chia thành các tông phái là v́ các học giả Trung Quốc thấy Phật pháp nhiều như biển cả, muốn cho dễ tu tập nên mỗi vị chọn lấy một đường ḥng cầu chuyên tinh, chứ nào phải là tạo dựng môn hộ để chấp nhận điều này là đúng, chê điều kia là sai! Các tông lập danh dựa theo nơi chốn, tên người, hoặc pháp môn sai khác. Dưới đây tuy liệt kê danh mục mười tông, nhưng trên thực tế, có vài tông được rất ít người nghiên cứu.

     

1. Thành Thật Tông (c̣n gọi là Không Tông)

 

Pháp Sư Ha Lê Bạt Ma soạn luận Thành Thật rất giống với giáo nghĩa Đại Thừa. Đại khái là “thành lập ư nghĩa chân thực của kinh điển”. Vào thời đại Diêu Tần, khi bộ luận này được đại sư Cưu Ma La Thập dịch ra th́ tông này mới được sáng lập.

 

      2. Câu Xá Tông (c̣n gọi là Hữu Tông)

     

Chữ Câu-xá (Kosa) được dịch là Tàng (chứa đựng) hoặc Kiển (kén tằm), ngụ ư “bao hàm”. Ở Ấn Độ, các bộ luận Tiểu Thừa rất nhiều, sau được kết tập thành Đại Tỳ Bà Sa Luận. Bồ Tát Thế Thân dựa theo luận này chiết trung, soạn thành luận Câu Xá, dịch nghĩa là “giải thích phát trí” (cởi mở, đả thông vướng mắc khiến cho trí huệ phát sanh). Tông này được thành lập từ khi hai vị pháp sư Chân Đế đời Trần và Huyền Trang đời Đường dịch luận này ra tiếng Hán.

 

      3. Thiền Tông (c̣n gọi là Tâm Tông)

     

Thiền là gọi tắt của chữ Thiền-na (Dhyāna), dịch nghĩa là Tịnh Lự. Tông này do tổ sư Đạt Ma vào đời Lương từ Tây Trúc qua Trung Hoa lập ra, chủ trương “chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Đại khái là đă ngộ rồi mới khởi tu. Tuy nói là “chẳng lập văn tự” nhưng lại là tông có nhiều sách vở nghiên cứu về Bát Nhă nhất.

 

      4. Luật Tông (c̣n gọi là Nam Sơn Tông)

     

Tông phái này dùng phương pháp y theo những cấm chế của Phật để tịnh trừ những ác nghiệp nơi thân, khẩu, ư. Sáng tổ là ngài luật sư Nam Sơn Đạo Tuyên đời Đường, lấy luật Tứ Phần làm kinh điển chủ yếu.

 

      5. Thiên Thai Tông (c̣n gọi là Pháp Hoa Tông)

     

Đời Tùy, Trí Giả đại sư ở núi Thiên Thai lấy kinh Pháp Hoa làm kinh điển căn bản, sáng lập ra tông này. Ngài phát minh diệu lư “nhất tâm tam quán”. Đối với học thuyết phán giáo giải nghĩa, Ngài đă hệ thống hóa rất tinh xác. Các tông mỗi khi diễn giảng giáo nghĩa, đa phần dựa theo phương thức phán giáo của Ngài.

     

6. Hiền Thủ Tông (c̣n gọi là Hoa Nghiêm Tông)

     

Ḥa Thượng Đỗ Thuận đời Đường lấy kinh Hoa Nghiêm làm kinh điển căn bản, sáng lập ra tông này. Đến đời tổ thứ ba là Hiền Thủ đại sư lại gia công chỉnh lư khiến cho giáo nghĩa minh xác, tinh vi phi thường. Ngài phát minh giáo thuyết “nhất chân pháp giới”; đây chính là giáo nghĩa uyên áo nhất của tông này.

     

7. Từ Ân Tông (c̣n gọi là Pháp Tướng Tông, cận đại gọi là Duy Thức Tông)

     

Kinh điển chủ yếu để y cứ của tông này là các kinh Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v... và Thành Duy Thức Luận, chủ trương “chuyển Thức thành Trí”. Đời Đường, do pháp sư Huyền Trang ở chùa Từ Ân phiên dịch, hoằng dương [luận Thành Duy Thức] nên tông này mới được thành lập.

     

8. Tam Luận Tông (c̣n gọi Tánh Tông)

     

Bồ Tát Long Thọ soạn ra Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận, Đề Bà Bồ Tát soạn Bách Luận. Ba bộ luận này đại khái thuyết minh “nghĩa lư chân thực trong Đại Thừa và phá chấp, phá chướng”. Từ khi ngài Cưu Ma La Thập dịch các bộ luận này vào đời Diêu Tần, tông này mới được thành lập.

 

9. Mật Tông (c̣n gọi là Chân Ngôn Tông)

 

Mật có nghĩa là “bí áo” (kín đáo, sâu thẳm). Ư nói cảnh giới rất sâu của Phật, nếu chẳng phải là hàng Đẳng Giác Bồ Tát th́ chẳng thể hiểu rơ, đề ra phương pháp “tam mật tương ứng, tức thân thành Phật” (thân, khẩu, ư đều mật, thành Phật ngay trong thân này). Kinh điển căn bản là kinh Kim Cang Đảnh, kinh Đại Nhật v.v... Tông này do hai vị đại sư Kim Cang Trí và Bất Không lập ra vào đời Đường; nhưng hiện tại được lưu hành ở Trung Quốc chính là Mật Giáo Tây Tạng và Mông Cổ, họ lại chia ra các phái Hồng, Hoàng, Bạch v.v...

 

10. Tịnh Độ Tông (c̣n gọi là Liên Tông)

 

Do đại sư Huệ Viễn đời Tấn sáng lập, lấy ba kinh Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Kinh làm kinh điển chủ yếu. Chủ trương “bốn pháp niệm Phật, đới nghiệp văng sanh Cực Lạc”. Phương pháp của tông này là độ khắp ba căn, thâu trọn lợi độn. V́ thế, người tại gia tu tập càng thật tiện lợi.

Thứ tự của mười tông này là căn cứ theo cuốn Thích Giáo Tam Tự Kinh của lăo nhân Lư Xuy Vạn đời Minh. Cuốn này từng được Ấn Quang đại sư trùng đính vào đời Thanh, sau lại được cư sĩ Dương Nhân Sơn san định, nhuận sắc. Thứ tự này có lẽ là có dụng ư. Dùng ư kiến thô thiển của ḿnh để suy xét, tôi xin thử tŕnh bày như sau:

1) Nếu căn cứ vào Thừa th́ chia ra hai tông thuộc Tiểu Thừa, bảy tông Đại Thừa. Luật Tông gồm cả Tiểu lẫn Đại. Lẽ tự nhiên là nêu Tiểu trước rồi mới nêu Đại, nên Thành Thật và Câu Xá được nêu trước, Luật Tông nêu trung gian, kế tiếp nêu tên các tông khác.

2) Nếu luận theo giáo nghĩa th́ Thiền Tông là “truyền Phật tâm ấn”, là pháp tối cao, nên nêu tên trước tiên trong các tông Đại Thừa. Tịnh Tông độ khắp ba căn, là pháp rộng nhất nên liệt kê sau cùng; giống như xe có hai bánh. Các tông khác được kể ở trung gian khác như thùng xe, gọng xe... Xe có công năng chuyên chở, bánh xe có sức mạnh vận chuyển.

3) Nếu luận về mặt hành tŕ th́ Giới Luật là căn bản của các hạnh nên ngay sau khi biết Thiền, hiểu Tông th́ trước hết phải lấy ngay Luật làm căn bản chánh. Học quư cầu hiểu, tánh - tướng của hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ đều là kim chỉ nam cho giáo lư nên phải được nêu ngay tiếp sau đó để người học hiểu rơ giáo tướng. Hiểu rồi th́ quư ở chỗ thực hành nên Mật, Tịnh chính là các phương pháp chuyên tu tŕ được nêu sau rốt, khiến cho người học biết chỗ quy túc.

Trong mười tông, hai tông Luật và Tịnh đều mang đặc tánh phổ thông. Chẳng cần biết là tông nào, đều phải thọ tŕ giới luật, đều có thể kiêm tu niệm Phật. Bởi lẽ, không giới hạnh th́ vạn đức chẳng lập, có niệm Phật th́ sẽ thành tựu ổn thỏa nhất.

 

PHẦN THỨ HAI:

PHẬT THẤT KHAI THỊ

 

I. KHAI THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM NHÂM TƯ

(đệ tử Ngô Thông Long kính ghi)

 

1. KHAI THỊ LẦN THỨ NHẤT

 

Niệm Phật kết thất tính đến nay đă là hai mươi ba năm rồi, những liên hữu đă mất tính ra có đến một ngàn sáu trăm vị. Có vị được văng sanh, có vị chẳng văng sanh. Số văng sanh chiếm thiểu số, phần nhiều là thuộc vào thời gian mười năm trước, mười năm sau thật là ít ỏi. Sa sút như thế, chẳng buốt ḷng sao! Chuyện cũ lỡ rồi, tương lai phải gắng, xin hăy bắt đầu từ hôm nay!

Niệm Phật để được văng sanh, để được giải thoát thực sự. Kết thất là “khắc kỳ cầu chứng”, tức là trong thời gian định kỳ cầu đạt được chứng cứ chứng tỏ ḿnh sẽ văng sanh - chứng cứ ấy chính là Nhất Tâm Bất Loạn. Nhất Tâm Bất Loạn chính là lẽ bí mật của kinh. Kết thất chẳng được Nhất Tâm chính là đă để lỡ dịp. Làm thế nào để đạt được? Có nhiều nhân để thành tựu, nhưng quan trọng nhất chỉ có hai:

- Một là người lập đạo tràng phải phụng hành đúng với giáo pháp.

- Hai là người tu hành phải tu đúng như pháp.

Kế đó, lại phải chân thành. Mọi pháp thế gian c̣n phải chân tâm thật ư th́ mới có hy vọng tựu về sau, huống hồ là Phật pháp? V́ thế phải hết sức thành khẩn tu tập. Nếu không th́ chẳng những vô ích mà c̣n chiêu lấy tội lỗi.

Đả thất giống như dựng ṭa lầu lớn cao trăm thước. Muốn xây được th́ phải thực hiện ba giai đoạn công tác:

- Dọn sạch sẽ cuộc đất ḿnh định xây, dẹp bỏ các chướng ngại vật.

- Bồi đất đá lên trên ấy.

- Xây móng thật kiên cố rồi mới có thể xây lên từng tầng.

Đả thất cũng thế, đó chính là “kiến thiết tâm lư”, cũng có ba tầng thi công:

- Đem hết thảy những chuyện nhân, ngă, thị phi khắp toàn thân bỏ xuống hết, chẳng được dùng ngàn vạn tâm t́nh niệm Phật. Trong ṿng bảy ngày phải chú trọng buông bỏ vạn duyên.

- Đối với những người dự Phật Thất nhưng vẫn ngủ ở nhà th́ phải gắng sao thân tuy ở nhà, nhưng tâm thường ở chùa Linh Sơn. Trên đường đi về, niệm niệm nghĩ đến Phật.

- Một khi đến đạo tràng, đừng tṛ chuyện, hàn huyên, “ít nói một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật, đánh chết mỗi ư niệm, để Pháp Thân được sống”. Chỗ này đă là đạo tràng th́ hễ ngồi xuống liền bắt đầu niệm Phật, chớ đừng có lên lên xuống xuống, ngồi đứng chẳng yên, tự gây những chuyện phiền toái vặt vănh, phương hại người khác, tạo thành tội vạ lớn.

Ba điều như thế, hăy siêng phụng hành!

Lại nói đến phương pháp niệm Phật th́ một câu Phật hiệu từ tâm đề khởi, từ miệng niệm ra, nghe suốt vào tai, cần phải phân minh. Lại c̣n phải ghi nhớ số (bất tất dùng xâu chuỗi) từ một đến mười. Chỉ cần nghe được rơ ràng là đă đạt công phu, tức là đă Nhất Tâm niệm Phật đó vậy!

 

2. KHAI THỊ LẦN THỨ HAI

 

 Phật Thất khai thị là nhằm làm cho hành giả giác ngộ, ắt phải tự giác ngộ th́ sau mới có hy vọng thành công. Bởi thế điều thứ nhất là phải giác, giác như thế nào? Giác t́nh thế hiện tại. Ngày hôm nay chúng ta phải giác ngộ ḿnh đang ở trong t́nh thế nào? Là giống như con cá vậy. Có người nghe vậy liền bảo tôi biết rồi, “cá” là giống như chữ “cá” trong bài kệ đọc lúc chiều tối:

 

Thị nhật dĩ quá,

Mạng diệc tùy giảm,

Như thiểu thủy ngư,

Tư hữu hà lạc?

(Ngày hôm nay đă qua,

Mạng theo đó cũng giảm,

Khác nào cá thiếu nước,

Điều ấy có vui chi?)

 

Nhưng chữ “ngư” tôi nói ở đây không phải chỉ có nghĩa như vậy, mà “ngư” đây là con cá đang nằm trong nồi, ở dưới để sẵn củi. Tuy trong nồi có nước, tạm thời cá có thể bơi qua bơi lại, tiêu dao tự tại, nhưng nguy hiểm đến cùng cực, chỉ chờ lúc củi bén lửa th́ phận cá sẽ ra sao? Các vị nghĩ xem! Hoàn cảnh của chúng ta đây giống hệt như thế đó, bị ác ma giam chặt trong chảo dầu do chúng tạo, sớm tối sẽ bén lửa. Đây chính cái gọi là thời đại bom nguyên tử! Tuy bom nguyên tử là do Mỹ, Nga tấn công nhau, nhưng ai dám bảo đảm Đài Loan chẳng bị lănh họa. Dù chẳng bị nạn trực tiếp, nhưng bị bụi bom nguyên tử nhiễm thân, chết nát ra là chuyện tất nhiên! Chúng ta phải nên nhận biết hoàn cảnh này, vị trí này.

Điều thứ hai là phải sợ. Điều vừa nói trên chưa đáng sợ, điều đáng sợ là nghiệp chưa tiêu nên phải lănh chịu chẳng ngừng. Thử hỏi: Thế giới này là ngũ trược ác thế, v́ sao quư vị sanh vào đây? Lại v́ sao sanh nhằm thời này? Đều do nghiệp lực khiến thành như vậy; v́ cộng nghiệp, cộng cảm, cộng thọ vậy.

Đă như vậy th́ đừng có oán trời, trách người. Người có công phu tốt tự có biện pháp tốt. Do cộng thọ nên không tránh khỏi chết, nhưng chết đi sanh về những nơi khác nhau là do công phu sai khác, tức là lúc chết chính là lúc văng sanh. Nếu chúng ta đạt được Nhất Tâm th́ ngay hiện tại sẽ đạt được “cộng trung bất cộng” (dù cùng cộng nghiệp mà chẳng phải cùng chịu khổ quả), tương lai văng sanh cũng ổn đáng. Nhưng nếu nay chúng ta chưa làm được như vậy th́ chết đi sẽ lại hướng đến tam đồ, lục đạo! Đấy chính là điều chúng ta phải nên kinh sợ.

Điều thứ ba là nên tiếc. Học Phật, niệm Phật đến nay đă là hai mươi ba năm, nhưng trong số những người cùng tu vẫn chưa có ai nắm vững. Tiếc thay! Tiếc thay! Cơ duyên trước mắt một phen mất đi, khó thể có lại được. Đừng nói đời này chẳng tu đợi kiếp sau, bởi lẽ “thân người khó được”. Ví dù được làm thân người, nhưng “Phật pháp khó nghe”, chưa chắc đă được nghe Phật pháp. Ví dù được nghe Phật pháp, chưa chắc được nghe pháp môn Tịnh Độ. Ví dù được nghe pháp môn Tịnh Độ, chưa chắc có thể kết thất như ngày hôm nay. Thử nghĩ xem: đạo tràng của chúng ta giảng kinh như thế, khai thị như thế, mỗi năm kết thất mà vẫn chưa thành th́ huống hồ ǵ là kiếp sau?

Vả lại, người ta được thành tựu hay không là do căn khí. Người đời có thể chia thành hai loại là ngu si và thông minh.

- Kẻ ngu tuy được khai thị, nhưng nghe rồi tâm chẳng tiến triển, không hề giác ngộ. V́ sao đến nỗi như thế? Do ba độc trong tâm đầy dẫy, độc phát ra ngoài nên hiện tướng như thế. Hạng người này ngă kiến rất nặng, thường khởi phiền năo, khó độ được! Nhưng bọn họ đời này tạo ác hơi ít, đấy là điểm sở trường của họ.

- Hạng thông minh đời này tạo ác tuy lớn, nhưng dễ giác ngộ, nếu gặp được thiện tri thức uốn nắn sẽ mau biến chuyển, dễ độ!

Thứ hai là đều do nghiệp lực đời trước tạo thành như thế. Nghiệp lực vô biên nên ngay trong thời đức Phật, vẫn có kẻ Ngài chẳng độ được. V́ thế mới nói “phước chí tâm linh”, nghe pháp rồi tấn tu quả là kẻ có phước vậy!

Thế nhưng Phật pháp vô biên, đối với mỗi căn khí đều có phương tiện. Tổ sư Ngẫu Ích đă dạy cho kẻ ngu pháp “sám hối hồi hướng”. Đối với hết thảy những sự nơi thân, khẩu, ư, hễ lành th́ hồi hướng Tây Phương, hễ ác bèn sám hối ngay lập tức. Ngay cả việc lành sám hối đó cũng đem hồi hướng Tây Phương. Kẻ si chẳng thể phân biệt thiện ác th́ cứ nhất loạt sám hối, nhất loạt hồi hướng. Tâm quyết định như thế th́ niệm niệm tại Tây Phương, lực dụng rất lớn. Cách thực hiện như sau:

1) Sau hai khóa lễ sáng tối liền sám hối, hồi hướng.

2) Thường ngày hễ gặp cảnh trái ngang, lăng nhục, khốn khổ liền lập tức sám hối, hồi hướng. Bởi đấy là do túc nghiệp tạo thành như thế cho nên phải sám hối nghiệp nặng.

3) Lúc tâm khởi ác niệm, phiền năo bèn lập tức sám hối. Do nghiệp lực nên phiền năo thường khởi, đừng đổ lên người khác. Nếu không, hậu báo vô cùng vậy. Bởi lẽ, những chuyện ngang trái v.v... là do nghiệp lực, chịu xong liền hết. Nếu lại khởi phiền năo gieo vạ cho người khác th́ sẽ xoay vần báo trả nhau, chính là ḿnh tự hại ḿnh vậy!

Ba thứ sám hối hồi hướng như thế chính là pháp môn mất nhiều năm tôi mới cầu được, nay tặng cho quư vị. Quư vị hăy thực hành, đừng khinh là tầm thường. Tổ Ngẫu Ích bảo sám hối, hồi hướng lại thêm niệm Phật th́ không ai là chẳng thành cả!

Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một câu tiêu trừ được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Trong hai mươi năm qua, quư vị không một ai niệm được như vậy. Chí tâm là lúc niệm Phật trước hết phải dọn tâm cho thật sạch sẽ, rỗng rỗng rang rang th́ ngay khi ấy, một câu Phật hiệu thông trên suốt dưới, không c̣n ǵ khác cả. Niệm chí tâm như thế th́ mới ḥng đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Quư vị niệm Phật hăy nên theo nguyên tắc này, nhưng làm thế nào để chí tâm? Xin đáp: “Tội từ tâm khởi dùng tâm sám”. Do c̣n tội nghiệp nên tâm khởi phiền năo. Lúc tâm khởi phiền năo th́ sẽ tạo tội nghiệp. Ngay lúc ấy phải sám hối cho nó tiêu mất. “Tâm đă diệt rồi tội cũng không”. Do c̣n tội nghiệp nên chẳng thể chí tâm. Tội nghiệp đă diệt sẽ tự nhiên chí tâm. Bởi thế bảo: “Tội diệt, tâm mất thảy đều không, thế mới gọi là chân sám hối”. Niệm Phật như thế th́ đạt được chí tâm, diệt được trọng tội, dù bom nguyên tử có rơi xuống cũng chẳng ngại ǵ. Kệ rằng:

 

Tâm nhất phân minh đoạn hoặc th́,

Văng sanh chứng quả thượng hà nghi,

Tuy nhiên thường thuyết Hoặc nan đoạn,

Sám hối huyền môn tích bất tri.

(Tâm đă phân minh đoạn Hoặc rồi,

Văng sanh chứng quả há c̣n nghi,

Tuy thường hay bảo Hoặc khó đoạn,

Sám hối huyền môn tiếc chẳng hay)

 

Nếu niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn th́ chính là lúc đoạn Hoặc. Như vậy ắt được văng sanh, văng sanh rồi ắt mau chứng Phật quả. Lư thật phân minh, c̣n nghi ngờ ǵ nữa? Tuy nói là đoạn Hoặc rất khó, đoạn một phẩm Kiến Tư Hoặc như cắt đứt ḍng sông chảy mạnh rộng đến bốn mươi dặm, nhưng vẫn có pháp môn mầu nhiệm chính là sám hối hồi hướng. Đấy chính là huyền môn. Tiếc rằng người đời chẳng biết. Niệm Phật mà biết phối hợp với pháp môn này th́ sẽ thành tựu dễ dàng!

 

II. KHAI THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM GIÁP DẦN

(đệ tử Hà Mỹ Tuyết kính ghi)

 

1.     KHAI THỊ LẦN THỨ NHẤT

 

Thưa các vị lăo sư, các vị đồng tu,

Từ khi Linh Sơn Tự có Phật Thất đến nay đă là hai mươi lăm năm, có thể duy tŕ lâu dài liên tục, chẳng gián đoạn như thế thật chẳng phải là chuyện dễ. Phật Thất mỗi năm, học nhân (lời cụ Lư Bỉnh Nam tự xưng) đều đến tham gia, chẳng dám bảo là khai thị, mà chỉ là đem phương pháp niệm Phật và yếu nghĩa của nó sách tấn, khuyên lơn các vị mà thôi.

Trong hai mươi lăm năm, những điều cần nói đă nói qua cả rồi. Gần đây học nhân bận rộn lắm việc, trong thời gian tổ chức Phật Thất, chỉ có thể đến hai lần. Những điều nói ra đều là những câu lấy trong kinh, hoặc từ ngữ lục của chư Tổ Sư. Học nhân vô học vô đức, ngoài những lời kinh, lời Tổ dạy th́ không c̣n ǵ để nói, những điều muốn nói cũng phát xuất từ khuôn phép của tiền nhân. Những điều tôi nói trong quá khứ, chưa chắc quư vị đă nhớ hết, hoặc đă quên sạch, nên hôm nay nhắc lại th́ cũng như mới nói.

Lần này học nhân thay đổi phương thức, in dàn bài tặng quư vị tham khảo. Bởi v́ xem dàn bài nghe giảng, ấn tượng càng khắc sâu, dễ hiểu rơ trọn vẹn, nghe xong có thể đem về nghiên cứu kỹ càng. Nếu như quư vị nhờ đó mà đạt được cảnh giới tốt th́ cố nhiên là rất tốt. Nếu như thấy không tiến bộ ǵ th́ xem đọc lại nhiều lần, cốt sao đúng pháp thực hành, lâu ngày chầy tháng nhất định sẽ được lợi ích.

Chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ mục đích là tương lai chứng đắc Phật quả. Tu các pháp môn khác mà muốn chứng Phật quả th́ phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp; trong trăm vạn người khó có một người thành tựu. Phật Quả tuy tốt, nhưng ai có thể chứng được? Trong pháp môn Tịnh Độ th́ chỉ cần tại thế giới Sa Bà này, trong ṿng mấy mươi năm ngắn ngủi, một câu A Di Đà Phật niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn th́ liền được văng sanh. Sau khi văng sanh, trong một thời gian ngắn thành địa vị bổ xứ Bồ Tát, thành Phật rất dễ. V́ vậy, pháp môn này dễ tu, đáng gọi là “độ khắp ba căn, gồm thâu lợi, độn”. Thượng căn được lợi mà bọn độn căn chúng ta cũng có thể được lợi. Ai ai cũng tu được, đều có thể thành tựu.

Hễ ai tu Tịnh Độ đều biết những câu “vạn nhân tu vạn nhân khứ” (vạn người tu, vạn người văng sanh), “đới nghiệp văng sanh”, “Nhất Tâm Bất Loạn”, nhưng mọi người đều chẳng muốn hiểu kỹ ba câu này. Tôi đă từng giảng qua, nhưng ai nấy đều hiểu lầm ư nghĩa của chúng, vẫn chưa thể hiểu sâu, hiểu đúng, hiểu tỉ mỉ, cho nên chưa thể thành công được.

      Mấy năm gần đây, thấy công phu các vị thụt lùi lớn. Nhớ năm năm đầu lúc mới mở Phật Thất ở Đài Trung c̣n khá, chứ năm năm sau đó đă kém hẳn, năm năm kế tiếp đó càng tệ hơn nữa. Công phu đă chẳng tiến, trái lại c̣n lui sụt. Đă thế niệm Phật đều chẳng phấn khởi tinh thần. Đây là lời thực, học nhân đến đây chỉ mong quư vị đạt được lợi ích chân thật. Bởi thế, chẳng thể khen ngợi quư vị được. Tâng bốc quư vị th́ không chỉ chẳng được văng sanh mà trái lại c̣n làm hại mọi người. Nay đem ư nghĩa chân thật của ba câu ấy nói ra, quư vị sẽ liền biết rơ công phu của ḿnh như thế nào.

 

* “Vạn tu vạn nhân khứ”

     

Đây chính là lời của Tổ Sư, hoàn toàn chẳng sai lầm, dưới đây tôi sẽ nêu bốn điều để giảng pháp chân chánh, khiến cho quư vị chẳng c̣n hiểu lầm ư nghĩa câu này nữa.

 

a. Tu phải nhận thức rơ Chánh Trợ Song Tu

     

Tu tức là chiếu theo pháp môn Tịnh Độ mà tu, phải nhận thức rơ Chánh Trợ Song Tu. Chánh tức là công phu căn bản, chỉ niệm sáu chữ hồng danh “nam mô A Di Đà Phật”. Đây là công phu chánh, ai cũng biết niệm. Chẳng học Phật cũng biết niệm, nhưng không hiểu nghĩa. Nay tôi giải thích đại lược:

      1) Một câu “nam mô A Di Đà Phật” là Pháp Giới Tạng Thân, bao gồm cả thập phương tam thế chư Phật.

2) Một câu “nam mô A Di Đà Phật” bao trùm cả mười hai bộ loại kinh điển trong Tam Tạng, tức là chữ A đă bao gồm toàn bộ giáo pháp của Tam Tạng.

3) Sáu chữ hồng danh là vua của các chú, sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật” là chữ bí mật, chẳng phiên dịch. Cả sáu chữ đều chẳng phải là tiếng Hán. Pháp này cao tột, thù thắng hơn tŕ tụng bất cứ chú ngữ nào khác.

4) Học Phật phải tu Định. “Hoa Nghiêm đại định” chính là Di Đà đại định. Nhất Tâm Bất Loạn chính là định, đạt được Nhất Tâm là thành công. Đấy chính là chỗ mầu nhiệm của pháp môn Tịnh Độ.

Hai mươi năm trước đây, ngoại trừ những lúc có Phật Thất, mỗi Chủ Nhật, học nhân đều đến đây giảng kinh, phần lớn các kinh đă giảng qua, nhưng học nhân thường nói: Giảng kinh chẳng thể liễu thoát sanh tử, chỉ là để kết duyên nhằm khiến chúng sanh hiểu rơ ư kinh, cải biến tâm lư, thực tiễn tu hành. Dù cho có giảng kinh trăm năm, hằng ngày giảng kinh cũng chẳng thể liễu sanh tử. Chẳng bằng kẻ chẳng hiểu giáo lư nhưng biết niệm sáu chữ hồng danh, niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn bèn được lợi ích rất lớn.

Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển lộ bổn tánh Chân Như. Niệm đến Nhất Tâm th́ tâm minh, tánh hiển, đấy là thành công. Nếu chỉ đàm huyền luận diệu th́ tu bao nhiêu năm cũng chẳng thể giải ngộ tâm tánh. Xin quư vị nghe kỹ: Sáu chữ hồng danh “nam mô A Di Đà Phật” chính là bổn tánh của quư vị, bổn tánh chính là tâm của quư vị.

Thiền Tông chê Tịnh Tông rằng: “Ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm, trí nhân cầu tâm bất cầu Phật” (kẻ ngu cầu Phật chẳng cầu tâm, người trí cầu tâm chẳng cầu Phật). Quư vị cầu tâm hay cầu Phật? Nếu cầu Phật th́ là người ngu v́ chẳng biết tâm quư vị chính là Phật, Phật chính là tâm quư vị. Tâm và Phật vốn là một, v́ vô minh ngăn che nên Phật là Phật, tâm là tâm, tâm và Phật bị chia thành hai, đều là do quư vị tạo ra. Nay quư vị niệm Phật chính là hiển lộ bổn tánh của ḿnh: “Mười phương tam thế Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Phật quá khứ có Pháp Thân, Phật vị lai cũng có Pháp Thân. Phật vị lai chính là chúng ta. Pháp Thân của chúng ta với Pháp Thân của Phật Thích Ca, Phật Di Đà là một không phải hai. Niệm Phật là khai hiển bổn tánh, là công phu chánh. Quư vị tu không thành công pháp môn này th́ có thể nói đoan chắc là quư vị tu các pháp môn khác cũng không thể thành tựu được. Nếu bỏ pháp môn này mà quư vị có thể thành tựu được th́ tôi chính là kẻ đại vọng ngữ, sẽ đọa địa ngục.

Tu chính là v́ tâm tánh của chúng ta bị vô minh ngăn che. Vô minh chẳng dễ nhận biết. Nói cách khác, vô minh chính là những hành vi giết, trộm, dâm, tham, sân, si v.v... hằng ngày của chúng ta. Tu chính là trừ khử những vô minh ấy, chẳng tạo nghiệp giết, trộm, dâm, chẳng khởi tham, sân, si, khiến cho bổn tánh tỏ lộ quang minh, đó tức là Tu.

Nhưng ai có thể biết được đạo lư này? Ai chịu thực hành? Mọi người vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh th́ làm sao minh tâm kiến tánh cho được? V́ thế phải dùng trợ lực để tiêu trừ giết, trộm, dâm, tham, sân, si. Trợ tu như thế nào? Tuy chẳng hiểu rơ Phật lư, nhưng cốt sao có thể phân biệt thiện ác, hiểu rơ hai câu sau đây là được: Hễ là điều ǵ bại hoại th́ đừng làm, đó chính là “chư ác mạc tác”. Nhẫn chưa được th́ cắn chặt răng đừng làm. Làm việc lành, dù lúc ban đầu chỉ miễn cưỡng làm. Đấy chính là “chúng thiện phụng hành”. Hành thiện dứt ác, giữ tâm lành, nói lời hay, làm việc tốt, đấy chính là phương pháp hỗ trợ công phu chánh, trừ khử vô minh. V́ thế gọi là “trợ hạnh”.

Nói rộng ra, trợ hạnh là tu sáu Ba La Mật, nhưng khó hiểu, nên chẳng cần phải nói đến. Phàm là điều ác th́ dù có tặng quư vị khối kim cương nặng mười vạn bảng (pounds), quư vị cũng chẳng chịu làm. Đối với việc lành th́ dù phải chịu trở ngại nào cũng cứ làm. Hai điều này chính là “tùy duyên tiêu cựu nghiệp, cánh bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng tạo họa mới nữa). Lúc b́nh thường gặp thiện th́ làm, gặp ác th́ bỏ. Khi niệm Phật th́ buông bỏ vạn duyên, một ác niệm vừa khởi lên th́ liền dùng ngay một câu “nam mô A Di Đà Phật” để áp chế nó. Thâu tóm ba nghiệp thân, khẩu, ư, theo đó mà hành lâu ngày sẽ được thành công. V́ thế bảo là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”.

 

b. “Bất chiếu tu bất năng khứ” (chẳng tu đúng theo đó th́ chẳng được văng sanh)

 

 Tuy là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”, nhưng nếu chẳng tu đúng th́ chẳng thể văng sanh được. Ai cũng biết có Phật, có Ma. Ma chính là tham, sân, si, giết, trộm, dâm. Niệm một câu A Di Đà Phật là Phật lực khởi. Khởi tham, sân, si, giết, trộm dâm là Ma lực khởi. Ma lực và Phật lực ngang nhau. Phật, ma đấu nhau gọi là “đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Phật hay Ma đều là tâm của quư vị. Niệm Phật vẫn tạo nghiệp, khởi tham, sân, si, Phật và Ma hỗn tạp, tâm làm sao thanh tịnh được, làm sao sanh Tịnh Độ được? Sao có thể minh tâm kiến tánh cho được? Đă niệm Phật lại c̣n niệm Ma th́ chẳng phải là tu vậy. Nếu chẳng mau sửa đổi cơi ḷng, chẳng trừ khử tham, sân, si, th́ dù có niệm đến tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng chẳng được văng sanh. Đây là lời chân thật. V́ thế, quư vị phải mau thay đổi tâm ḿnh.

 

c. Thiểu tu công bất thành tựu (công tu ít th́ chẳng thành tựu)

 

Ngay lúc này đây, quư vị chẳng khởi tham, sân, si, không giết, trộm, dâm v.v... rất tốt, nhưng một khi bước ra khỏi cửa này, xong Phật Thất là quên ngay. Ở đây niệm Phật dăm ba ngày là chuyện hay, tiếc là quá ít. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên mà được sanh về cơi ấy”. Thiện căn tức là công phu chánh, phước đức chính là trợ duyên. Tu ít th́ chẳng thể thành tựu, v́ vậy cần phải tu nhiều.

 

d. Đa tu thị thường bất đoạn (tu nhiều là thường tu chẳng gián đoạn)

 

“Tu nhiều” là tu thường, luôn luôn tu chẳng gián đoạn. “Thường” là vĩnh viễn như thế, “bất đoạn” là thời thời, khắc khắc nghĩ đến chẳng gián đoạn. Xong Phật Thất rồi, tâm vẫn chẳng biến đổi, chẳng khởi những tâm giết, trộm, dâm, tham, sân, si, hại người... Dù là nông, công, thương, công chức, bác sĩ ai nấy cứ giữ nghề ḿnh, chẳng trở ngại chi đến tâm quư vị cả. Ngoài xă hội, học nhân suốt ngày làm việc, trong hai mươi lăm năm, lo liệu đạo tràng, tuy bị nhạo báng cũng chẳng tranh biện với ai. Đây chính là hành Nhẫn Độ trong Lục Độ. Người ta mắng chửi cũng chẳng sanh ḷng giận. Huống nữa, lửa vô minh nổi dậy, rừng công đức sẽ cháy tiêu. Xin nghĩ xem: Sân tâm nổi lên, người khác chẳng suy xuyển ǵ, trái lại ḿnh lại bị hại. V́ thế, học nhẫn nhục chính là để đạt đại tiện nghi vậy.

Tổ sư nói: “Tu đạo chẳng ngại lo liệu công việc, cốt sao chẳng tổn người th́ làm nghề ǵ cũng được”, đều là v́ tu hành nhưng phải lo kiếm sống, nương vào Tục để tu Chân. Nếu không như thế th́ công phu chẳng thành, chẳng thể văng sanh. Thân người khó được, nay đă được thân người, nay quư vị tu hành chính là cơ hội để liễu sanh tử. Nếu không liễu sanh tử th́ tu hành ích chi?

“Bất đoạn” tức là trong từng thời, khắc chẳng quên. Ta chưa đạt được “tịnh niệm liên tục” nói trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông, nhưng cứ tiếp tục tu chẳng gián đoạn. Tâm chẳng đoạn th́ sẽ làm được chuyện ấy. Niệm chẳng phải là miệng niệm xuông mà phải chú tâm vào đó, tức là tâm đặt nơi Tây Phương, tâm hướng về Phật. Phải có ư niệm bất đoạn như thế mới được. Hết thảy hành động đều v́ sanh về Tây mà làm, không ǵ là không làm như thế. Cho nên ăn cơm, mặc áo là để sanh về Tây, mưu sanh nuôi thân là để sanh về Tây, đều v́ tu hành, biến cải tâm lư mới nên. Như học nhân làm việc công, dạy học, lại v́ những học sinh sáng dạ tuyên dương Phật pháp. V́ thế học nhân nhận tiền công, chẳng nhận tiền của thương thiên hại lư, nên chẳng trở ngại ǵ đến việc tu hành.

“Thường” là bất biến, sống trăm năm cũng chẳng thay đổi. “Bất đoạn” là thời thời, khắc khắc nghĩ đến ǵ th́ chú tâm vào đó. Tâm đặt nơi Phật th́ tâm chính là Phật. Nếu tâm chẳng đặt nơi Phật th́ tâm liền biến thành Ma, thành bại hoại vậy.

Hôm nay, học nhân đến đây bàn về pháp môn Tịnh Độ là nói chuyện ǵ? Nói chuyện Chánh Trợ Song Tu. Quư vị niệm Phật chính là Chánh Công Phu. Học nhân đến giảng là giúp quư vị hiểu đạo, đó là Trợ Công Phu. V́ thế, với bất cứ việc ǵ tâm cũng đặt tại Chánh Trợ Song Tu là được.

Từ trên đến đây toàn là nói về câu “vạn nhân tu vạn nhân khứ, bất tu bất năng khứ”. Những câu khác ngày mai sẽ bàn.

Này quư vị!

Buông xuống vạn duyên, đề khởi chánh niệm.

Một câu Di Đà, thẳng đường mà niệm.

 

2. KHAI THỊ LẦN THỨ HAI

 

Thưa các vị lăo sư, các vị đồng tu,

Hôm nay là đă là ngày thứ sáu của Phật Thất. Xin mọi người tinh tấn, rạng ngày nghe giảng giải, chiều tối càng dụng công khẩn mật.

 Phật Thất là để cầu Nhất Tâm. Theo đúng lệ, khi giảng khai thị th́ chẳng giảng kinh, chẳng thuyết pháp, chỉ xem trong đạo tràng có điều ǵ tu hành chẳng đúng pháp th́ đối trị căn bệnh đó, ứng cơ mà nói, chứ nếu không th́ thành ra làm rối thêm.

Lần này đặc biệt cải biến phương thức đă dùng nhiều năm, in dàn bài giảng giải, chứ lần sau chẳng làm vậy. “Vạn nhân tu vạn nhân khứ”, “đới nghiệp văng sanh”, “Nhất Tâm Bất Loạn” là ba điều mọi người dễ hiểu lầm nhất. Trong quá khứ, đối với những điều này, tôi chỉ lược giảng dăm ba câu. Người chân chánh dụng công để cầu Nhất Tâm phải nên hiểu rơ một cách xác thực. Đài Trung học Phật đă hai mươi lăm năm, bây giờ lười nhác, đúng là:

Đầu nhất niên, Phật tại tiền,

Đệ nhị niên, Phật tại Tây Thiên,

Đệ tam niên, Phật hóa vi vân yên.

(Năm đầu, Phật hiện diện trước mặt,

Năm kế, Phật ở Tây Thiên,

Năm thứ ba, Phật hóa thành mây, khói).

Kinh Phật cũng nói Bồ Tát mới phát tâm khác nào bậc Đẳng Giác, tiếc thay vài năm liền lui sụt. V́ thế, người phát tâm tu th́ nhiều, kẻ thành tựu lại ít. Phải đâu Phật pháp không linh, mà là v́ mọi người chẳng tin, chẳng thể kiên tŕ triệt để. Cứ hễ kiên tŕ mà tu th́ đối với bất cứ một câu Phật pháp nào cũng đều thành tựu được hết, chẳng cần phải đọc Tam Tạng. Do chúng sanh vô lượng, tâm tư vô lượng, nên mới có Tam Tạng kinh điển, để đối ứng căn cơ của chúng sanh mà nói.

Ngày hôm qua đă nói về câu đầu tiên là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”. Hôm nay nói về câu thứ hai “đới nghiệp văng sanh”. Phàm ai tu Tịnh Độ cũng biết nói câu này.

Tu các pháp môn khác, cần phải đoạn Kiến Tư Hoặc mới có thể liễu sanh tử, xuất tam giới; nhưng đa số chẳng biết Kiến Tư Hoặc là cái ǵ. Bởi thế, người thành công khá hiếm. Lại c̣n có lối nói “nghiệp tận t́nh không”. “T́nh không” chính là t́nh thức hoàn toàn biến thành trí huệ, thấu rơ bổn tánh. Mức độ “nghiệp tận t́nh không” thấp nhất là chứng quả A La Hán, hiện tại có mấy ai làm được?

 

* Đới nghiệp văng sanh

 

Câu “đới nghiệp văng sanh” là nói về người tu Tịnh Độ; đối với các pháp môn khác nếu đới nghiệp th́ tuyệt đối chẳng thể giải thoát, chẳng thể liễu sanh tử. Nhưng đa phần người tu Tịnh Độ hiểu lầm là dù c̣n tạo tội nghiệp vẫn có thể văng sanh, vẫn có thể thành tựu. Do nói như vậy nên trong mười người tu, tám chín người chẳng thể thành công.

 Trong hai mươi lăm năm tại Đài Trung, có hơn hai ngàn vị đồng tu đă qua đời, nhưng lúc mất có lưu lại tướng văng sanh để chứng nghiệm th́ chẳng nhiều hơn mười người. Sao lại đáng buồn đến thế ấy?

Ư nghĩa chân thực của việc “đới nghiệp văng sanh” là như sau:

 

a. Nghiệp là túc nghiệp thiện ác

 

Nghiệp là những tội nghiệp đă tạo. Phải biết là ai cũng do thân, khẩu, tạo mười ác nghiệp, nhưng chẳng phải là gây tạo trong đời này, mà là từ trong bao kiếp lâu xa luân hồi trong lục đạo đă tạo vô lượng, vô biên tội nghiệp. Kinh nói: “Nếu tội nghiệp có h́nh thể sẽ sớm chật cả hư không”. Tạo tội th́ phải đền trả trong lục đạo. Tội cũ chưa xong, đă gây nghiệp mới, làm sao giải thoát được? V́ thế trong ngàn vạn người, không một ai được giải thoát.

Hoặc bảo: “Niệm Phật một tiếng tiêu trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Ai ai cũng nghĩ là niệm Phật tiêu tội. Điều này không sai, nhưng “Đạo cao một thước, Ma cao một trượng”. Sức Ma lớn là v́ ma sự nhiều. Chúng sanh từ bao kiếp lâu xa đến nay toàn làm ma sự, bây giờ chỉ niệm Phật dăm ba năm th́ làm sao tiêu được? “Ma cao” là ma nghiệp nhiều. Niệm Phật tiêu nghiệp là như lửa nung chảy băng. Ví như khối băng to như cái bàn, đốt ngọn lửa nhỏ như đầu nén hương th́ lửa ít, băng nhiều, làm sao tan băng cho được? V́ thế người tu hành mới thấy sức ma lớn lao, Phật lực không linh; bởi thế, lắm kẻ thoái chuyển. Nhưng nếu chẳng tu hành th́ một phân đạo cũng không có. Chúng ta có được một phân, một tấc đạo là đă chẳng uổng rồi!

 

b. Đoạn Hoặc giải thoát theo cách thông thường

 

Ngoại trừ Phật pháp, không có biện pháp nào khác để thoát khỏi luân hồi. Các tôn giáo khác đều cho rằng Thượng Đế là chí cao vô thượng, nhưng Thượng Đế vẫn c̣n ở trong luân hồi lục đạo. Mục tiêu của nhà Phật là thoát luân hồi. Làm thế nào để thoát? Phải “nghiệp tận, t́nh không”, nghiệp trong nhiều kiếp lẫn nghiệp hiện tại phải nhất loạt tiêu sạch. Đời này không tiêu hết th́ gắng tiêu trong ngàn kiếp, vạn kiếp. Thành bậc A La Hán c̣n phải sanh tử trong nhân gian hay cơi trời bảy lần mới đoạn hết Kiến Tư Hoặc, liễu sanh tử, nhưng vẫn c̣n Trần Sa Hoặc chưa đoạn. Đủ thấy đoạn Kiến Tư Hoặc khó khăn. Ví như có vạn phẩm Hoặc, dù đoạn được chín ngàn chín trăm chín mươi chín phẩm, vẫn c̣n một phẩm chưa đoạn th́ cũng chưa giải thoát. Học nhân học Phật hơn năm mươi năm, một phẩm c̣n chưa đoạn được, biết làm sao đây?

 

c. Đới nghiệp là chế phục nghiệp hoặc chẳng cho chúng khởi dậy

 

Học nhân tu hành, giảng kinh năm mươi năm, gặp được vài vị minh sư, đối với học lư cũng biết được một hai phần, nhưng một phẩm Hoặc cũng chưa đoạn được. Quư vị tu hành chưa lâu, Hoặc là thứ ǵ c̣n chưa biết rành th́ đoạn Hoặc sao được? Khác nào mài đao chẳng biết đao như thế nào th́ mài sao được?

Chúng ta chưa đoạn được Hoặc th́ chẳng thể giải thoát. V́ thế đức Thích Ca Mâu Ni đại từ, đại bi nói ra pháp môn Tịnh Độ, dạy chúng sanh niệm A Di Đà Phật, chẳng cần phải đoạn Hoặc, chỉ cần chế ngự được Hoặc liền có thể giải thoát.

Đoạn Hoặc và Phục Hoặc (chế ngự Hoặc) khác nhau như thế nào? Đoạn Hoặc giống như trong chén đă thanh tịnh, vô nhiễm, dù có nghiêng đi cũng chẳng đổ cát bụi ra. Phục Hoặc giống như trong chén có cát bụi, dùng vật khác đậy lên, có nghiêng chén cũng chẳng đổ bụi ra, nhưng cát bụi vẫn c̣n chứa bên trong. Nghiệp tận chẳng bị luân hồi, tu Tịnh phục Hoặc th́ cũng chẳng lọt trong lục đạo.

Nhưng Hoặc vẫn c̣n th́ phải làm sao? Luôn luôn dùng sáu chữ hồng danh đè nén chúng, lâu ngày thuần thục, đến lúc mạng chung, nếu khởi tâm niệm Phật th́ các tạp niệm bị chế phục chẳng khởi lên nên có thể mang theo nghiệp đi văng sanh (đới nghiệp văng sanh). Sanh qua cơi kia rồi mới đoạn Hoặc, chỉ mấy ngày là thành công. Đấy là Phục Hoặc.

 

d. Phục Hoặc th́ tâm và Phật giao cảm với nhau

 

Chỉ cần chế phục Hoặc sẽ chẳng tạo nghiệp nữa, nên sẽ cảm ứng đạo giao cùng Phật. Đấy chính là ư nghĩa chân thực của “đới nghiệp văng sanh”, tuyệt đối chẳng phải là vừa niệm Phật, vừa tạo tội vẫn được văng sanh!

 

* NHẤT TÂM BẤT LOẠN

 

Đây là điều dùng để chứng minh công phu, nay tôi sẽ giải thích sơ lược.

 

1. Đắc Nhất Tâm th́ quyết định thành tựu

 

Đắc Nhất Tâm nhất định thành tựu, v́ chính là đắc đại định.

 

2. Nhất định phải theo thứ tự tấn tu

 

Nhất định chẳng thể vừa tu liền thành ngay, phải tấn tu từng bước một, như châu gieo xuống nước, lần lượt ch́m dần.

 

3. Muốn thành công th́ phải tu tập dần dần mới thành tựu trọn vẹn được

 

Muốn thành công th́ phải tu dần dần th́ mới có thể viên dung. Hằng ngày ở nhà phải luyện Nhất Tâm th́ đến đây mới ḥng luyện được Nhất Tâm. Nếu không th́ dù có nhập thất hơn ba trăm ngày tâm vẫn loạn, dự một kỳ Phật Thất ngắn ngủi này làm sao đạt được Nhất Tâm? Đấy chẳng phải là cầu may, may ra được Nhất Tâm hay sao? Hăy nên tự hỏi ḿnh, đừng hỏi ai khác.

 

4. Thành tựu Nhất Tâm chính là ác niệm chẳng khởi

 

Nếu đắc Nhất Tâm th́ giết, trộm, dâm, tham, sân, si chẳng khởi. Nên biết rằng ác khởi chính là ma. Tâm chúng ta dù khởi ác, nhưng nếu chế phục chúng chẳng cho phát tác th́ liền có thể thành công.

Kệ rằng:

“Nhất niệm độc tâm sanh”: “Độc” chính là ác niệm. Khởi ác niệm th́ làm việc hại người.

Nếu độc tâm vừa sanh th́ hăy “gấp dùng một câu Phật hiệu” đàn áp, mau mau dùng “nam mô A Di Đà Phật” để trấn áp. Đấy chính là “phục Hoặc”.

“Ác ngôn bất xuất khẩu”: Lời hại người, bốn nghiệp miệng chẳng để xảy ra.

“Tổn nhân sự mạc tác” (việc hại người đừng làm): phàm là những việc tổn hại người hoàn toàn chẳng làm, cắn chặt răng, bất luận là tự ḿnh phải chịu khổ sở, thiếu hụt đến đâu, giữ ḿnh chẳng tạo ác. Chẳng tạo chính là “phục”.

“Cửu cửu tự thành nhiên” (lâu ngày ắt sẽ thành tự nhiên): Làm như vậy chẳng khó lắm ư? Lúc ban đầu tuy khó, nhưng lâu dần quen đi sẽ thành tự nhiên.

“Văng sanh khả đới nghiệp”: Do chế ngự được Hoặc, lại có thể niệm Phật nên liền có thể mang nghiệp đi văng sanh.

“Thị danh phục Hoặc pháp, chân thật bí mật quyết” (Đây gọi là yếu quyết chân thật bí mật của pháp chế phục phiền năo): Đây chính là yếu quyết chân thật, bí mật. Nếu có thể thực hành theo đó th́ nhất định được văng sanh.

Này quư vị!

Hăy buông xuống vạn duyên, đề khởi chánh niệm.

Một câu Di Đà, thẳng thừng mà niệm.

     

* Bài kệ của Tuyết Sư lăo nhân:

     

Nhất niệm tâm sanh độc,

Cấp áp nhất Phật thanh,

      Ác ngôn bất xuất khẩu,

Tổn nhân sự mạc tác,

Cửu cửu tự thành nhiên,

Văng sanh khả đới nghiệp,

Thị danh phục Hoặc pháp,

Chân thật bí mật quyết

 

Tạm dịch:

Một niệm độc tâm khởi,

Phật hiệu đè gấp ngay,

Lời ác trọn chẳng thốt,

Việc tổn người chớ làm,

Lâu ngày trở thành thói,

Được đới nghiệp văng sanh,

Đây bí quyết chân thật,

Bí mật để phục Hoặc.

 

III. KHAI THỊ TRONG DỊP KẾT THẤT NIỆM PHẬT ĐẦU XUÂN GIÁP NGỌ

(đệ tử Du Nhược Thu kính ghi)

 

Tại gia kết thất niệm Phật chính là cách tiện lợi nhất trong các phương tiện Phật Thất niệm Phật. Nhưng muốn niệm Phật được lợi ích lớn th́ lại cần phải hiểu rơ đạo lư. Nếu chẳng hiểu rơ đạo ư th́ dù có được lợi ích cũng chẳng lớn lao ǵ. Bởi lẽ, đối với hai nghiệp thân khẩu th́ miệng niệm Phật, thân ngồi trong đạo tràng, ít ra cũng chẳng tạo nghiệp; nhưng v́ tâm chẳng dễ nắm bắt nên vẫn khó tránh khỏi tạo nghiệp.

Do v́ tâm là Lư. Lư chẳng rơ th́ chính là phàm phu mê hoặc, điên đảo. Phải hiểu Lư ấy như thế nào? Phàm học Phật th́ bất luận là mười năm hay một trăm năm cũng chẳng ngoài hai chữ “phước, huệ”. Kinh dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên để được sanh về cơi ấy”. Kẻ mới học Phật quá nửa chú trọng tu Phước, người tu lâu hay chú trọng tu Huệ. Kỳ thật, Phước Huệ là một khối, chẳng thể tách thành hai điều riêng rẽ. Nay tôi giải thích lư này, chứ chẳng dám nói là Khai Thị, lại xin quư vị nghe kỹ; nghe xong rồi nghiên cứu kỹ càng.

Chư vị đồng tu nghĩ xem niệm Phật là để làm ǵ? Chẳng ngoài hiện tại tiêu trừ tai nạn, tương lai được văng sanh Tây Phương. Tiêu tai khỏi nạn chính là tu Phước. Văng sanh Tây Phương chính là tu Huệ. Nếu hiện tại chẳng thể tiêu tai, khỏi nạn th́ là chưa có phước. Hiện tại đă chẳng thể tiêu tai khỏi nạn th́ tương lai rất khó bảo đảm được văng sanh. Chẳng thể văng sanh Tây Phương chính là không có Huệ, là v́ chưa đắc Nhất Tâm. Lẽ này quá b́nh thường, cũng rất dễ hiểu rơ.

Chư vị đồng tu nghĩ xem phải làm sao để hiện tại tiêu tai khỏi nạn? Nói chung, xét ra là chẳng thể làm được là v́ quá khứ đă tạo nghiệp, ắt phải chịu báo, muốn khỏi thọ báo th́ đừng tạo nghiệp. Nghiệp quá khứ đă tạo vô phương cứu văn, chỉ c̣n cách từ nay trở đi phải thay đổi tấm ḷng, đem tâm biến thành “A Di Đà Phật”, nghĩ tưởng thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp nữa.

Trong số quư vị đây, ắt có người nghĩ ḿnh niệm Phật đă lâu nhưng sao chẳng đắc lực. Đấy là v́ thời gian ta niệm Phật hiện tại rất ngắn, mà nghiệp đă tạo từ vô thỉ đến nay lại rất nhiều. Trong kinh dạy: “Nếu ác nghiệp có h́nh tướng th́ trọn cơi hư không cũng chẳng thể chứa hết nổi”. Ví như một gian nhà lớn bốc cháy đùng đùng, toan cầm một chén nước tạt vào mong dập tắt lửa th́ đấy là chuyện bất khả. Chỉ có cả xe nước lớn của xe chữa lửa, lại liên tục phun thêm nước vào, khiến cho lửa chẳng lan rộng thêm th́ mới có thể dập được lửa.

Lửa đó ví như vô minh, phiền năo, nước như cam lồ Phật pháp. Nước diệt được lửa là ví cho Phật pháp có khả năng đối trị phiền năo. Nhưng muốn diệt được phiền năo nhiều đời, nhiều kiếp th́ chỉ có nhất tâm niệm Phật mới đắc lực. Kinh dạy: “Chí thành niệm Phật một tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Quư vị đồng tu phải nghiến răng quyết từ nay trở đi đừng làm các điều ác, giống như chẳng đến bên đống lửa lớn bỏ thêm các chất đốt như củi, than, dầu hỏa v.v... Lại càng thêm khẩn mật dụng công niệm Phật, giống như đem từng xe, từng xe nước đến dập lửa. Nhưng dập tắt lửa chẳng cần phải dập hoàn toàn, chỉ cần dập tắt chừng bảy phần, ba phần lửa sót lại do v́ có hơi nước hiện diện cũng dần dần giảm yếu. Cuối cùng rồi cũng tắt hết. Quư vị đồng tu cứ làm theo đúng như thế th́ chẳng lâu sau, tự ḿnh cũng có thể niệm Phật đến chỗ đắc lực được.

      Bây giờ, tôi giảng v́ sao Phước và Huệ là một khối chặt chẽ? Bổn tánh vốn thanh tịnh, quang minh, nhưng do vô minh che lấp nên quang minh chẳng xuất hiện được, khác nào tấm gương bị bụi lấp nên chẳng soi tỏ được. Hiện tại tu Phước giống như dùng khăn lau chùi gương. Chỉ cần bụi rớt đi th́ ánh sáng sẽ tỏa ra. V́ thế, tu Phước chính là tu Huệ. Các tông khác minh tâm kiến tánh, chứng quả A La Hán rồi mới có thể liễu sanh thoát tử. Niệm Phật th́ niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn bèn thoát khỏi tam đồ lục đạo.

Hôm nay, tôi toàn giảng về Niệm Phật, toàn là những chuyện b́nh thường, rất dễ thực hành, c̣n việc đàm huyền luận diệu th́ hăy tạm chẳng nói đến bởi các vị đồng tu khi nghe giảng kinh đă từng nghe qua rồi. Hiện tại, tôi chuyên giảng phương pháp dụng công tu tập. Phật pháp có mười tông phái lớn, nhưng chỉ có pháp Niệm Phật của Tịnh Độ Tông là hữu dụng. Pháp Niệm Phật của các tông khác chưa rốt ráo nên vẫn chưa hữu dụng. Như có ba cách cứu hỏa, chẳng dùng nước cũng có thể diệt được lửa. Nếu lúc cứu hỏa không có nước th́ có thể dùng một cái móc lớn kéo sập cả căn nhà. Nóc đổ, tường đổ cũng diệt được lửa. Điều này ví như các tông khác chẳng nhờ vào Phật lực cũng có thể liễu sanh tử. C̣n cách chữa lửa của Tịnh Độ Tông là trước hết khiến cho thế lửa chẳng mạnh thêm, rồi mới đem từng xe nước dập lửa. Đây chính là ngoài Tự Lực c̣n có thêm Phật lực. Trong các pháp môn, pháp môn Nhị Lực này đặc biệt nhất.

Pháp môn này đă trọng yếu như thế th́ phải niệm cách nào? Có hai phương pháp niệm Phật: Một là niệm Phật, hai là nhớ Phật (ức Phật).

Niệm là niệm ở đâu th́ chú tâm tại đó, tức là khi niệm Phật th́ tâm đặt nơi Phật, tâm chính là Phật. Chẳng hạn lúc chúng ta niệm Phật hai thời sáng tối th́ niệm do tâm khởi, tiếng từ miệng thoát ra lại lọt vào tai, tâm nhớ lấy. Ba nghiệp thân, khẩu, ư cùng hợp lại niệm. Kinh dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”.

Lúc niệm cốt cho tinh chứ không cầu nhiều. Tổ sư nói: “Chỉ cần niệm được một trăm lẻ tám câu chẳng loạn. Nếu có một câu niệm sai lạc liền lần chuỗi niệm lại từ đầu”. Niệm được một trăm lẻ tám câu Phật hiệu từng câu phân minh, nhớ rơ chẳng lầm lạc mới tốt. So với niệm cả ngàn câu, vạn câu mà tâm tán loạn th́ lợi ích [của việc niệm Phật chẳng tán loạn] phải lớn hơn. Quư vị đồng tu đừng coi thường một trăm lẻ tám câu đó. Nếu quả thực quư vị có thể niệm được một trăm, hai trăm câu chẳng loạn th́ công phu đă chẳng uổng phí rồi. Chỉ e chẳng có mấy người niệm được đến cả ngàn câu mà chẳng loạn. Đây là lời chân thật!

Khi niệm Phật phải buông xuống vạn duyên, chẳng luận là niệm bốn chữ, sáu chữ, đều phải đặt chắc toàn tâm toàn ư vào câu Phật hiệu. Giả sử bốn bề cháy to, vẫn cứ niệm Phật như thế chẳng gián đoạn, chẳng loạn. Niệm Phật phải có sức mạnh như thế, tâm luôn thường hằng như thế th́ mới thành tựu được.

Nhưng người tại gia khác với hàng xuất gia. Từ sáng đến tối đều phải làm lụng, bởi đối với người xuất gia th́ củi, gạo, dầu, muối... đều chẳng quản đến; nhưng người tại gia có các nghề nghiệp sĩ, nông, công thương, nghiệp để mưu cầu sự sống. V́ thế, người tụng niệm một ngày ba thời, năm thời không nhiều. Người một ngày có thể niệm Phật đến ba tiếng đồng hồ chẳng hiếm lắm, nhưng hai mươi mốt giờ kia đều tán loạn, tạo nghiệp. Đại đa số khóa sáng niệm nhiều, khóa tối niệm ít, hoặc khóa sáng niệm ít, khóa tối niệm nhiều. Công phu niệm Phật như vậy khác ǵ nửa chén nước, làm sao cứu hỏa được. Nhưng đức Phật có pháp phương tiện, đó là “ức Phật”.

Ức là nhớ rơ chẳng quên. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm đều chẳng hề quên. Dẫu cho vào chỗ nhà xí dơ bẩn nhất, trong tâm vẫn phải có Phật, nhớ cho thật rơ ràng, rành rẽ. Quư vị nghĩ xem có việc ǵ mà khiến ḿnh dính vào th́ đều quên tuốt mọi thứ không? Đó là việc ǵ vậy? Chính là “ăn”. Chim v́ tham ăn mà bị bắt nhốt vào lồng, cũi. Cá do ham mồi nên mắc câu. Có thể nói là hết thảy chúng sanh đang sống bị chết đi đều là v́ cái ăn. Chúng ta mỗi ngày làm lụng cực nhọc phi thường, chịu đựng mọi thứ nhục nhằn, oan uổng, khổ sở, gian nan cũng đều là v́ cái ăn. Có lúc bụng ḿnh chẳng đói nhưng đến bữa cứ ăn. Nếu niệm Phật cũng giống như ăn vậy th́ tự nhiên sẽ thành công.

 

IV. KHAI THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU NGỌ

(đệ tử Ngô Thông Mẫn kính ghi)

 

Hôm nay là ngày kết thất thứ nhất. Việc đầu tiên là phải hiểu ư nghĩa của việc kết thất chính là “khắc kỳ cầu chứng”. Tu pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ th́ phải đạt Nhất Tâm Bất Loạn mới có thành tựu. Kết thất niệm Phật bảy ngày, nếu khéo công phu th́ niệm một ngày liền đắc Nhất Tâm. Muốn được vậy phải tu nhiều năm, phải là người hiểu giáo lư mới có thể làm được. Thứ đến là hai, ba, bốn, năm, sáu ngày chẳng nhất định. Tiếp đó là phải niệm đến ngày thứ bảy mới chứng Nhất Tâm. Đấy là nói về những người thanh tịnh cả bảy ngày, ngày đêm niệm Phật không ngừng, trong bảy ngày liền đoạn được Kiến Tư Hoặc. Chỉ có người đoạn được Kiến Tư Hoặc mới là người thực sự đắc Nhất Tâm.

Nhưng đoạn được Kiến Tư Hoặc rất khó, v́ thế, có một phương pháp đặc biệt: Trước hết, chỉ cầu chế ngự được Hoặc mà thôi. Nghĩa là lúc Hoặc khởi dậy th́ liền dùng Phật hiệu chế phục nó. Công phu luyện đến thuần thục th́ hễ Hoặc khởi liền chế ngự được. Được vậy th́ cũng gần giống như đắc Nhất Tâm, cũng có thể đới nghiệp văng sanh.

Các tông tu hành chẳng ngoài việc “chánh trợ song tu”. Chánh công phu là trừ khử vọng niệm, thấu triệt tâm tánh; trợ công phu là công phu giúp hiển lộ tâm tánh, trừ khử những ma chướng phát sanh bởi dụng công. Nay tôi theo thứ tự nói sơ lược những pháp tu Chánh và Trợ của Tịnh Độ.

Trước hết nói về Chánh Công Phu. Trong ṿng bảy ngày, lúc nào cũng phải giữ ḷng cung kính. Một phen bước vào cửa chùa th́ cũng như vào gặp Phật. Pháp Thân của Như Lai ở khắp mọi nơi, chẳng phải chỉ ḿnh tượng Phật trên đại điện mới xem là Phật, mà thật ra một sắc, một hương không thứ nào chẳng phải là diệu sắc, diệu tâm của Phật. Đối với mỗi hoàn cảnh, nơi chốn như thế đều xem như là Phật th́ ngôn hạnh tự nhiên cung kính, chẳng c̣n lười nhác nữa. Cung kính chính là bí quyết để hướng đến Bồ Đề. Đây là tầng công phu thứ nhất.

Khi đă ngồi yên rồi th́ phải buông xuống vạn duyên, quét sạch mọi vọng niệm tạp sự thường ngày. Sau đấy mới gom tâm về một chỗ, buộc tâm nơi câu hồng danh. Giống như nơi ḍng nước chảy xiết phải buộc chặt thuyền bè vào cột th́ mới khỏi bị nước cuốn. Đây là tầng công phu thứ hai.

Kế đó, trong khi tŕ danh, phải giữ sao cho sáu chữ hồng danh từ tâm tưởng khởi, từ miệng phát ra, nghe lọt vào tai, ví như ba cái bánh xe xoay vần qua lại, cốt sao tâm tưởng thật trong sáng, rơ ràng, miệng niệm được rơ ràng, tách bạch, tai nghe rơ ràng, rành mạch. Tự niệm, tự nghe như thế, từng chữ dựa chặt vào nhau, trong khi niệm đừng đánh mất một câu nào. Đây là tầng công phu thứ ba.

Thêm nữa, lúc chúng ta niệm Phật, chẳng luận là miệng tụng hay ư tŕ, hăy nên giữ cho không có tạp âm, chỉ c̣n mỗi ḿnh tiếng niệm Phật. Do A Di Đà Pháp Thân ở khắp mọi nơi, Phật quang cũng chiếu thấu khắp nơi. V́ thế lúc niệm Phật, từ nơi ta phát ra tâm thanh (âm thanh phát xuất từ tâm), tâm thanh ḥa nhập vào Phật quang, Phật quang lại nhập vào tâm thanh. Tâm thanh và Phật quang dung thông như thế th́ ta chính là Di Đà, Di Đà chính là ta. Đây là tầng công phu thứ tư.

      Theo đúng những điều vừa nói ở trên, tinh tấn tu tập từng tầng, khiến cho chỗ chín biến thành chỗ sống, chỗ sống chuyển thành chỗ chín. Đến khi đạt đến tầng thứ tư th́ chính là ngày thành tựu Nhất Tâm vậy.

      Tiếp đến nói về Trợ Công Phu. Chánh Công Phu cố nhiên là thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng, nhưng chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay quen thói phiền năo đă sâu, vọng niệm tơi bời; nay muốn dùng một câu Phật hiệu đè nén chúng cho khỏi tạo nghiệp, không c̣n vọng tưởng, th́ tuyệt đối chẳng thể thực hiện được điều đó trong một thời gian ngắn. V́ thế, phải dùng Trợ Hạnh để giúp sức.

Nếu có thể hằng ngày tự cảnh tỉnh, quan sát lỗi ác của chính ḿnh, thành tâm sám hối, mong tiêu nghiệp chướng, thấy người khác làm lành liền tùy hỷ, tán thán để tăng phước đức; tùy hỷ, sám hối như thế đều hồi hướng văng sanh Tây Phương th́ đấy chính là Trợ Hạnh thứ nhất.

      Tiếp đến là pháp Hân Yếm (ưa thích và nhàm chán). Trong các sanh hoạt thường nhật, chẳng luận là ăn, mặc, đi, đứng, đối với mọi thứ trong cơi Sa Bà đều nhất loạt coi là ô uế mà chán ĺa. Đối với các thứ trang nghiêm được diễn tả trong ba kinh Tịnh Độ đều tưởng là thanh tịnh, sanh ḷng ưa thích. Chán ĺa th́ không tâm tham luyến. Vui mừng, hâm mộ th́ tự tăng thêm ư nguyện cầu sanh. Đến khi hân yếm cùng cực th́ thân tuy ngụ Sa Bà, nhưng chẳng c̣n là khách trọ lâu ngày trong cơi Sa Bà nữa; tuy chưa chứng Cực Lạc, nhưng đă sớm là người thường trú chốn Liên Bang. Đây chính là yếu quyết mầu nhiệm của Tịnh Tông, chẳng thể nói là giống như những lời lẽ “bất hân, bất yếm” của các tông khác. Đây chính là Trợ Hạnh thứ hai.

      Thêm nữa, về pháp phương tiện để chế ngự Hoặc, nên biết rằng niệm Phật chẳng được Nhất Tâm là do vọng niệm làm loạn. Nhưng vọng niệm chính là Hoặc, mà cũng chính là Ma. Kinh Niết Bàn dạy: “Tu Đà Hoàn đoạn Kiến Hoặc như cắt đứt ḍng sông chảy mạnh rộng bốn mươi dặm”. V́ thế muốn đoạn ngay được Hoặc thật chẳng dễ dàng. Nay có cách tạm cầu chế ngự Hoặc. Cổ đức bảo: “Bất phạ niệm khởi, đản khủng giác tŕ” (chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm). Nếu cứ hễ ư niệm khởi liền có thể nhận biết, biết rồi liền dùng Phật hiệu chế ngự nó. Ma đến, Phật chế ngự như thế, ví như dùng đá đè cỏ. Đè lâu ngày, Hoặc chẳng thể tự khởi, cũng được “phương tiện Nhất Tâm”, đợi đến khi sanh về Tây Phương rồi sẽ lại đoạn Hoặc. Đây chính là pháp đặc biệt của Tịnh Độ, chẳng thể dùng lư lẽ của các tông khác để cật vấn được. Đây chính là Trợ Hạnh thứ ba.

      Hy vọng mọi người bảy ngày sau đây, bất luận là đang ở trong đạo tràng hoặc đang trên đường về nhà đều tu như thế. Tiếp theo đây tôi dùng một bài kệ để kết luận:

      Tịnh Độ nan tín khước dị hành,

      Toàn do nhị lực chánh trợ công

      Tất đắc Nhất Tâm phương hữu hiệu,

Phương tiện phục Hoặc tức cảm thông

(Tịnh Độ khó tin nhưng dễ hành,

Toàn do hai lực Chánh và Trợ,

Phải đắc Nhất Tâm mới hữu hiệu,

Phương tiện chế Hoặc liền cảm thông)

 

Sau cùng xin mọi người buông xuống vạn duyên, thẳng thét mà niệm một câu A Di Đà Phật!

 

V. KHAI THỊ PHẬT THẤT TẠI CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU NGỌ (lần thứ nhất)

(Tư Thục Điền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích Hà giảo chánh)

 

Thưa chư vị lăo sư, chư vị đồng tu,

Hôm nay là ngày kết thất thứ nhất. Riêng tại Đài Trung, sau khi quang phục[1], bắt đầu kết thất tại chùa Linh Sơn, tính đến nay kết thất cũng gần được ba mươi năm rồi. Nói đến việc mở Phật Thất suốt ba mươi năm chưa hề gián đoạn th́ thật là điều rất khó có được, hoàn toàn là do nhân duyên. Hôm nay, tôi xem thấy những bạn đồng tu trong đạo tràng này, đồng tu cũ cũng có, đồng tu mới cũng có, giảng nói càng khó hơn, biết làm sao đây? Nếu giảng sâu th́ bạn đồng tu mới nghe sẽ chẳng hiểu. Nói sơ lược ư? Lại sợ bạn cựu tu đă nghe qua nhiều lần rồi. V́ thế, tôi chọn lấy những điều trọng yếu mà tŕnh bày.

Trước hết luận về kết thất. Kết thất chú trọng nơi thực hành niệm Phật, hoàn toàn chẳng phải là để giảng kinh, giảng giáo lư. Trước hết, phải hiểu rơ như thế! Đă là để nghiên cứu thực tu th́ nói càng ít càng tốt, nên tôi bèn chuyên giảng “làm thế nào để đạt được Nhất Tâm”. Ngoại trừ điều này ra, chỉ nói in ít, nói nhiều càng thêm phiền. Gây phiền thêm để làm ǵ? Mọi người đến đây để cầu Nhất Tâm, nghe tôi thuyết pháp nhiều th́ tâm càng loạn. Xin quư vị hiểu cho điều này.

Trước hết, dùng mấy lời như vậy để minh định rơ ràng. Hôm nay là ngày đầu tiên, trước hết, cần phải tu hành đúng như pháp. Tu hành pháp môn nào cũng phải có biện pháp của pháp môn đó, phải dựa vào những biện pháp do Phật, Tổ đă dạy chúng ta. Nếu như tự ḿnh suy diễn những cách tu không dựa vào Phật pháp, hoặc dùng những phương pháp tu của các pháp môn khác để tu th́ là sai lầm vậy. Mỗi pháp môn có cách tu riêng của nó.

“Trở về nguồn không hai đường”, thế nào là không hai đường? Nói chung là để minh tâm kiến tánh, pháp nào chẳng thể minh tâm kiến tánh th́ chẳng tu. Do có nhiều môn phương tiện nên phương pháp cũng chẳng đồng nhất. Chẳng hạn như trong nhà Phật có rất nhiều tông phái, nhưng trong hai phái tối trọng yếu th́ một là Thiền. Thiền chú trọng vào Không, thường quán Không, hễ ngộ được một chữ Không th́ rất tốt, nhưng Tịnh Độ Tông chẳng giống vậy. Tịnh Độ Tông chú trọng quán Hữu. Có phải là hai tông này mâu thuẫn nhau không? Kỳ thật chẳng hề mâu thuẫn nhau dù chỉ một điểm. Điều này có giáo lư đấy, nhưng hôm nay tôi chẳng giảng giáo lư, chỉ giảng những ǵ quư vị có thể dựa theo đó mà tu cho tốt. Nếu muốn hiểu kỹ về mặt giáo lư th́ chúng tôi có giảng kinh tại thư viện hoặc liên xă, chứ chẳng phải chỉ giảng kinh ở một chỗ, quư vị có thể đến đó nghe.

 Ở đây tôi chỉ chuyên giảng sao cho quư vị đạt được Nhất Tâm, để bảy ngày kết thất này của quư vị không bị uổng phí. Trong kỳ kết thất này, nếu chẳng đắc Nhất Tâm th́ uổng công rồi. Quư vị phải biết là trước tiên phải nhớ kỹ những lời giảng trong ngày thứ nhất, mấy ngày sau đó quư vị nghe người khai thị nói ǵ cứ thực hành theo đó là ổn.

Ở đây chúng ta tu Tịnh Độ, kết thất niệm Phật bảy ngày. Niệm Phật bảy ngày để làm ǵ? Người khéo công phu niệm một ngày liền đạt Nhất Tâm. Chẳng phải là người hằng ngày luôn niệm Phật th́ hôm nay đến đây niệm Phật một ngày không cách chi đắc Nhất Tâm được! Phải là người đă tu hành ít nhiều năm, hiểu rơ giáo lư rồi, chỉ v́ một ḿnh người ấy tu tŕ chẳng thể đắc Nhất Tâm, đến đây tham dự Phật Thất mới có thể đắc Nhất Tâm. Nếu công phu chưa khéo th́ từ một ngày đến bảy ngày chi đó bèn đắc Nhất Tâm. Đây là nói về hạng người nào? Là hạng người tinh tấn suốt bảy ngày, chứ chẳng giống như bọn ḿnh, mỗi ngày niệm vài cây hương là thôi. Họ niệm ngày đêm không nghỉ nên bảy ngày liền đắc Nhất Tâm.

Nói cho quư vị nghe điều thật tuyệt diệu này: Đạt Nhất Tâm chính là đă đoạn được Kiến Tư Hoặc trong ṿng bảy ngày. Điều này trong kinh không giảng rơ v́ sợ quư vị tự tổn hại ḿnh. Đoạn hết Kiến Tư Hoặc th́ đạt được Nhất Tâm, chẳng đoạn được Kiến Tư Hoặc th́ không thể đắc Nhất Tâm. Là v́ nếu Hoặc chưa đoạn th́ chúng vẫn c̣n khuấy loạn trong tâm, quư vị đạt Nhất Tâm sao được? Bởi vậy mới bảo: Nếu công phu chẳng tận sức th́ dù có niệm cả trăm năm cũng chẳng được Nhất Tâm! Nếu thế th́ biết làm cách nào đây?

Tịnh Độ Tông có một phương pháp đặc biệt là chế phục Hoặc. “Chế phục Hoặc” nghĩa là mỗi khi vọng niệm khởi lên, bèn dùng A Di Đà Phật đè nén vọng niệm, hễ vọng niệm khởi bèn dùng niệm Phật đối trị. Cách này rất đơn giản, chỉ cần niệm thuần thục là làm được. Nhưng trong cả ngàn người, khó kiếm được một người niệm thuần thục. Đại đa số, hễ một vọng niệm khởi th́ vọng niệm khác liền tiếp nối, rong ruổi theo vọng niệm, chẳng biết đè nén vọng niệm, dùng A Di Đà Phật để đè nén chúng. Đây là một công phu đơn giản nhưng lắm người chưa làm được là v́ duyên cớ nào? Là v́ nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, họ nghĩ đến vọng niệm quá thuần thục rồi nên tuyệt đối chẳng thể dùng A Di Đà Phật để đàn áp vọng niệm được, có nói cũng chẳng nghe. Nếu như vậy th́ chẳng c̣n biện pháp nào cả. Quư vị phải hiểu rơ điều này.

 Trên đây, tôi thưa chuyện cùng quư vị mấy câu như vậy là nhằm tŕnh bày những việc quư vị cần phải hiểu rơ trước khi đả thất, chứ chưa khuyên quư vị phải nên thực hành cách nào; giờ đây tôi sẽ thưa. Sau này quư vị sẽ thấy những lời ấy cũng rất b́nh thường. Quư vị đừng phân biệt là b́nh thường hay không, cả sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật” kể ra rất b́nh thường, nhưng v́ sao nhiều đời, nhiều kiếp vẫn không niệm được?

Chúng ta tu hành thực tiễn, chẳng cần biết là tu theo tông nào, nói chung tông nào cũng đều có hai phương diện:

- Một là Chánh Công Phu. Thế nào là Chánh Công Phu? Thực hành Chánh Công Phu chẳng ngoài mục đích để Tu Hành. Khai trừ, khử sạch những Kiến Tư Hoặc, những thứ loạn tạp rối bời trong tâm quư vị th́ gọi là Tu Hành. Chúng sanh ai nấy đều có Phật Tánh. Bổn tánh của quư vị chính là Phật Tánh, nhưng đáng tiếc là tánh ấy bị các thứ bại hoại che đậy. Biện pháp để trừ khử hết sạch những thứ bại hoại ấy th́ gọi là Chánh Công Phu.

- Ta hiểu được những ǵ bại hoại cần phải đào thải khỏi tâm này là một chuyện, nhưng trừ bệnh đâu phải là chuyện dễ, v́ thế, cần phải có công phu hỗ trợ (Trợ Công Phu). Mỗi tông có công phu hỗ trợ riêng. Hôm nay tôi sẽ v́ quư vị phân biệt rơ phải thực hiện Chánh Công Phu và Trợ Công Phu như thế nào.

Quư vị đến dự Phật Thất là v́ muốn đạt Nhất Tâm. Đoạn Hoặc là Nhất Tâm, chế ngự được Hoặc cũng là Nhất Tâm. Đạt được Nhất Tâm th́ lúc lâm chung mới có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không được Nhất Tâm th́ không văng sanh. Đấy chính là điều kinh A Di Đà đă dạy. Lấy lời kinh dạy làm chuẩn. Lắm người cứ mơ hồ cho rằng lúc ḿnh lâm chung, A Di Đà  Phật liền đến đón ḿnh. Thật ra th́ phải Nhất Tâm mới được Phật đón tiếp. A, v́ sao vậy? Do tâm ḿnh phát lộ quang minh, quang minh của A Di Đà Phật liền dơi theo đó, tiếp dẫn ḿnh sanh về cơi kia. Nếu Kiến Tư Hoặc, các thứ bại hoại phủ lấp quư vị, che lấp quư vị th́ A Di Đà Phật cũng không có biện pháp ǵ. Quư vị phải hiểu rơ điều này.

Mỗi khi chúng ta bước chân vào cửa chùa Linh Sơn th́ liền thấy Phật. Phật có Pháp Thân, Pháp Thân chẳng phải chỉ hiện diện nơi tượng Phật đúc, mà chỗ nào cũng có Pháp Thân, chỉ tiếc là bọn phàm phu chúng ta chẳng thấy được. Bây giờ mỗi khi ḿnh đến chùa Linh Sơn, thấy tượng Phật phải coi như là Phật, coi như là Phật đang ở ngay trước mắt. Tôi xin hỏi quư vị một câu: Quư vị gặp Tổng Thống th́ thái độ ra sao? Tổng Thống đến đây th́ chẳng dám nói lời nào, ngồi ngay ngắn, chỉnh tề, lưu tâm cẩn thận, hết sức quy củ. Tổng Thống cũng chỉ là phàm phu giống hệt như ḿnh. Gặp ông ta th́ ai nấy đều có thái độ như thế đó, nhưng gặp Phật lại chẳng được như vậy, dù thấy Phật cũng xem như Phật chẳng hiện diện, sao mà lầm loạn đến thế? Quư vị ơi, quư vị làm như vậy là khinh thường Phật quá đấy. Đừng nói chi đến Tổng Thống, cục trưởng cảnh sát đi tới, quư vị có sợ hay chăng? Coi Phật không bằng viên cảnh sát trưởng như thế th́ quư vị [có tu hành] thành công được chăng? Tổ Sư dạy như thế này: Điều đầu tiên là phải cung kính. Mỗi khi đến đây, phải coi như Phật đang ở ngay trước mắt, nói năng, động tác hết thảy đều cung kính, muôn phần cung kính. Nếu như trong tâm c̣n một phần lười nhác, một phần chẳng cung kính th́ chẳng chứng được Nhất Tâm. Đây là bước thứ nhất.

Đă cung kính rồi, mỗi khi ngồi xuống niệm Phật hay lúc chẳng niệm cũng đều như nhau, tiến lên nữa là buông vạn duyên xuống. Thế nào là vạn duyên? Chính là vọng tưởng khởi lên thời thời, khắc khắc chẳng đoạn. Mỗi một vọng tưởng là một hạt giống của một lần luân hồi, một lần sanh tử, nguy hiểm lớn lắm. Vọng tưởng là ǵ? Mỗi một vọng tưởng là một Kiến Tư Hoặc, là vật bại hoại, là bụi bậm. Khởi vọng tưởng là tâm chạy theo bên ngoài. Chạy theo những pháp nào bên ngoài? Nghĩ cái bàn, nghĩ cái ghế, nghĩ đến cái ǵ tâm liền đặt nơi đó, tâm quư vị hoàn toàn chẳng đặt yên nơi A Di Đà Phật. Đây là chứng bệnh lớn gọi là Loạn. Nếu tâm quư vị chạy lung tung th́ chẳng phải là loạn hay sao? Làm thế nào đây? Trong tâm chỉ có Phật, đem tâm đặt yên nơi Phật. Phật giống như một cái cọc thuyền trên sông, tâm là chiếc thuyền. Cột chặt thuyền vào cọc th́ c̣n trôi đâu được nữa! Miệng không niệm Phật nhưng trong tâm có Phật, giữ ḷng cung kính th́ Phật hiện diện ngay trong chúng ta. Chẳng dám loạn tưởng th́ dù miệng không niệm cũng được Nhất Tâm. Đây là tầng thứ hai.

Điều thứ ba là lúc niệm Phật, niệm sáu chữ hay bốn chữ, dù sáu chữ hay bốn chữ đều cùng một cách niệm. Trước hết trong tâm phải tưởng. Nếu trong tâm chẳng niệm, chỉ gào xuông ngoài miệng th́ đấy chỉ là xướng ca, không nên! Đồng thời trong tâm chẳng khởi hai ư niệm, hễ nghĩ đến Phật th́ không c̣n có ư niệm nào khác. Có ư niệm khác th́ ư niệm về Phật cũng không c̣n. Điều này bọn chúng ta phàm phu thiếu công phu chưa thấy rơ. Niệm Phật trong tâm tưởng, trong tâm rơ ràng, trong trẻo. Miệng lại niệm ra, công phu niệm ra cũng rơ ràng, tách bạch. Sau đó, chính ḿnh nghe, nghe chính tiếng ḿnh niệm, nghe sáu chữ ấy cũng rơ ràng, minh bạch, chẳng để sót chữ nào. Tâm tưởng, miệng niệm ra, tai lại lắng nghe vào, giáp ṿng như vậy th́ tâm không chạy đi đâu được. Đó là một cách.

Niệm đến mức nào? Quư vị khỏi cần phải hỏi ai là ḿnh niệm đến mức nào cả. Quư vị như thế nào người khác làm sao hiểu được. Quư vị đă không hiểu ḿnh như thế nào th́ người khác làm sao hiểu được? Tôi chỉ cho quư vị hiểu nhé! Quư vị niệm Phật cứ tự ḿnh nghe, nghe chính ḿnh niệm Phật, chính miệng ḿnh niệm Phật, chính ḿnh tự nghe. Bất cứ thứ nào khác đều chẳng nghe thấy th́ công phu của quư vị đă thuần, tự ḿnh niệm Phật, tự niệm, tự nghe. Điều này khó làm được. V́ sao? Ở nhà th́ không hề ǵ, ḿnh ở trong nhà ḿnh, ḿnh niệm như vậy được, nhưng đến đây dự Phật Thất, mọi người đều niệm Phật, làm sao ḿnh không nghe thấy được? Không nghe thấy là tốt, nhưng nếu nghe thấy th́ làm cách nào? Nghe thấy cũng tốt. V́ sao nghe thấy cũng tốt? Trong Tịnh Tông có Trợ Niệm Đoàn để hỗ trợ lúc lâm chung. V́ sao gọi là Trợ Niệm Đoàn? Vong giả lúc lâm chung bị hôn trầm, phong đao chia cắt thân, trong tâm rối loạn. Vừa loạn vừa hôn trầm th́ Phật chẳng hiện hữu. Người trợ niệm ở bên cạnh niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” để lay tỉnh tâm niệm người đó v́ sợ người sắp chết quên khuấy chẳng đề khởi tâm niệm Phật. Người chết nghe th́ cũng giống như chính ḿnh niệm, chính ḿnh tự niệm, tự nghe. Quư vị nghe người khác niệm cũng như chính ḿnh đang niệm. Quư vị đến đây niệm Phật là tự ḿnh nghe, người khác niệm Phật giúp cho quư vị, sợ quư vị quên đi. Quư vị có thể nghỉ niệm một chút, nghe người khác niệm rơ ràng, tách bạch, trong tâm vẫn có Phật, không chạy đi đâu hết. Đây là bước công phu thứ ba.

Điều thứ tư, tự tu rất trọng yếu. Quư vị niệm Phật có tạo thành tiếng hay không? Mọi người có hiểu rơ điều này chăng? Có tiếng đấy. Niệm Phật dù nhỏ cách mấy vẫn có âm thanh. Dù miệng không niệm, chỉ niệm trong tâm vẫn có âm thanh. Quư vị cứ nghĩ lại lúc ḿnh học bài sẽ hiểu điều này. Gọi là “tâm huyền” (dây đàn tâm) là ngụ ư: Tâm giống hệt như dây đàn, tâm cũng có âm thanh. Quư vị tưởng A Di Đà Phật th́ ngay ư niệm ấy phát ra âm thanh. Quư vị có âm thanh, âm thanh ấy chẳng tạp loạn th́ chính là A Di Đà Phật.

Pháp Thân của Phật A Di Đà không chỗ nào chẳng hiện diện. Phật hiện diện ở đâu nơi đó đều có quang minh: “Quang trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên” (trong quang minh hóa hiện vô số ức đức Phật, và cũng hóa ra vô biên các vị Bồ Tát). Trong quang minh của Phật, Phật A Di Đà và các vị Bồ Tát hiện diện trong đó lại đều là quang minh. Âm thanh của quư vị phát ra đó sẽ đi về đâu? Đi đến quang minh của Phật. Quang minh của Phật lại đi đến đâu? Ḥa nhập vào âm thanh của quư vị. Khi âm thanh ḥa lẫn vào quang minh, quư vị chính là A Di Đà Phật. Khi quang minh ḥa nhập vào âm thanh th́ A Di Đà Phật chính là quư vị. Khi âm thanh và quang minh ḥa hợp nhau, nếu quư vị không văng sanh th́ sẽ tới đâu nữa đây? Đây là điều thứ tư. Có vậy mới kể là đă đạt công phu. Đấy chính là biện pháp tu hành Chánh Công Phu vậy.

Lại c̣n có công phu để hỗ trợ. Sức của công phu hỗ trợ rất lớn. V́ sao vậy? Thưa cùng quư vị, giờ đây quư vị thực hành theo biện pháp tôi vừa nêu đến mức (chánh công phu) rất khá rồi, một khi quư vị bước chân ra khỏi cổng chùa, liền nghĩ: “Ái chà! Bây giờ ḿnh có thể nói sướng miệng đây!” Hỏng rồi! Ngay lúc tâm khởi ư niệm buông lung khẩu nghiệp th́ tâm quư vị liền chạy theo bên ngoài. Mới gom tâm để đạt được Nhất Tâm, vừa bước ra ngoài liền để tâm chạy theo bên ngoài th́ công niệm Phật tại đây (chùa Linh Sơn) đành mất trắng. Ra ngoài thấy, nghe sự ǵ đó tâm lại loạn th́ uổng mất công niệm Phật tại đây. Ở trong này, đàn áp được Kiến Tư Hoặc, nhưng vừa ra ngoài là lại chồng chất thêm, quư vị nghĩ nên trách ai?

Công phu tu hành xét đến cùng cực th́ chính là ngày chầy tháng rộng, thời thời khắc khắc chẳng biến đổi. Chẳng những chỉ ở chùa Linh Sơn mới tu như vậy mà khi ra khỏi cổng chùa cho đến khi về đến nhà vĩnh viễn tu hành như vậy th́ mới là tu hành, chứ chẳng phải ngoài dịp Phật Thất th́ chẳng tu hành. Nếu như chùa Linh Sơn không mở Phật Thất, quư vị không tu th́ chính là quư vị tự hại ḿnh, chẳng cần biết là có mở Phật Thất hay không vẫn thực hành như vậy. Vậy th́ xét ra biện pháp này có khó thực hiện hay chăng?

Nếu chẳng giữ vững được một câu Phật hiệu th́ phải luôn sám hối. Điều này rất khẩn yếu. Sám hối là tự xét những điều ḿnh làm chẳng đúng, tạo bao tội lỗi. Xét ra dù xuất gia hay tại gia, người tu hành chắc thật th́ thấy ḿnh làm ǵ cũng đều là tội lỗi. Hễ nhắc đến tội liền sám hối. Ḿnh đă làm sai, nhưng làm sai rồi lại làm ǵ nữa? Đă làm sai nhưng vẫn c̣n tái phạm. Mỗi ngày thời thời, khắc khắc từ sáng đến tối sám hối. Như vậy th́ ngoài việc sám hối ra c̣n có ǵ làm loạn ḿnh nữa ư? Dù có loạn ở chỗ nào đi nữa, vẫn chú tâm nơi Phật, th́ c̣n có ǵ nữa đâu?

Thấy người khác làm điều tốt bèn sanh ḷng hoan hỷ. Thật ra, phát tâm hoan hỷ cũng là loạn, chẳng thể văng sanh; cho nên hễ thấy ai làm điều lành ǵ bèn nghĩ: “Tốt quá! Người ấy có thể văng sanh”. Ai làm điều ǵ tốt ḿnh cũng mừng rằng người ấy sẽ được văng sanh. Vừa sám hối, vừa tùy hỷ như thế th́ ngày chầy tháng đọng, dù loạn nhưng thật sự chẳng loạn. Đây chính là công phu hỗ trợ thứ nhất.

Hơn nữa, mỗi tông có cách tu hành riêng. Dùng cách tu hành của tông khác để tu Tịnh Độ sẽ chẳng thành công. Dùng cách tu của Tịnh Tông để tu các tông khác cũng chẳng thể thành công. Tịnh Độ Tông có hai chữ “hân, yếm”. Hân là thấy sự t́nh ǵ ḿnh bèn hy vọng được như vậy. Nói theo ngôn ngữ hiện tại th́ Hân là “tâm hy vọng”. Yếm là nhàm ĺa, chán ghét. Hai chữ Hân - Yếm được coi là căn bệnh lớn trong nhà Thiền. Quư vị tu Tịnh Độ nghe các tông khác giảng giáo lư, họ sẽ nói hai chữ Hân - Yếm là bại hoại, chẳng nên giữ lấy; nhưng trong nhà Tịnh, hai chữ xấu xa ấy đối với chúng ta lại là điều cực hảo v́ cách sử dụng hoàn toàn khác nhau. Bí quyết huyền diệu của Tịnh Tông nằm ngay tại hai chữ đó!

Đối với hết thảy mọi sự trong thế giới này, quư vị đều nên chẳng tham luyến v́ chúng đều là giả cả, chẳng có chút ǵ chân thật. Thế giới Sa Bà là thế giới ô uế, giống như hầm phân, như cái giỏ bẩn thỉu, có ǵ tốt đâu! Chúng ta thấy cái giỏ bẩn thỉu bèn chẳng chịu chạm vào những thứ dơ dáy. Họa may là ruồi nhặng, gịi tửa thấy cái giỏ bẩn thỉu ấy mới cao hứng được thôi. Chúng nó thấy là tốt v́ cùng là một phường, ta đừng bắt chước chúng. Thế giới Sa Bà này không có một điểm nào tốt cả nên ḿnh chán ngán chốn này, chẳng mong ở măi nơi đây, mong sớm được xa ĺa nó. Ḷng luôn nghĩ như vậy th́ tham luyến c̣n trụ vào đâu được nữa.

Đă thế, xem kinh Di Đà mấy lượt, mọi sự nói trong đó không điều ǵ là không tốt; bởi thế nên bèn ưa thích cơi kia. Đây là Hân. Quư vị nh́n ra ngoài thấy cao ốc lố nhố, đi đâu phải ngồi xe hơi, so với thế giới Cực Lạc khác nhiều lắm, ta chẳng ưa. Đây là Yếm.

Chán nhàm cơi này, lại nghĩ trong cơi kia chẳng dùng đến xe, cứ ngồi trong nhà nghĩ muốn đến đâu th́ nhà liền bay đến đó mang ḿnh theo. Nếu không thích nhà cửa che tầm mắt ḿnh th́ tường vách cũng không c̣n nữa. Mỗi đóa sen ánh sáng thiên biến vạn hóa, chưa hề được thấy qua.

Quư vị thấy phủ Tổng Thống cơi này như thế nào? Là Kim Loan điện. Nói cho quư vị nghe, may là cơi Cực Lạc không có đại tiểu tiện. Nếu có đại tiểu tiện, hầm phân th́ có hơn ǵ Kim Loan điện cơi này. A! Quư vị luôn nghĩ như sau: Nhàm chán cơi này, ưa thích cơi kia. Hân - Yếm rất khẩn yếu, là biện pháp hỗ trợ rất lớn. Ba mươi bảy Đạo Phẩm vốn là Trợ Công Phu khẩn yếu của Tịnh tông, nhưng có ai trong chúng ta nhớ hoài được. Cứ luôn nhớ kỹ hai chữ Hân - Yếm này là được. Đây là Trợ Công Phu thứ hai.

Điều thứ ba, chỉ cần tâm quư vị khởi một vọng tưởng th́ đó chính là Ma. Quư vị hay nói người nào đó bị ma dựa, nhưng có thấy con ma đó chưa? Thật ra, ai cũng có ma theo bén gót. Ma trong tâm chẳng lo, lại toan dẹp Ma bên ngoài! Vậy th́ Ma là ǵ? Vọng niệm khởi chính là Ma, đó là Nội Ma. Vọng niệm khởi lên th́ dù quư vị có đi qua Tây Phương Cực Lạc thế giới nó vẫn dùng móc lôi kéo quư vị đi theo, quư vị không làm ǵ được. Sức lực của ma thật là lớn vậy. Làm sao bây giờ?

Dù thế nào đi nữa, sức Ma lớn đến đâu vẫn chẳng thể lớn hơn sức Phật. Một câu A Di Đà Phật chiếu đến Ma, Ma liền bỏ chạy, Phật hiệu áp chế được Ma. Vọng tưởng là Ma, niệm một câu Phật hiệu là Phật, dùng Phật hiệu để áp chế Ma. Khi vọng tưởng khởi động là nghĩ tới Ma th́ nó đến, ta trị không được, chỉ có ḿnh Phật hiệu thắng được nó, quư vị liền gấp rút niệm Phật. Niệm thuần thục rồi th́ dù ḿnh có muốn gọi Ma tới, nó cũng chẳng tới v́ khắp trong tâm toàn là Phật. Có Phật th́ không có Ma. Có Ma th́ không có Phật. V́ thế, đây là cách chế ngự Hoặc chứ không đoạn Hoặc, không trừ gốc của Hoặc. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi th́ tự nhiên đoạn sạch Hoặc.

Chẳng cần phải nói nhiều nữa, ba điều trên là đủ. Trong bảy ngày này, kính xin quư vị thực hành đúng theo những điều ấy, về đến nhà cũng vẫn tu như vậy th́ kỳ Phật Thất này chẳng uổng phí. Tiếp đây, tôi dùng một bài kệ để kết thúc:

 

a. “Tịnh Độ nan tín khước dị hành” (Tịnh Độ khó tin, nhưng dễ hành):

 

Chỉ ḿnh đức Phật là có thể giảng minh bạch Tịnh Độ Tông, trừ đức Phật ra, không c̣n một ai khác có thể giảng minh bạch được. V́ thế, Tịnh Độ là “nan tín”. Học Phật nhiều năm, kinh sách mười phần coi hết chín, vẫn chẳng tin nổi Tịnh Tông. V́ thế bảo là pháp Nan Tín. Nhưng đối với ai tu được pháp này th́ nó rất đơn giản. Những lời tôi nói đây đều là lời của Tổ Sư, của Phật giảng, chứ chẳng phải là lời tôi giảng. Tôi chỉ là cái máy cassette phát lại cho quư vị nghe mà thôi. Pháp tu dễ dàng nhưng phải có rèn luyện lâu dài, chứ chẳng phải là vừa tu là thành tựu được ngay, vừa tu là chứng ngay. Đó là câu kệ thứ nhất.

 

b. “Toàn do nhị lực chánh trợ công” (hoàn toàn do hai lực và Chánh Công Phu, Trợ Công Phu):

 

Nhị lực tức là công phu của chính ḿnh (tự lực). Ḿnh không dụng công không xong. Ngoài ra c̣n có Phật lực, Phật đến tiếp dẫn ḿnh. Quư vị xem, phần nhiều tượng Phật A Di Đà là tượng đứng, là dạng tiếp dẫn. Thật ra, vị Phật nào cũng đều có Tịnh Độ riêng, nhưng các đức Phật khác chẳng đến tiếp dẫn ḿnh. Chỉ ḿnh đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn ta. Quư vị không biết đường cũng chẳng sao, A Di Đà Phật cầm hoa sen đến đón quư vị, cứ ngự lên hoa sen, cứ ngự lên hoa sen! Ngài đưa quư vị đi! Nếu sanh về cơi khác sẽ chẳng có phương tiện này đâu, quư vị phải tự nhận biết đường.

 

c. “Tất đắc Nhất Tâm phương hữu hiệu” (phải đạt được Nhất Tâm th́ mới hữu hiệu):

 

Quư vị phải niệm đến Nhất Tâm mới hữu hiệu. Niệm không Nhất Tâm th́ vô dụng. Điều này ai nấy hăy nghe cho rơ. Thế nào là Nhất Tâm? Đoạn Hoặc là Nhất Tâm thuần túy. Chế ngự Hoặc cũng là Nhất Tâm, cũng được văng sanh.

 

d. “Phương tiện phục Hoặc tức cảm thông” (dùng phương tiện chế ngự Hoặc liền cảm thông):

 

Đoạn Hoặc chẳng dễ. Thành A La Hán là pháp Tiểu Thừa, đoạn sạch Kiến Hoặc rồi c̣n phải sanh vào nhân gian hay cơi trời bảy lần, tu tập cả vạn năm mới thành tựu, mới đoạn sạch Tư Hoặc. Quư vị niệm A Di Đà Phật bảy ngày thành công, thật là thuận tiện quá. Quư vị chẳng dùng công phu trên đây không thể đoạn Hoặc, làm thế nào đây? Th́ lại có pháp phương tiện là chế phục Hoặc. C̣n đối với các tông khác th́ sao? Trong các tông khác, chế phục Hoặc là điều hoàn toàn vô dụng. Tu các tông khác th́ dù có chế phục Hoặc vẫn c̣n trong luân hồi, hoàn toàn vô dụng. Chế phục Hoặc chỉ hữu dụng đối với Tịnh Độ Tông, trong các tông khác chẳng thể áp dụng cách này được.

Do chế phục Hoặc, quư vị được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ sẽ đoạn Hoặc ở nơi đó, tự nhiên A Di Đà Phật sẽ giúp quư vị đoạn Hoặc. Cốt sao cảm ứng th́ quang minh dung thông lẫn nhau mới có thể thành công.

Nói tóm lại, đến ngày thứ tư tôi sẽ giảng nữa. Nay giảng đôi điều về công phu, mọi người nên nhớ kỹ. Hôm nay là ngày đầu, từ đây đến suốt bảy ngày sau quư vị cứ thực hành theo đó, tận dụng thời gian này khẩn thiết niệm Phật. Xin lăo sư sắp sẵn kiền chùy[2], ai nấy buông xuống vạn duyên, cứ một câu A Di Đà mà niệm măi.

 

VII. KHAI THỊ PHẬT THẤT TẠI CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU NGỌ (lần thứ hai)

(Tư Thục Điền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích Hà giảo đính)

 

Tạp niệm giai thị b́nh tố tội,

Nhược bất tạo nghiệp niệm bất sanh,

Tùng kim thiết mạc tái tạo nghiệp

Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành

(Tạp niệm là tội ngày thường

Nghiệp như chẳng tạo, niệm đường nào sanh?

Từ nay chẳng tạo nghiệp trần

Nhất Tâm Bất Loạn quả thành tự nhiên)

 

 Phật Thất đă đến ngày thứ năm, tôi đă nói chỉ cần chiếu theo phương pháp đă giảng trong ngày thứ nhất mà tu tập, nh́n chung ít nhiều có tiến bộ dần dần. Tính từ hôm nay chỉ c̣n có hai ngày nữa thôi, chúng ta chỉ cầu Nhất Tâm, không cầu ǵ khác.

Đa số mọi người chẳng hiểu Tâm là cái ǵ, học Phật chỉ cần hiểu được chữ Tâm này th́ công phu mới chẳng uổng lầm. Có thể nói là mọi người tu hành nhiều năm nhưng vẫn chưa hiểu rơ chữ Tâm này, nên hôm nay tôi nói cho quư vị nghe ư nghĩa của chữ Tâm để quư vị dụng công nơi Tâm.

Tâm ở đây hoàn toàn chẳng phải là “nhục đoàn tâm” (quả tim thịt), chẳng phải là vật ǵ, chẳng phải là trái tim thuộc trong ngũ tạng, lục phủ. Như vậy, nói tới cùng, Tâm là ǵ? Từ xưa đến nay ai cũng chẳng thấy, ai cũng chẳng t́m được nó. Chỉ người chứng quả mới hiểu rơ mà thôi, hễ hiểu được Tâm th́ chứng quả. Người đến giảng khai thị hôm nay cũng chỉ nói những điều tạm diễn tả Tâm để mọi người tự suy nghĩ lấy. Một khi tôi đă nói ra, mọi người nên tin tưởng. Nếu chẳng tin th́ đành chẳng có cách nào. Những điều tôi sắp nói rất b́nh thường, nhưng rất khó thực hiện bởi nó là pháp khó tin dễ hành vậy.

Tâm chính là ư niệm của mỗi người tự phát khởi. Tâm nghĩ đến điều ǵ th́ liền khởi ư niệm về điều đó. Nếu bảo kẻ này tâm tốt, kẻ kia tâm xấu th́ cũng là nói về ư niệm của người đó. Ư niệm đó gọi là Tâm. Câu nói này, đối với người đă học Phật mấy năm th́ khó mà nói là chẳng hiểu được! Tâm ấy chẳng thấy được, chẳng sờ được, nhưng tự ḿnh chẳng lẽ không hay biết hay sao? Bởi thế, người ta tu hành chính là tu ngay nơi ư niệm này. Quư vị nên nhớ kỹ. Làm thế nào để tu nơi ư niệm?

Muốn hiểu rơ cách tu th́ trước hết phải hiểu rơ ư niệm đă. Trong những ư niệm của con người, không có được một ư niệm tốt mà toàn là vọng niệm, tạp niệm. Vọng niệm không có ǵ là chân thực, đều là giả dối cả. Tạp niệm là ư niệm chẳng sạch sẽ, tịnh rồi lại tạp ư? Nói khái quát, ư niệm của chúng ta toàn là tạp loạn, hư vọng, toàn là chẳng đúng. Quư vị có biết trong một ngày chúng ta khởi bao nhiêu ư niệm không? Xin nói cho quư vị hay: Quư vị xem đây (cụ Lư búng ngón tay), trong khoảng thời gian búng ngón tay thật ngắn ngủi này đây, nói không sai cho lắm là quư vị có gần cả trăm mấy mươi ư niệm, nhanh như vậy đó! Mà một ngày từ sáng đến tối chẳng ngừng, nói cho quư vị hay là quư vị chẳng có ư niệm nào cầu thành Phật cả.

Quư vị nghe vậy tin hay chẳng tin? Có vị nghe tôi nói lời này liền tin ngay, ai chẳng tin lời tôi, người đó chẳng tin Phật pháp. V́ sao vậy? Lời tôi vừa nói đó đâu phải do tôi đặt ra, mà đều là những điều được nói trong kinh. Ai không tin Phật pháp th́ học Phật cách nào? Làm sao thành tựu được? Học Phật phải thờ ai làm thầy? Phật chính là thầy. Làm theo đúng lời Phật dạy ắt sẽ thành công; chẳng tuân theo th́ chẳng cách nào thành công được.

Từ sáng đến tối ư niệm phát khởi chẳng ngừng, nhiều như thế đó, chẳng ai nắm giữ được những ư niệm này, mà những ư niệm được phát khởi đó đều là những ư niệm xấu xa cả. Dù có ư niệm xấu như vậy nhưng có thể là chúng ta chẳng nói lời xấu, cũng như không làm điều ǵ xấu. Hừm! Rơ ràng trong tâm nổi lên chủ ư xấu, chẳng nói lời xấu, chẳng làm điều ǵ, nhưng chủ ư xấu vẫn có ảnh hưởng, nhà Phật gọi là “chủng tử”. Đây là cách nói thí dụ, chứ chẳng phải thực sự là gieo hạt giống xuống.

Một khi ư niệm khởi lên, nó sẽ in bóng vào tâm. H́nh bóng của ư niệm được in vào tâm đó gọi là “chủng tử”. Quư vị nghĩ xem, có những sự việc đă lâu năm, chợt nghĩ đến th́ những điều ḿnh nghĩ đến đó liền tái hiện. Những điều ḿnh nghĩ đến đó chẳng hề giảm mất, chúng đều được chứa trọn trong tám thức điền, cả vạn vạn năm chẳng bị tiêu diệt mất. Dù cho ḿnh có bận tâm hoặc chẳng quan tâm ǵ đến chúng, h́nh ảnh của chúng vẫn tồn tại trong tâm ḿnh. Những ǵ ḿnh mơ thấy trong giấc ngủ chính là những h́nh ảnh này. Đến lúc chúng ta lâm chung, những h́nh ảnh trong tâm sẽ hiện ra ngoài, tạo thành ư niệm. Khi lâm chung vào lúc tối hậu, khi ư tưởng ḿnh chấp vào đâu, nó sẽ dẫn ḿnh theo đi đầu thai nơi đó, lại trở vào trong lục đạo luân hồi.

Nói là lục đạo luân hồi, nhưng thật ra chỉ có ba đường dưới. Chúng ta khởi tâm, tâm người không có, tâm trời cũng không th́ đương nhiên là khởi tâm tam đồ. Tâm này phát khởi ra sao? Chúng tôi chẳng đề cập đến chuyện từng làm điều xấu, mà chỉ luận về tâm. Dạy mọi người giữ giới, mọi người không giữ, hoặc giữ giới nhưng toàn phát khởi ư niệm phạm giới. Do phạm giới, tâm này phải đọa trong tam đồ: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Nếu tạo thành hành động (tạo nghiệp) th́ thời gian thọ khổ dài thêm một phần, tội lớn thêm một phần. Chẳng tạo thành hành động (chỉ khởi vọng niệm, c̣n chưa tạo nghiệp) th́ tội ít hơn một phần, thời gian thọ khổ ngắn hơn một phần. Trước hết, phải phân biệt hiểu rơ điểm này.

Học Phật tu hành, tu hành những ǵ? Tu hành chính là tu ư niệm này. Có người nói tôi chẳng khởi ư niệm lớn, chẳng nói ǵ, c̣n chẳng thấy ḿnh đang giác ngộ những ư niệm của chính ḿnh khởi lên th́ c̣n cái ǵ để tu nữa đây?

Chẳng có một ai không hề khởi lên một ư niệm nào cả! Đến ngay bậc Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n khởi niệm nữa kia! “Vô niệm” chính là không vọng niệm, không tà niệm, chứ hoàn toàn chẳng phải là không có ư niệm nào! Điều này vị nào xem kinh nhiều cũng đă thấy rơ rồi. Nếu không có ư niệm th́ trở thành gỗ, đá. Quư vị tu thành gỗ, đá để làm ǵ?

Chẳng qua [tu học] là để biến đổi ư niệm. Biến đổi như thế nào? “Chẳng khiến người khác khởi vọng niệm, chẳng khiến người khác tạp loạn”. Chẳng khiến người khác khởi vọng niệm nghĩa là chỉ có ư niệm thanh tịnh, trong sạch. Điều này trong kinh có nói đến. Ai đọc chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông [trong kinh Lăng Nghiêm], ắt sẽ hiểu câu “tịnh niệm tiếp nối” nghĩa là khiến cho ư niệm thanh tịnh được liên tục chẳng gián đoạn. Người khác “loạn niệm tiếp nối”, ta tu hành sao cho “tịnh niệm tiếp nối”.

Thế nào là “tịnh”? Tịnh là thuần một ư niệm, không tạp loạn, chẳng có bảy thứ t́nh cảm: mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, sợ, chẳng có giết, dâm, trộm, chẳng có tham, sân, si. Chẳng có những điều ấy th́ ư niệm thanh tịnh. Quư vị thử nghĩ xem, nếu ư niệm chẳng tạp loạn th́ chẳng phải là thanh tịnh hay sao? Không kể bọn ta ra, ngay cả hàng Địa Thượng Bồ Tát c̣n chưa đạt được ư niệm thanh tịnh, nói chi là bọn ta! Chúng ta không có ư niệm thanh tịnh th́ phải làm thế nào đây? Ai có thể triệt để thực hiện được điều này? Chỉ có ḿnh đức Phật! Ư niệm của đức Phật hoàn toàn thanh tịnh. Chỗ nào mà mọi bất tịnh đă hoàn toàn trừ khử th́ chỗ đó chính là thế giới trang nghiêm của Phật, tức là Tịnh Độ. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc chép: “Tam Hiền, Thập Thánh c̣n trụ trong quả báo, chỉ ḿnh đức Phật ngự trong Tịnh Độ”. Tam Hiền, Thập Thánh ư niệm c̣n chưa thuần thanh tịnh. Quư vị cứ lấy kinh Hộ Quốc Nhân Vương ḍ kỹ từng ḍng sẽ thấy chỉ ḿnh đức Phật thanh tịnh ư niệm triệt để. Chúng ta chưa thành Phật, ngay cả La Hán c̣n chưa chứng, chưa đoạn được bất cứ thứ Hoặc nào, th́ làm thế nào để tịnh ư niệm đây?

Trước hết, hăy hỏi quư vị một câu: Lúc quư vị ở đây niệm Phật th́ chuyện niệm đó cũng là khởi ư niệm, vậy th́ niệm đó là Phật hay không phải là Phật? Là Phật. Đúng như vậy! Phật là thanh tịnh nhất, ngoại trừ Phật ra, tất cả đều chẳng thanh tịnh, đều hư giả. Niệm đó chính là A Di Đà Phật. Phật A Di Đà là bậc nhất trong các Đức Phật. Niệm nằm trong tâm quư vị, tâm chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật chính là tâm niệm của quư vị. Trừ điều này ra, không c̣n ǵ khác nữa, ắt sẽ thành công. Ngoài phương pháp này, không có phương pháp nào đơn giản hơn nữa. Bởi thế, chẳng cần vận dụng đến phương tiện nào khác nữa mà tâm tự khai ngộ. Ở đây niệm chú này, nơi kia niệm chú kia đều uổng công. Dù có nhiều phương tiện, nhưng chẳng cần phải tu phương tiện nào khác. Chẳng cần vận dụng phương tiện mà tâm tự khai ngộ chính là điều tối khẩn yếu. Quư vị tu hành như thế đó, biến ư niệm của chính ḿnh thành Phật A Di Đà, ngoài đức A Di Đà Phật không c̣n có tâm nào khác nữa, th́ gọi là Nhất Tâm.

Điều vừa bàn trên đây chẳng phải là chỉ dùng mấy câu bèn có thể giảng minh bạch được, mà nó cũng rất khó giảng. Tôi chỉ nói điều khẩn yếu nhưng vẫn e mọi người dù nghe rồi vẫn chưa hiểu rơ. Tôi nói câu sau đây nhiều lần: “Từ sáng đến tối, trong tâm chẳng khởi vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm”, làm thế nào để đạt được như vậy mới khỏi uổng công nói như thế! Trong hàng Bồ Tát chưa chứng được Thất Địa c̣n nhiều vị chưa làm được điều này.

Nếu quư vị lại hỏi người khai thị làm được điều này chăng? Tôi cũng chưa làm được! [Chắc quư vị sẽ bắt bẻ] “ông chưa làm được lại bảo tôi làm”, có hợp lư không? Chẳng hợp lư! Tôi có phương pháp: vọng niệm khởi th́ tạp niệm cũng khởi. Khởi rồi th́ làm sao? Kinh dạy: “Đừng sợ niệm khởi, chỉ sợ chậm hay”. Vọng niệm khởi quư vị mặc kệ, chẳng thèm biết đến th́ không được; v́ là bị ma dựa, là chứa chấp giặc mà ḿnh vẫn không hay th́ chúng sẽ làm loạn trong tâm liền. Quư vị biết là có ma, có giặc th́ phải pḥng bị. Đó là điều nên làm vậy!

Khi khởi ư niệm xấu, quư vị bèn không tu Tịnh Độ nữa hay sao? Quư vị tu Tịnh Độ nhưng không dùng phương pháp của Tịnh Độ, lại dùng phương pháp khác, há chẳng phải là phiền toái sao? Quư vị dùng ngay bốn chữ A Di Đà Phật, vọng niệm vừa khởi, chẳng lư ǵ đến hết thảy, cứ A Di Đà Phật, A Di Đà Phật.... Vọng niệm vừa khởi liền niệm mấy mươi câu A Di Đà Phật đè nó xuống. Đây gọi là Chế Phục Hoặc. Đè nén được nó th́ ma đó, giặc đó chẳng nổi dậy được! Đè nén phía dưới, những thứ bất tịnh chất chứa cũng bị đè xuống dưới th́ trên mặt sẽ thanh tịnh, giống như một chén nước, nếu cát bụi bị lắng xuống dưới, phần nước bên trên sẽ trong veo. Đấy chính là Chế Phục Hoặc!

Giống như vậy, khi lâm chung, mới vừa giao cảm th́ phần trên sẽ xuất hiện trước, phần dưới chẳng xuất hiện. Phần trên là A Di Đà Phật nên bèn được A Di Đà Phật tiếp dẫn đi. C̣n nếu như phần dưới hiện ra th́ không văng sanh được, A Di Đà Phật cũng chẳng biết làm sao. Trên đây là nói về phương pháp “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ chậm hay” vậy.

Chúng ta không phải là người xuất gia. Người xuất gia sống trong chùa nên không bị xă hội tạp loạn gây chướng ngại. V́ họ ít việc nên chẳng khởi tạp loạn. Chúng ta tại gia rất khó làm được vậy, toàn là lo những việc thế tục. Chẳng hạn như nói đến những vật thường thấy thuộc về thất t́nh, ai nấy đều tính toán tiền bạc. Hễ tính toán tiền bạc th́ nghĩ: Ai phải đưa cho ḿnh chừng đó tiền, ḿnh trao cho ai chừng đó tiền, như vậy sẽ được mấy phân lời? Do mấy phân lời bèn suy tính cái này, hoạch định cái kia. Đấy là tâm tham! Vậy th́ phải làm sao? Hăy nghe tôi nói mấy câu: Lúc tính tiền, đừng khởi chủ ư xấu, đừng toan nghĩ cách làm thiệt hại đến người khác. Ḿnh phải đưa tiền cho ai th́ cứ đếm một, hai, ba, bốn tờ... bao nhiêu đó, đếm xong đừng chấp vào đó. Một, hai, ba, bốn chỉ là những con số để tính đếm, chẳng thiện, chẳng ác. Tính đếm xong th́ thôi, buông hết xuống, xong việc rồi thôi, buông bỏ, tâm không nghĩ đến nó nữa. “Buông bỏ” rất khẩn yếu, ở đây tôi chỉ lấy việc tính tiền làm thí dụ.

Lại như tại gia tu hành, ḿnh tu hành, người nhà không tu, ra chợ mua thịt về kêu ḿnh thái thịt hoặc sát hại con ǵ đó th́ ḿnh làm sao? Lúc đó cũng đừng có căng thẳng. Nếu không bảo kẻ kia làm được th́ ḿnh đành phải làm; nhưng lúc đang làm, muôn phần chớ quên niệm A Di Đà Phật. Thịt đó, do chúng nó không học Phật nên tạo ác nghiệp, mới bị biến thành heo, thành dê, thành thịt, bị người khác ngàn cắt, vạn xẻ. Lúc quư vị cắt xẻ, cứ mỗi nhát dao là một câu A Di Đà Phật th́ con dao ấy sẽ thành A Di Đà Phật tiêu tội cho quư vị. Dùng cách quán tưởng ấy để biến cải tâm ḿnh là được.

Thậm chí ở nơi nhà xí, chỗ bất tịnh, dù miệng chẳng niệm Phật nhưng tâm tưởng: “Tây Phương Cực Lạc thế giới không có việc này, không có đại tiểu tiện. Thế giới Sa Bà bẩn thỉu như vậy, chúng ta tạo các thứ tội nghiệp mới phải sinh vào đây, tâm chẳng thanh tịnh mới sống nơi chẳng sạch sẽ”. Lúc đó, giữ tấm ḷng sám hối, trong ḷng cầu A Di Đà Phật sớm cho ḿnh được ôm chân Ngài. Dù làm bất cứ việc ǵ cũng chẳng được quên A Di Đà Phật, chẳng cần phải niệm ra tiếng. Trong tâm tưởng Phật để hoán chuyển cảnh giới. Đấy chính là “ức Phật”.

Quư vị tập sao cho trong tâm chẳng hề quên Phật là được, dù gặp phải t́nh huống thế nào, cứ đơn giản làm theo biện pháp ấy. Tôi nói đi nói lại: Quư vị lấy trộm tiền của người khác th́ là ăn cắp vặt; vừa niệm Phật vừa trộm lấy th́ không c̣n cách nào để giảng cho quư vị được nữa. Quư vị chớ có thiếu khai ngộ như thế.

Nói tóm lại là phải giữ ǵn giới luật. Phật tại thế thờ Phật làm thầy, Phật chẳng tại thế lấy Giới làm thầy. Học Phật th́ chẳng được phạm giới luật. Đă nói là chẳng được phạm giới mà c̣n trộm cắp vặt ư? Chẳng giữ giới luật làm sao học Phật được?

Hôm nay tôi chỉ nói như vậy, chẳng thể nói nhiều. Hoàn toàn là thường ngày trong lúc ăn uống, đứng ngồi phải luôn luyện tập, lâu ngày chầy tháng quư vị thường luôn luyện tập th́ tự nhiên tạo thành thói quen nên sẽ thành công. Thời gian kết Phật Thất này chính là lúc để kiểm nghiệm công phu ở nhà của quư vị như thế nào. Đến đây thí nghiệm xem quư vị có đắc Nhất Tâm trong ṿng bảy ngày này hay không? Nếu ở nhà đă chẳng hề luyện tập th́ đến đây làm sao đắc Nhất Tâm được? Làm ǵ dễ dàng như thế được? Quư vị phải nhớ đây là chuyện thực tế.

Thường ngày luyện tập sẽ tập thành thói quen tự nhiên. [Khi đó] chẳng cần đến chùa Linh Sơn dự Phật Thất, ở ngay ngoài đường cũng là đạo tràng v́ đă quen rồi! Dù cho đến đây dự Phật Thất chẳng đạt Nhất Tâm th́ cũng có được tăng thượng duyên hỗ trợ cho ḿnh. Dù công phu của ḿnh tệ bạc đến đâu, đến đây thấy ai nấy đều niệm Phật, dù một ḿnh ta không niệm, nhưng lắng tai nghe th́ cũng có h́nh bóng đức Phật in vô tâm ḿnh. Công đức ấy chẳng phải nhỏ. Chúng ta chưa nhận thức được rằng: Dù chỉ là tăng thượng duyên cũng có đại lợi ích vậy.

Nói tóm lại, công phu hoàn toàn cậy vào sự luyện tập thường ngày, tập quen sẽ tự nhiên thành tựu, tự nhiên làm được thôi! Trong kinh Di Đà nói các loài chim thuyết pháp, quư vị vẫn chưa thấu hiểu sao? Cho đến khi nghe gió thổi qua những cây báu cũng tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đấy đều là tự nhiên cả. Đă quy về tự nhiên th́ tự nhiên chẳng sợ ǵ hết, làm bất cứ điều ǵ cũng là để lợi ích chúng sanh. Tâm trên v́ Phật pháp, dưới v́ chúng sanh th́ là đă thành công rồi. Một mảy riêng tư trong tâm cũng không có. Hăy nhớ kỹ điều này!

Hơn nữa, từ ngày hôm nay trở đi, bao nhiêu tội nghiệp trước kia hăy để cho chúng bị tiêu hóa hết trong tâm đi. Làm thế nào để tiêu hóa? Chẳng tạo họa mới nữa. Chẳng tạo họa mới tức là chẳng vun bồi những chủng tử cũ. Những chủng tử ấy chẳng được tăng trưởng ra ngoài th́ lâu ngày chúng sẽ tự nhiên diệt đi. “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp” nghĩa là gặp phải sự việc bất hảo liền gắng thay đổi hoàn cảnh. Như phần trên đă nói, quư vị bắt buộc phải sát sanh không c̣n cách nào khác, th́ quư vị nên niệm Phật thay cho chúng nó. Tâm quư vị chẳng có những việc xấu ấy, tùy theo những sự việc xấu ấy mà biến cải tâm lư. “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, cánh bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp, chẳng tạo thêm vạ mới) như vậy th́ sẽ thành công.

Tiếp đây, tôi sẽ đọc qua bài kệ một lượt cho quư vị nghe. Ai thấy được th́ nh́n, không thấy th́ nghe cũng vậy thôi.

“Tạp niệm giai thị b́nh tố tội”: Tạp niệm chính là vọng niệm khởi động. Chẳng phải là quư vị muốn như vậy, nhưng vọng niệm chính là chủng tử của tội nghiệp hiển hiện. Khi vọng niệm khuấy động bên trong th́ gọi là Ma. Thường ngày, khi nào quư vị gây tạo tội nghiệp th́ khi ấy vọng niệm phát khởi .

“Nhược bất tạo nghiệp niệm bất sanh”: Quư vị chẳng tạo tội nghiệp th́ vọng niệm chẳng sanh. Vọng niệm chẳng sanh th́ ư niệm nào khởi lên cũng là tịnh niệm, “tịnh niệm tiếp nối”.

“Tùng kim mạc thiết tái tạo nghiệp”: Từ nay, lúc nào cũng là lúc ḿnh niệm Phật. Từ nay về sau đă chẳng tạo hết thảy nghiệp th́ tại sao c̣n nhiều phen tổn hại chúng sanh? Độ chúng sanh chẳng phải là tổn hại chúng sanh. Ḿnh tổn hại chúng sanh trong xă hội th́ c̣n học Phật cái nỗi ǵ? Tạo nghiệp đều là làm hại người khác, ta chẳng nên tạo nghiệp.

“Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành”: Có vậy th́ mới đắc Nhất Tâm Bất Loạn, tự nhiên thành công. Nếu c̣n tạo nghiệp th́ đạt Nhất Tâm sao nổi!

Nói đă nhiều rồi, mỗi câu đều có đạo lư sâu xa. Trong thời gian này, mọi người nên gắng đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Niệm Phật cầu Nhất Tâm Bất Loạn rất khẩn yếu. Tính đến mai vẫn c̣n hai ngày, mọi người hăy suy nghĩ những điều đó, về đến nhà cũng vẫn thực hành theo đó. Chư vị đồng tu hăy buông xuống vạn duyên, niệm mỗi một câu A Di Đà Phật!

 

VIII. KHAI THỊ TRONG PHẬT THẤT NĂM TÂN DẬU

(đệ tử Liên Thục Mỹ kính ghi)

 

Tính đến nay đă là ba mươi năm mở Phật Thất ở đây, mỗi lần đều phải có người giảng nói. Theo quy củ, phải thỉnh thiện tri thức trong Tịnh Độ Tông đến khai thị. Khai thị chẳng phải là giảng kinh, thuyết pháp, mà là nói về những điểm thật trọng yếu, phải thuyết minh điều quan trọng là làm thế nào để đạt Nhất Tâm. Chẳng đạt được Nhất Tâm th́ dù có niệm Phật vạn năm cũng chẳng thành công.

Nay tôi chỉ là một gă bạch y, công phu cũng chẳng giỏi, tuy từng gặp được các bậc đại đức trong Tịnh Tông, gặp minh sư chỉ điểm, nhưng v́ ngu độn, chỉ có thể dựa theo lời tổ sư giảng, dựa dẫm các ngài để giảng giải, chẳng dám xưng là giảng khai thị.

Ba mươi năm qua, ai giảng trong mỗi kỳ Phật Thất? Toàn là tôi giảng. Mỗi năm, đồng tu tham gia cũ mới đều có, lời giảng cũng khác. Trong số đó, có người đă từng nghe giảng suốt ba mươi năm qua, nay lại giảng cái ǵ đây? Giảng nữa cũng vẫn là những lời đó. Nghe qua rồi, bạn đồng tu chẳng muốn nghe lại v́ đều đă hiểu cả rồi. Thử hỏi có ai làm được chưa? Nếu chưa làm được th́ có giảng vẫn là vô dụng.

Nay tôi dựa theo khai thị của tổ sư để giảng. Tổ sư dựa theo kinh điển mà kinh là từ miệng Phật nói, pháp môn đều do Phật truyền, điều ǵ kinh không nói th́ tổ sư cũng chẳng dám tùy tiện đặt ra. Nhưng Tam Tạng kinh điển quá nhiều, phàm phu chẳng tiếp nhận hết nổi, chỉ có thể chuyên tu theo một pháp môn. Chúng ta đều tu Tịnh Độ nên tôi dựa theo pháp môn Tịnh Độ mà nói.

Có lẽ quư vị nghi hoặc: V́ sao tôi không nói thẳng vào phương pháp chứng đắc Nhất Tâm? Đó là v́ hiện tại mọi việc đều chẳng b́nh thường, chẳng đúng lẽ, đều suy thoái cả. Có người bảo bây giờ náo nhiệt hơn trước, sao lại bảo là suy thoái? Nói đến Nhiệt th́ toàn thân mướt mồ hôi, ḷng đầy phiền muộn, Náo là lộn xộn bảy tám tầng. Nói đến tu Tịnh Độ th́ phải đắc Nhất Tâm Bất Loạn mới có thể văng sanh, nếu náo nhiệt th́ làm sao đạt Nhất Tâm được? V́ vậy mới bảo là suy thoái.

Mọi người là bạn già của tôi, đă niệm Phật ba mươi năm rồi, sau này nếu như mọi người chẳng đạt được kết quả tốt là tôi có lỗi đối với mọi người. Cổ nhân nói: “Thiên nhân ngật phạn, nhất nhân hoàn tiền” (ngàn người ăn cơm, một người trả tiền). Kết thất niệm Phật, đông người tham gia, phí tổn cũng nhiều. Nếu như chẳng có kết quả ǵ lại là tạo tội nghiệp, hết thảy tội lỗi người giảng khai thị phải gánh. Nếu như trong đây có một ai phát chân tâm, đạt được Nhất Tâm, sau này văng sanh th́ coi như là người ấy đă bồi hoàn phí tổn cho đạo tràng này rồi. Ngày hôm nay khác với năm ngoái, xin quư vị phải chú ư tột bực, nghĩ đến văng sanh th́ ắt sẽ niệm đến mức Nhất Tâm, đừng có ồn náo vô ích.

Chư vị tu hành hơn ba mươi năm. Cổ nhân nói: “Thuyết đắc nhất trượng, bất như hành nhất xích” (nói một trượng không bằng làm được một thước). Nói nhiều vô dụng, cần phải thật tu mới nên. Kinh điển rất nhiều, nhưng hiểu được vạn pháp chẳng bằng hiểu kỹ một pháp, bởi lẽ bất luận như thế nào cũng đều phải y theo một môn tu hành mới ḥng thành công được. Dùng bất cứ câu nào trong kinh cũng đều chứng quả được, nhưng vạn câu kinh chẳng bằng một câu Phật!

Có lẽ mọi người không tin điều này, v́ thường có bạn đồng tu đến hỏi tôi cần phải niệm thêm bộ kinh nào? Bộ kinh nào cũng tốt v́ đều là lời Phật dạy cả. Nếu như khóa sáng mỗi ngày tụng hết cả Tam Tạng mười hai bộ kinh th́ công đức rất lớn, nhưng xưa nay, ngay cả các vị tổ sư cũng chưa ai có thể niệm hết trong một buổi sáng được. Sáu chữ trong một câu Phật hiệu, tôi chỉ hiểu nổi ba chữ, hiểu biết mới được một nửa như vậy mà đă có thể giảng suốt ba mươi năm. Quư vị lợi căn nếu hiểu được bốn chữ th́ ắt sẽ thành tựu.

V́ sao một câu Phật hiệu lại có hiệu quả lớn đến thế? V́ kinh do Phật nói ra, Tăng do dựa vào kinh mà có. Đă văng sanh rồi vẫn phải niệm Tam Bảo. Phật đứng đầu Tam Bảo. V́ vậy, hiểu được một câu Phật hiệu là thành công. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên để được sanh về cơi kia”. Niệm Phật là trồng thiện căn. Cây có gốc mới có thể sanh trưởng; có thiện căn th́ mới có thể khai hoa, kết quả. Những điều này trước đây tôi đă giảng qua, nhưng chỉ là diễn giảng cách khác.

Ai cũng niệm kinh Di Đà, nhưng vẫn không hiểu. V́ lẽ ǵ không hiểu? Là v́ chưa có duyên khai ngộ. Trong Tịnh Tông cũng cần phải khai ngộ. Không khai ngộ th́ là mê hoặc, điên đảo, nhưng muốn khai ngộ phải là người có phước khí. V́ thế kinh Di Đà nói: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên,”. Muốn khai ngộ th́ phải tu phước.

Phước đức là ǵ? Kinh Di Đà nêu ra ba mươi bảy Trợ Đạo Phẩm, điều này khá rắc rối, không phải ai cũng làm được. Sau này, các tổ sư nói gọn lại là mười thiện nghiệp, nhưng mọi người vẫn không hiểu, nên lại phải nói pháp phương tiện là “tin sâu nhân quả”; cốt yếu là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Thiện ác chủng loại rất nhiều. Nếu như giữ được năm giới cấm căn bản, khởi tâm làm điều ǵ th́ hết thảy đều là v́ công (chẳng tư tâm), đó là Thiện. Tâm riêng tư cuồn cuộn th́ là Ác. Trừ khử ba sự ác căn bản là Tham, Sân, Si, làm ǵ cũng v́ mọi người th́ là có phước đức.

Có phước sẽ khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phước chí tâm linh”, nghĩa là: Phước đến, tự nhiên tâm nhanh nhạy, vừa nói hiểu liền, giảng một câu hiểu đến tám, mười câu. Vô phước th́ tâm chẳng linh lợi, giảng cả trăm câu c̣n chưa nghe hiểu được nổi một câu. Học Phật cầu cảm ứng đạo giao, cảm ứng được Phật th́ gọi là “linh cảm”. Tâm hôn mê, trầm trệ làm sao cảm ứng được Phật? Dù Phật có đến tiếp dẫn vẫn chẳng chịu đi. Công phu phải tu tập hằng ngày. Tu hành chẳng trở ngại đến nghề nghiệp dù là nông, công, thương, công chức, y sĩ. Chỉ cốt sao dùng tâm Bồ Đề làm việc th́ là Thiện, phước chí tâm linh tự nhiên khai ngộ.

Ngày hôm nay kết thất là đi dự thi, lúc b́nh thường khéo công phu th́ lúc kết thất khả dĩ đắc Nhất Tâm, chứ chẳng phải là cứ rêu rao rằng bảy ngày liền được Nhất Tâm, liễu sanh tử. Trong ṿng trời đất làm ǵ có chuyện thuận tiện đến thế? Uống cạn một hơi chén trà c̣n chẳng dễ, huống là đại sự liễu sanh tử! Hoàn toàn là do thường ngày luyện tập. Tâm, Phật và chúng sanh là cùng một sự. Trọn tấm ḷng đều nghĩ đến mọi người, khởi ư niệm nào cũng đều là Phật th́ tâm chính là Phật. Tâm chẳng niệm Phật, tơ tưởng toàn là những điều xấu xa tạp nhạp, lộn xộn trong thế gian th́ tâm là phàm phu. Thành Phật hoặc làm phàm phu đều là do tâm tạo. Tiếp theo đây, tôi sẽ giảng một bài kệ để kết thúc:

“Phật tại tâm trung mạc ngoại cầu” (Phật ở trong tâm chớ ngoại cầu): Phật ở ngay trong tâm quư vị, thành Phật hay thành chúng sanh đều là do chính quư vị mà thôi. T́m cầu đức Phật bên ngoài là lầm lẫn. Câu này nói về thiện căn, câu tiếp theo nói về phước đức.

“Tham sân phóng hạ thị chân tu” (tham, sân buông bỏ ấy chân tu): Tham, Sân, Si là ba phiền năo căn bản. Chẳng buông bỏ được chúng để tu hành đúng như lời dạy th́ chính là nói dối người. Nếu như buông bỏ được chúng th́ mới là chân chánh tu hành.

“Niên quang tam thập năi như cựu” (Ba mươi năm rồi vẫn như cũ): Phật Thất tổ chức ở đây đă ba mươi năm rồi, tôi cũng đă đến giảng cả ba mươi năm. Mười năm đầu, người thành tựu chẳng ít. Mười năm kế giảm bớt. Mười năm sau chẳng được như trước. Năm nay tuy có ba người hiện tướng lành văng sanh, nhưng nói chung là mỗi năm lại kém hơn năm trước, vẫn là y như cũ chẳng tiến bộ ǵ. Sau này ai lại đến giảng trong ba mươi năm nữa đây?

“Thế Chí, Quán Âm đại phát sầu” (Thế Chí, Quan Âm cũng phát rầu): Chúng ta niệm Phật tệ hại như vậy, chẳng phải chỉ ḿnh Phật A Di Đà không cao hứng mà cả Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí cũng phải buồn giùm quư vị. Mỗi cá nhân quư vị tu tập sao đây? Nếu chẳng khéo tu tập th́ thuyền từ phổ độ của Quán Âm Bồ Tát cũng chẳng độ được quư vị. Thế Chí Bồ Tát dạy quư vị nhớ Phật, niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối, quư vị cũng chẳng nghe. Hai vị Bồ Tát phải buồn thay cho quư vị. Các Ngài buồn chuyện ǵ? Các Ngài thấy ḿnh có lỗi đối với A Di Đà Phật, dạy học sinh thế nào mà chẳng thành công chi hết? Hôm nay là thánh đản đức A Di Đà, các Ngài không có cách nào bái thọ A Di Đà Phật, hoàn toàn là do lỗi của bọn ta.

 

IX. LỜI TRẦN T̀NH CỦA CỤ TUYẾT TĂNG[3] NHÂN DỊP PHẬT THẤT NĂM NHÂM TUẤT

 

Kết Phật Thất tại đây đă hơn ba mươi năm. Mỗi lần kết thất, học nhân đều đến đây giảng. Thoạt đầu, mỗi ngày giảng một lượt, đem những sở học về phương pháp Niệm Phật của chính ḿnh cống hiến cho mọi người, c̣n hai chữ “khai thị” chẳng đảm đương nổi. Ba mươi năm qua, tôi đă nói rất nhiều về pháp môn này cũng như cách niệm Phật, đều là bàn về những kinh nghiệm của cổ nhân, chỉ cần chọn lấy một điều để thực hành th́ sẽ có thể thành công.

Hiện tại chính là thời kỳ Mạt Pháp. Tu các pháp môn khác đều phải cậy vào tự lực để đoạn Hoặc, chứng chân. Muốn đắc tiểu quả A La Hán cũng phải cả ngàn năm, vạn năm, thật chẳng dễ thực hiện được. Chỉ có mỗi Tịnh Độ là pháp môn Nhị Lực, tự lực chẳng đủ th́ Phật lực đến gia bị. Điểm đặc biệt nhất là chẳng cần đoạn Hoặc, vẫn có thể cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung Phật liền đến tiếp dẫn, được văng sanh là thành tựu. Pháp môn này thành tựu ngay trong đời này, nhưng điều khẩn yếu là “cảm ứng đạo giao”.

Nếu chẳng cảm ứng đạo giao th́ chẳng thể thành tựu. V́ sao chẳng cảm ứng? A Di Đà như vầng trăng rạng ngời trên không, tâm người niệm Phật giống như nước. Nước phải trong lặng th́ vầng nguyệt mới soi bóng được. Đấy là cảm ứng; có vậy th́ mới có thể tiếp dẫn văng sanh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh giống như nước đục ngầu, vầng trăng chẳng hiện bóng được. Đấy chính là chẳng cảm ứng, dù A Di Đà Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng văng sanh được.

Làm thế nào để cảm ứng? Đấy chính là điểm khác nhau giữa kết thất niệm Phật và niệm Phật ở nhà. Đến đây rồi th́ tâm ǵ cũng buông xuống hết, một ḷng niệm Phật, ở nhà đâu có làm như vậy được. Kinh Di Đà chuyên giảng về chấp tŕ danh hiệu, sáu chữ hay bốn chữ Phật hiệu, một ngày, hai ngày hoặc là bảy ngày, chỉ mong sao có ngày niệm đến Nhất Tâm, tâm thủy lặng trong, cùng Phật cảm ứng, đấy mới kể là thành tựu, lúc lâm chung mới bảo đảm. Nếu chẳng làm được như vậy th́ kết thất cũng uổng công, khác ǵ niệm Phật tại nhà đâu.

Nói đến Nhất Tâm th́ trong ngàn vạn người khó có được một ai hiểu rơ. Chẳng hiểu th́ sao mà làm được? Dù có làm được cũng sợ là chẳng biết [ḿnh có thể làm được]. Vậy th́ làm sao đây? Đạo lư này, tôi là kẻ phàm phu hoàn toàn chẳng biết ǵ. Tuy nhiên, trong Phật Thất chẳng thể giảng kinh nên tôi chỉ dựa theo nghĩa kinh và lời giảng giải của chư tổ sư để tŕnh bày cùng quư vị.

Kinh Di Đà nói: “Nhất Tâm Bất Loạn”, thế nào là Nhất Tâm? Lời tục nói: “Tâm vô nhị dụng”. Dụng tâm là khởi ư niệm tính làm chuyện ǵ đó. “Vô nhị” nghĩa là khi ư niệm phát ra ngoài th́ giống như vết kim đâm rất nhỏ, chỉ có thể lọt qua một sự, chứ hai sự chẳng lọt được. Khi ư niệm đi vào trong tâm cũng giống hệt vậy. Chỉ có một ư niệm lọt vào được nhưng rất nhanh, rất nhỏ. Trong khoảng khảy ngón tay, có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có một trăm mười ư niệm, toàn là do nơi ḿnh giác ngộ. Hễ giác ngộ th́ sẽ khéo làm được. Các tông khác chẳng cho phép khởi ư niệm, mà phải đạt đến vô niệm, rất là khó. Tịnh tông chẳng sợ khởi niệm, chỉ sợ hay biết chậm. Càng khởi càng niệm. Niệm ǵ? Niệm A Di Đà Phật. A Di Đà mà ngừng một chút th́ ư niệm xấu bèn hiện lên ngay. Nếu “tâm vô nhị dụng” (tâm không khởi lên ư niệm nào khác) th́ mỗi niệm khởi lên đều là A Di Đà Phật, cũng không niệm điều ǵ khác. Đó chính là Nhất Tâm.

Lâm chung Phật đến tiếp dẫn. Tiếp dẫn cái ǵ? Chẳng phải tiếp dẫn cái túi da thối tha này, cũng chẳng tiếp dẫn vọng niệm, mà là tiếp dẫn cái tâm niệm Phật. Vừa mới khởi vọng niệm liền tạo thành chướng ngại, dù Phật ở ngay trước mắt cũng vẫn có chướng ngại. Tâm ḿnh cùng Phật quang chẳng chiếu rọi lẫn nhau được nên chẳng thể cảm ứng đạo giao, nên chẳng phát sanh hiệu lực. V́ vậy phải niệm cho đến Nhất Tâm. Lâm chung “tâm chẳng điên đảo” th́ liền được văng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.

Đến đây kết thất niệm Phật mà chẳng hiểu rơ đạo lư này th́ có khác ǵ niệm Phật ở nhà. Nếu như ở nơi đây, tuy miệng niệm Phật, nhưng tâm vẫn nghĩ đến chuyện khác th́ hỏng rồi. Ngay trong lúc niệm Phật, tâm vừa nghĩ tưởng đến phú quư liền chẳng thể ra khỏi lục đạo, luân hồi, thân sau sẽ sanh lên trời. Hễ nghĩ đến gia đ́nh th́ gia đ́nh chẳng phải là Tây Phương, tương lai sẽ lại làm người. Vừa nghĩ đến ḿnh hay hơn người khác, ôm ḷng ngă mạn, thân sau chỉ e vào trong đường Tu La. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt vẫn sanh khởi ba độc Tham, Sân, Si th́ tương lai sẽ đọa làm hung thần. Nếu lại tham đắm thức ăn th́ thân sau đọa làm loài quỷ đa tài[4]. Nếu lúc niệm hôn trầm mà chẳng hay biết th́ tương lai sẽ đọa vào súc sanh. Nói chung đều là tương ứng với lục đạo, chẳng đến được Tây Phương.

Nhưng người niệm Phật do công đức niệm Phật chẳng đọa địa ngục, chẳng biến thành ngạ quỷ, chẳng làm thân súc sanh hạ đẳng. Dù sanh trong bất cứ loài nào cũng đều hưởng phước, nhưng đến đời thứ ba, do lúc chuyển thân, thần thức bị mê, công đức niệm Phật chẳng thể hiện hành, chỉ e lại bị đọa lạc rồi thọ tội.

V́ thế, ở nơi này niệm Phật, phải nên buông xuống hết thảy, khi niệm sáu chữ hoặc bốn chữ hồng danh phải từ trong tâm phát khởi, tai nghe cho rơ ràng, minh bạch, lại in vào trong tâm, đi ra, trở vào, niệm sao cho thành một mối, nhưng chỉ có loạn tâm là chưa buông xuống được. Đến khi Phật Thất kết thúc, chẳng phải là về đến nhà liền được văng sanh đâu nhé! Ở nhà lâu ngày, sáng tối niệm Phật chừng hai tiếng đồng hồ, loạn tâm lại xuất hiện th́ cũng vô dụng. V́ thế phải ǵn giữ “tịnh niệm tiếp nối”. Ở đây làm như thế nào th́ về đến nhà cũng phải làm giống hệt vậy, tiếp tục chẳng gián đoạn th́ mới thành công được.

Tôi chỉ giảng đến đây, phải nhớ kỹ mới bảo đảm được. Tiếp đây, tôi nói một bài kệ để kết thúc:

“Ưng tri tán loạn niệm Di Đà”: Mọi người phải biết: Nếu tâm tán loạn chẳng làm ǵ được nổi, cứ niệm Phật như thế th́ sẽ ra sao?

“Không phí công phu nan giải thoát”: Công phu uổng phí, chỉ được phước báo, chẳng thể văng sanh, vẫn ở trong lục đạo luân hồi, rất khó giải thoát.

“Nhân sanh thọ mạng hô hấp gian”: A, cứ tà tà mà niệm th́ sao? Tà tà không được. Kinh dạy: “Mạng người trong hơi thở”. Một hơi thở ra không trở lại th́ liền thành đời sau, chớ tu hành lơ là.

“Nhất thất cơ duyên khổ vạn kiếp”: Hiện tại, cơ duyên rất hiếm. Hễ bỏ lỡ cơ hội, nhân duyên ắt sẽ thọ khổ. Thọ khổ như thế nào? Luân chuyển trong lục đạo, khó ra được nổi. Ngàn kiếp, vạn kiếp mới có lại được thân người. Tám ngàn năm sau là thời kỳ pháp diệt, chẳng c̣n có Phật pháp, khác nào Bắc Câu Lô Châu, khó được giải thoát. Tám ngàn năm là c̣n sớm đấy. Người thọ trăm tuổi, khi thọ báo hết chẳng văng sanh Tây Phương, sẽ sanh về chỗ tốt đẹp trên trời. Tầng trời thứ nhất là Tứ Vương Thiên, thọ mạng năm trăm năm. Một ngày đêm trên trời đó bằng năm mươi năm dưới thế. Ở trên trời hưởng mấy vạn năm phước trời, khi đọa xuống nhằm thời kỳ Pháp Diệt, chẳng có Phật pháp, sống sống chết chết chẳng hề được nghe Phật Pháp, chẳng ra khỏi tam ác đạo nổi, thọ khổ vạn kiếp.

 

X. DAO BÉN CẮT DỨT MỐI TƠ LOẠN

(Đệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)

 

Người trong cơi đời, từ xưa không ai tránh khỏi một lần chết. Dù là bậc thế gian thánh nhân, đến lúc vẫn cứ phải chết như thế. Chỉ có bậc thánh nhân xuất ly thế gian mới giải quyết được vấn đề sanh tử. Nhưng Đức Phật cũng chẳng thể ngay trong một đời liền thành Phật, mà phải do tu hành từng bước mới chứng được Phật Quả. Cho nên nói: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”. V́ thế, quư vị phải tin là ai cũng phải chết, chỉ sợ “chết không được thôi!” v́ sau khi chết đi, ắt sẽ luân hồi trong lục đạo, nhưng trong sáu đường, khó đạt được cơi trời, người, đọa lạc trong tam đồ th́ khổ chẳng thể nói xiết.

Duy Thức Tông lập ra cái gọi là “Tam Lượng”. Chữ Lượng () có nghĩa là “phân thốn” (phân, tấc, ư nói đo đạc), “đong” hoặc “cân”. Vật phẩm phải dùng cái cân để cân lường th́ mới có tiêu chuẩn làm cơ sở để xác định. C̣n như trong việc phân biện giữa các giáo th́ lấy ǵ để chiết trung (折衷: Chọn lọc lấy những điểm hay, đúng)? Phải dùng Thánh Ngôn Lượng, tức là phải dùng lời Phật dạy làm tiêu chuẩn để đo lường. Có đáp án chánh xác như thế th́ tu hành mới có cơ sở để dựa vào. Bây giờ, hăy so sánh xem chuyện tu Tịnh Độ của mọi người là đúng pháp hay chẳng đúng pháp. Nếu tu đúng pháp th́ là Tịnh Độ Tông, tu chẳng đúng pháp bèn“loạn ty vô đầu” (tơ rối tung không thấy đầu mối).

Chúng ta là đạo tràng Tịnh Độ, phải nghĩ kỹ đến tận cùng chữ Tịnh. Người tu hành chẳng đến đạo tràng để cầu náo nhiệt, mà là cầu công đức và thiện căn. Một câu A Di Đà Phật là thiện căn lớn nhất. Chỉ cần quư vị niệm đến tâm tịnh th́ là sống trong Tịnh Độ. Nếu trong tâm chẳng tịnh, loạn tạp lung tung th́ chính là “loạn ty vô đầu” như trên đă nói. Tâm loạn như vậy th́ lúc thế này, lúc thế khác, chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.

V́ thế, tham dự Phật Thất cầu Nhất Tâm Bất Loạn th́ phải niệm niệm đặt nơi Phật hiệu, có vậy mới có thể văng sanh. Nếu không, suốt ngày niệm kinh này, niệm kinh kia, không có chút tŕnh tự tu tập nào th́ chính là “loạn ty vô đầu”. Nếu quư vị thật sự tin tưởng vào sáu chữ hồng danh th́ mới chứng được quả vị. Chẳng tin th́ dù có niệm rách họng cũng uổng công!

Cầu Nhất Tâm Bất Loạn chính là Thánh Ngôn Lượng từ kim khẩu của Phật, là điểm trọng yếu của Tịnh Tông, có vậy mới có thể đới nghiệp văng sanh. Nghiệp là nghiệp lực, nghiệp do ḿnh tạo th́ thân ḿnh phải mang lấy, đó chính là phiền năo. Chỉ cần chế phục được phiền năo th́ sẽ được văng sanh, đoạn sạch sanh tử th́ mới gọi là Niết Bàn. Đấy đều là những điều Phật dạy. Nếu hoài nghi lời Phật dạy, cho là sai lầm th́ c̣n học Phật để làm ǵ?

Tiếp đây, tôi giảng một bài kệ để kết thúc:

 

Lục tự dĩ ngoại giai phi nhất,

Nan dữ Di Đà cảm ứng thời

Thánh lượng thị Phật thân khẩu thuyết,

Nguyện nhữ khoái đao đoạn loạn ty!

(Tạm dịch theo ư:

Chỉ danh hiệu Phật là thuần nhất,

Niệm Phật tán loạn khó cảm thông,

Thánh lượng chính miệng đức Phật dạy,

Mau dùng dao bén chặt tơ rối)

 

“Lục tự” là “nam mô A Di Đà Phật”. Ngoại trừ niệm sáu chữ này ra, tất cả những thứ khác đều chẳng thuần nhất. Nếu quư vị niệm Phật nhưng tâm mơ tưởng chuyện khác th́ sao? Tâm chẳng trụ vào sáu chữ hồng danh sẽ khó cảm ứng Phật. Chữ “loạn ty vô đầu” là tiếng cổ, là Thánh Ngôn Lượng. Một cục tơ rối, không hề có đầu mối ǵ hết, gỡ bao giờ mới xong? Xin quư vị cầm con dao bén chặt ngay cho nó đứt đôi ra, tức là Nhất Tâm rồi, chẳng c̣n loạn nữa.

Kinh Di Đà nói rơ thế giới Cực Lạc được trang nghiêm bởi vàng, bạc, lưu ly, xích châu, mă năo... Đấy đều là lời Phật nói. Nếu quư vị không tin, chỉ thích nói là đất phủ cỏ xanh th́ cứ việc tùy tiện. Đă tin vào Tịnh Độ Tông rồi th́ phải biết điều tối khẩn yếu hoàn toàn là sáu chữ hồng danh. Đừng có nói sáu chữ này nông cạn. Nếu thật sự là kẻ giải ngộ sâu xa, sẽ thấy sáu chữ ấy sâu xa, giải ngộ nông cạn sẽ thấy là nông cạn, hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người thôi! Các đồng tu hăy mau cầu Nhất Tâm, dao bén chặt tơ rối, lời Phật chẳng dối đâu!

 

XI. KHAI THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM ẤT SỬU

(Đệ tử Ngô Bích Hà kính ghi)

 

* Dốc ḷng trừ mạn chướng, thiết tha cầu Nhất Tâm

 

Thưa các vị lăo sư, các vị đồng tu.

Hôm nay tôi đến đây giảng, trước hết thanh minh một điều: Tôi hoàn toàn không đến đây để giảng khai thị. Hai chữ “khai thị” tôi đảm đương chẳng nổi, tôi chỉ đem những kinh nghiệm của chính ḿnh ra bàn bạc để người này, người kia tham khảo mà thôi.

Tiếp đến, thanh minh một câu nữa: trong lúc ngồi giảng ở đây, xin miễn hết thảy những khách sáo thế tục, chỉ nghiên cứu “Nhất Tâm Bất Loạn”. Người giảng, người nghe đều lấy “Nhất Tâm Bất Loạn” làm mục tiêu. Nếu không, bị phân tâm một phần th́ chẳng phù hợp với Phật Thất vậy. Xin quư vị nhiếp tâm, tâm không nghĩ ǵ khác lắng nghe!

Luận về “Nhất Tâm” th́ đây là một đạo tràng đă lâu, hẳn quư vị hiểu rồi. Đă hiểu rồi th́ xin hỏi một câu: “Quư vị đạt được hay chưa?” Hơn ba mươi năm qua, có vị nào đạt được Nhất Tâm Bất Loạn chưa? Nếu như năm nào cũng dự Phật Thất nhưng năm nào cũng tán loạn th́ có phải là dự Phật Thất trở thành chuyện phù phiếm hay sao? Thế nhưng, người học Phật làm ǵ cũng phải chân thật. Bài kệ khai kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Việc hư dối th́ có làm cũng vô ích. Đă vậy th́ quư vị ắt sẽ tự hỏi: “Niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn trọn chẳng hề có ư?”

Tôi chẳng rơ là trong số quư vị, hoàn toàn không có một ai làm được chăng? Ngược lại, tự hỏi ḿnh trước. Với tôi th́ Nhất Tâm Bất Loạn có thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian ngắn sẽ đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Nói như vậy ít nhiều đă có “cống cao, ngă mạn”, tự ḿnh khoa trương. Tiếp đây, chúng ta sẽ bàn về “cống cao, ngă mạn”. Trong ba mươi năm qua, tại nơi đây, dự Phật Thất, tôi giảng qua vấn đề này chẳng biết là đă bao nhiêu lần, nhưng giảng rất nông cạn. Quư vị trong tâm ngầm coi thường, nghĩ rằng: “Ông không cần phải nói, những chuyện đó tôi từng nghe qua rồi!” Quư vị ơi! Khó biết được chuyện nào ḿnh đă thật sự nghe qua lắm đấy! Nếu c̣n giữ tâm như vậy th́ chẳng đắc Nhất Tâm, mà là được cống cao, ngă mạn, vẫn c̣n là phiền năo. Nói như vậy nghĩa là sao?

Quư vị nghe kinh cũng nhiều, xem kinh chẳng ít, đáng coi là bậc đa văn, nhưng chỉ hiểu được về mặt văn tự, chứ xét về mặt công phu chân thực th́ chẳng đáng bàn tới. Luận đến chân lư “tâm, Phật, chúng sanh b́nh đẳng bất nhị”, quư vị đă hiểu được đạo lư này hay chưa? Nói đến Phật th́ chưa từng thấy qua. Nói đến chúng sanh th́ mọi người đều nghĩ là ḿnh đă từng thấy qua chỉ v́ trong tâm nghĩ như thế này: “Người khác là chúng sanh, c̣n ḿnh chẳng phải”. Đấy là cống cao, ngă mạn. Học như vậy bèn chỉ học được phiền năo, làm sao chúng ta luôn thấy “Phật, tâm, chúng sanh là b́nh đẳng” cho được? Quư vị bề ngoài b́nh đẳng nhưng đa số trong tâm chẳng b́nh đẳng. Đấy chính là đại phiền năo!

Bàn đến phiền năo th́ trong trăm pháp, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Bất Chánh Kiến thuộc về căn bản phiền năo. Ngoài ra c̣n có trần sa phiền năo, căn bản vô minh. Ba loại này đều là bệnh ai nấy đều có, ai nấy chẳng tự hay. Càng học Phật, niệm kinh chẳng tự biết, phiền năo càng nặng đều là do quan niệm “tôi xem sách hoặc nghiên cứu kinh chẳng ít”. Nhưng kinh giống như thuốc. Nếu như uống lầm thuốc chẳng đúng bệnh, rốt cuộc có lợi ích chi? V́ thế, chúng ta chẳng thể thành tựu chính là do cống cao, ngă mạn. Tôi chẳng nói đến những việc khác bởi chính cống cao, ngă mạn khiến cho mọi người sau này thoái chuyển, làm sao c̣n bàn đến chuyện đắc Nhất Tâm Bất Loạn được nữa?

Nói như vậy th́ phải trừ khử cách nào mới nên? Phải “trong tâm thật sự trống không, một niệm chẳng khởi”. Đấy là chân lư. Nguyên lai bổn tánh là bất động, hễ động th́ gọi tên khác là Tâm. Chúng ta chẳng thường hay nói là “khởi tâm động niệm” đó sao? Khởi tâm chính là khởi lên ư niệm. Một ư niệm vừa khởi lên bèn có mục tiêu nên sẽ tạo nghiệp. Tạo nghiệp sẽ phải lănh quả báo. Thiện nghiệp th́ thiện báo, ác nghiệp th́ ác báo. Các báo thiện, ác lại chẳng thể triệt tiêu lẫn nhau, làm ǵ phải chịu báo nấy. Giống như nay chúng ta được báo ứng, so với ba ác đạo th́ vẫn c̣n khá hơn. Tuy vậy, chúng sanh gồm có cửu giới[5], nhân loại chỉ là một trong chín giới đó, vẫn chỉ là tạm thời ngoi đầu lên trên biển khổ mà thôi. Vẫn là nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, chẳng biết mấy khi làm lành, tạm hưởng được thiện báo.

Nói đến thiện báo th́ phải có được thân người th́ mới có thể giải thoát. Nếu chẳng được thân người th́ đừng nói chi đến chuyện hiểu Phật pháp, ngay cả chuyện hiểu thông suốt những ngôn ngữ b́nh thường đă khó khăn rồi: Chim có tiếng chim, thú có tiếng thú. Nói đến thiện báo được làm thân người th́ xét đến cùng là do tạo nghiệp nào mà được, chỉ sợ chúng ta đều chẳng tự biết vậy.

Nói chung, từ vô thỉ kiếp cho đến hiện tại, chúng ta tạo nghiệp, lănh báo, một bề biến hóa không ngừng, vậy th́ hiện tại chúng ta phải nên làm ǵ? Trước khi xét đoán phương pháp, chúng tôi xin minh định trước: Hễ có thân là phải có khổ. Nếu không có cái thân tứ đại giả hợp này th́ không có chỗ nào để thọ khổ cả. Muốn tiêu tội nghiệp th́ phải bắt đầu từ đầu nguồn. Đầu nguồn chính là Tâm. Tâm không có h́nh dáng nhưng lại chính là nguyên động lực lôi kéo chúng ta luân lạc sanh tử. Chúng ta khởi tâm động niệm bèn tạo nghiệp, nhiều đời nhiều kiếp chồng chất chẳng biết là bao nhiêu.

Trong kinh dạy: “Nếu như ác nghiệp có thể tướng th́ trọn cơi hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Nghiệp nhiều như thế đấy. Chẳng cần nói đến kẻ không siêng niệm Phật; đối với người khéo niệm Phật, có phải là sẽ tiêu sạch được ác nghiệp từ trần sa kiếp chăng? Chỉ e rằng chẳng đơn giản như vậy. Ví như vầng Thái Dương chiếu xuống tuyết, tuyết tan thành nước. Thế sao tuyết đọng trên Tuyết Sơn suốt năm chẳng tan? có phải là mặt trời chẳng rọi xuống Tuyết Sơn đâu! Lời tục nói: “Băng đóng ba thước, chẳng phải là trời lạnh một ngày”. Chỉ đơn độc cậy vào sức ḿnh, làm sao đạt được “tâm không?” Làm sao tiêu trừ tội nghiệp cho được? Nói như thế th́ nhất định phải nhờ cậy [sức Phật]. Đấy chính là Nhị Lực.

Điều thứ hai là chữ Nhị Lực chẳng phải chỉ nói về hai lực ấy, mà c̣n hàm chỉ nhiều thứ. Chẳng hạn như trong đạo tràng này có rất nhiều người, nhưng ta cũng có thể nói là có hai loại người. Một là giảng, hai là nghe. V́ thế chỉ nói “hai” nhưng đă bao gồm người giảng, người phiên dịch, người nghe, người lo liệu công việc... biết bao là thứ. V́ thế chữ “Nhị” c̣n hàm ư “rất nhiều”.

Trong kinh A Di Đà, mười phương chư Phật đều nói: “Chúng sanh các người đều nên tin vào kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”. Phật nói với Bồ Tát, Bồ Tát lại đem lời ấy tuyên thuyết, lần lượt lan truyền rộng răi như thế trùng trùng vô tận, rốt ráo chẳng hề có kết thúc. Quư vị nghĩ xem, nghĩ đến cùng là nhiều hay không nhiều vậy? V́ thế, sức của ác nghiệp cố nhiên là to, nhưng sức của mười phương chư Phật cũng rất to. Do mười phương Phật đến giúp ta tiêu nghiệp th́ sợ ǵ chẳng thành tựu cơ chứ?

Kinh A Di Đà dạy: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ tŕ và nghe danh hiệu chư Phật th́ các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm”. “Niệm” có nghĩa là trong tâm Phật có ḿnh. Tâm Ngài đă có ḿnh th́ nếu ḿnh có chuyện ǵ, các Ngài sẽ đến giúp cho. Đấy là “Hộ”. Nói như vậy có phải là chúng ta cứ ngồi chờ Phật đến rước chăng?

Phật giáo Nhật Bản có một tông phái mệnh danh là Chân Tông chuyên giảng về nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, cho rằng chỉ cần tin vào Phật th́ Phật sẽ đến tiếp dẫn văng sanh. Thật ra làm ǵ tiện lợi như vậy! Cầu Phật đến tiếp dẫn phải có đủ Tín - Nguyện - Hạnh th́ mới cảm ứng được!

Thế nào là Cảm Ứng? Giống như quư vị niệm Phật ở nơi đây (không phải là xướng Phật) th́ Niệm chính là Tâm của quư vị, tâm quư vị khởi niệm nơi Phật th́ Phật hộ niệm quư vị. Hai bên ḥa hợp, đó là Cảm Ứng. Nhưng niệm Đức Phật nào? Niệm A Di Đà Phật. Nếu một mặt vừa niệm Phật A Di Đà, một mặt lại niệm Phật Dược Sư, tự cho rằng “đằng nào cũng là niệm Phật” th́ lại là lầm mất rồi, sẽ chẳng được cảm ứng.

Quư vị xem đây: Hai bàn tay tôi vỗ vào nhau phát ra tiếng. Đấy là một loại âm thanh. Dùng tay vỗ lên bàn th́ lại là một loại âm thanh khác. Hai loại khác nhau. V́ thế, đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy quư vị niệm A Di Đà Phật th́ quư vị niệm A Di Đà Phật, chỉ nên tuân theo Thánh Lượng th́ mới được lợi ích!

Tiếp đây, tôi đem các phương pháp dạy niệm Phật của chư Tổ Sư tặng cho quư vị. Nếu thật có thể hành đúng như pháp th́ sẽ có thể chế phục Hoặc, đạt được Giả Nhất Tâm (Nhất Tâm có hai loại: Lư Nhất Tâm là chân lư, Sự Nhất Tâm thuộc về tướng trạng bên ngoài, là phương tiện. V́ thế, Sự Nhất Tâm c̣n được gọi là Giả Nhất Tâm), sau rồi sẽ được văng sanh.

“Niệm Phật bất tất cầu đa niệm”: Niệm Phật chẳng cần phải niệm cho thật nhiều.

“Đản niệm bát bách tâm bất loạn”: Niệm một xâu chuỗi một trăm lẻ tám tiếng sao cho dù một chữ cũng chẳng loạn.

“Kỳ trung trước hữu nhất niệm sai”: Trong một trăm lẻ tám câu niệm ấy, nếu như có một câu niệm lầm lẫn.

Trạo chuyển châu đầu đô bất toán”: Những câu niệm từ đầu xâu chuỗi tính đến câu sai ấy đều không tính nữa. Câu này rất khẩn thiết. Có một điểm cần phải chú ư là “tự niệm, tự nghe”. Lúc niệm phải niệm sao cho rơ ràng, tách bạch. Lúc nghe cũng phải nghe sao cho phân minh, rành rẽ. Hễ niệm sai một câu th́ phải niệm lại từ đầu. Lúc quư vị thực hành công khóa chánh, nên làm theo đúng phương pháp đă dạy trong bài kệ này để ḥng cầu được Nhất Tâm Bất Loạn. C̣n như lúc tán niệm (niệm Phật ngoài thời công khóa chánh) th́ có thể tùy duyên.

Hiểu rơ những điều trên đây rồi th́ không cần phải mất công nói nhiều nữa, cứ chiếu theo đó mà làm là được. Tiếp đây, tôi dùng một bài kệ để tổng kết lại:

“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao,

Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao,

Tŕ danh dung dị nan trừ mạn,

Vô giá bảo châu tùng thử phao

 

“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao” (tinh hoa của vạn pháp được bao gồm trong sáu chữ): Phật pháp vô biên, Trung Quốc gọi là Tam Tạng (nhưng thật ra c̣n rất nhiều kinh chưa được phiên dịch [sang tiếng Hán]), gọi chung là “vạn pháp”. Chữ “tinh hoa” chỉ tinh thần chân chánh [của vạn pháp], cũng có nghĩa là những lời trọng yếu. Chỉ niệm sáu chữ là đă bao quát cả Tam Tạng mười hai bộ kinh, cũng có thể nói là đă hiểu được Tam Tạng mười hai bộ kinh rồi th́ mới hiểu được sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật”. Nếu chẳng thể niệm hết toàn bộ kinh tạng th́ niệm sáu chữ cũng giống như niệm hết toàn bộ kinh tạng vậy.

“Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao” (Dùng thánh ngôn làm Chân Lượng để nhổ trừ cỏ tranh trong tâm): V́ sao nói là sáu chữ bao gồm trọn vẹn Tam Tạng? Quư vị phải chân chánh dốc ḷng niệm sáu chữ này, tâm chẳng chạy theo bên ngoài th́ sẽ mau chóng được khai ngộ. Thế nhưng, quư vị đă khai ngộ chưa? Chưa. V́ sao chưa? Là v́ tâm nhăn quư vị bị cỏ tranh (mao thảo) che lấp cho nên chẳng thể mở ra được. Hiện tại, ta tuân theo Thánh Ngôn niệm sáu chữ này chính là nhổ bật cỏ tranh che lấp để tâm nhăn được rộng mở.

“Tŕ danh dung dị, nan trừ mạn”: (Tŕ danh khá dễ, nhưng mạn vẫn khó trừ): Chữ “danh” chỉ danh hiệu A Di Đà Phật. “Tŕ” là nắm giữ, chẳng buông bỏ, mà cũng là niệm. So với niệm kinh, tŕ danh dễ dàng hơn, nhưng vẫn có chỗ khó khăn. Tức là c̣n cống cao, ngă mạn, tự cho rằng: “Tôi làm rồi, tôi hiểu rồi”. Hễ có cái căn bản phiền năo này th́ sẽ chẳng thành tựu. Học Phật th́ bước thứ nhất là Vô Ngă. Có Ngă th́ cũng văng sanh, nhưng tiếc là văng sanh trong lục đạo, vĩnh viễn chẳng giải thoát. V́ thế, muốn được giải thoát th́ trước hết phải trừ Ngă Mạn. Trừ bằng cách nào? Nhà Phật có nói đến Lục Ḥa Hợp, hết thảy đều b́nh đẳng. Nhưng Ngă Mạn rất khó trừ.

“Vô giá bảo châu tùng thử phao” (bảo châu vô giá do đây mà bị ném đi): Nếu chẳng trừ Ngă Mạn th́ khác nào xem thường ném bảo châu vô giá Tam Bảo đi.

Ở nơi này, chư vị hăy thử thí nghiệm phương pháp vừa nói trên đây, hết thảy đều buông xuống hết, chỉ cầu Nhất Tâm thôi!

 

XII. KHAI THỊ PHẬT THẤT NĂM CANH THÂN TẠI CHÙA LINH SƠN

(Đệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)

 

Thưa chư vị lăo sư, chư vị đồng tu.

 Phật Thất chùa Linh Sơn đă được duy tŕ hơn ba mươi năm, mỗi năm tôi đều tham gia. Trước kia, lúc Chính Phủ [Trung Hoa Dân Quốc] chưa đến Đài Loan, Phật giáo tỉnh này vẫn c̣n chưa phát triển. Dù có chùa, miếu, nhưng đại đa số chỉ để tự tu, chẳng chú ư mấy đến việc hoằng pháp lợi sanh. Những việc hoằng pháp lợi sanh như Phật Thất v.v... thực sự do chùa này khởi xướng. Lần Phật Thất này, những bạn đồng tu mới nhiều hơn cựu đồng tu. Lời giảng của tôi khó thể thích hợp với các loại căn cơ. V́ thế lần giảng này dựa trên nguyên tắc cốt sao cho các bạn tân đồng tu hiểu được, mong các cựu đồng tu từ bi tùy duyên nghe giảng.

 Phật Thất ở nơi này là Phật Thất của Tịnh Độ Tông. Nói đến Tịnh Độ Tông th́ ai ai cũng biết cả v́ nó quá phổ biến, nhưng thực sự th́ rất ít người hiểu rơ nội dung Tịnh Độ Tông. Chẳng phải chỉ người ngoài không biết, ngay cả trong cửa Phật, những người hiểu rơ Tịnh Độ Tông cũng chẳng nhiều. Thậm chí người đang tu Tịnh Độ Tông cũng chẳng hiểu rơ lắm! Ở đây, tôi phải thanh minh trước: Hôm nay, tôi không đến đây để khai thị mà chỉ đến tṛ chuyện. V́ người hiểu đúng Tịnh Độ Tông quá ít, nên tôi chỉ tường tŕnh lại theo đúng kinh điển, lời giảng của chư Tổ mà thôi.

Tại gia công phu tu hành chẳng thể rốt ráo hoàn toàn, người xuất gia khéo tu tập có thể chứng được Tứ Quả A La Hán. Ở đây, tôi chẳng bàn đến người tại gia. Muốn chứng Tứ Quả A La Hán phải trải qua một thời gian lâu chừng mấy ngàn năm. Luận về người đời sau sẽ chứng được Sơ Quả th́ trong mười vạn người chẳng dễ t́m được một người. Dù có chứng quả A La Hán đi nữa th́ cũng chỉ hiểu được phương pháp để chứng quả La Hán, chứ đối với pháp môn Tịnh Độ cũng chẳng thể hiểu được dễ dàng. Đấy chính là điều được nói trong kinh, chứ chẳng phải chính tôi bịa ra. Nếu kinh Phật không chép th́ dù một câu tôi cũng chẳng dám nói.

Ai hiểu được pháp môn Tịnh Độ? Quả vị Bồ Tát có năm mươi hai địa vị. Hàng Bồ Tát trước khi chứng quả trong Thập Địa, c̣n thuộc vào Hiền Vị, vẫn chưa hiểu được. Những vị nào đă chứng quả trong Thập Địa th́ gọi là Thánh Vị, cũng chỉ hiểu được một nửa. Phải là thành Phật rồi mới có thể hiểu triệt để pháp môn Tịnh Độ. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu thấu cùng tận. Mọi người nghe đến đây phải đặc biệt chú ư: Quư vị được nghe danh hiệu Phật, tu được pháp môn Tịnh Độ, ắt là trong ngàn đời, vạn kiếp đă trồng đại thiện căn, làm đại thiện sự th́ mới đạt được như vậy. Nhưng nếu đă biết pháp môn Tịnh Độ thù thắng th́ phải dụng công tu tŕ, có tu mới thành công, không tu chẳng thành công.

Có người chưa nghe nói đến Tịnh Độ, cũng chẳng hiểu Tịnh Độ là cái ǵ, tự ḿnh chẳng biết, nếu miệng chẳng khích bác th́ không tạo tội. Nhưng nếu chẳng hiểu Tịnh Độ là pháp khó tin, lại tự lầm tưởng ḿnh là thông minh, hủy báng pháp môn Tịnh Độ th́ là không được. Bởi lẽ, hủy báng Phật pháp chính là gây tội tam đồ, thế nhưng hủy báng pháp môn Tịnh Độ lại chính là tội Vô Gián địa ngục! Quư vị phải nên đặc biệt chú ư cẩn thận. Tịnh Độ Tông là pháp khó tin, rất sâu xa, chỉ ḿnh đức Phật mới có thể hiểu triệt để. Ngoài ra, phải là hạng đă chứng Bát Địa Bồ Tát mới hoàn toàn tin nhận được thôi. Chúng ta chẳng hiểu, chẳng tin th́ càng phải đặc biệt lưu ư, ngàn muôn phần chớ tạo tội nghiệp.

Nếu pháp môn Tịnh Độ chỉ riêng Phật với Phật mới có thể hiểu thấu tột cùng th́ sao đức Phật lại đem pháp khó tin, khó hiểu này phổ biến, dạy chúng sanh tu tŕ? Tôi cũng chẳng đáp thông được, chỉ dẫn lời Phật để đáp. Hết thảy các pháp môn khác chung cục đều nhằm để thấu triệt “bất sanh, bất diệt, liễu sanh thoát tử”. Các tôn giáo trên toàn cầu tu đến mức cao nhất th́ chỉ sanh lên trên trời, chỉ riêng ḿnh Phật giáo có thể liễu sanh thoát tử. Nhưng nói chung tu các pháp môn trong nhà Phật đều phải chịu khổ lớn như thường nói: “Chẳng mắc ma nạn th́ chẳng thành Phật”. Đa số người tu hành chẳng chịu nổi đại khổ, đấy là một điều khó khăn.

Hơn nữa, thời gian tu tập rất dài, chứng quả La Hán đă phải mất mấy ngàn năm. Phàm phu thọ mạng hữu hạn, trong mấy mươi năm làm sao chứng quả được? Lại phải tu tập từng bước, thành công thật chẳng dễ dàng ǵ.

Tịnh Độ Tông tuy người người chẳng hiểu, nhưng có điều cực thuận tiện là v́: A Di Đà Phật chính là vị Phật tiếp dẫn, thế giới Cực Lạc tuy cách xa mười vạn ức cơi Phật, A Di Đà Phật phát nguyện đích thân đến tiếp dẫn. Trong mười phương tuy đều có Tịnh Độ, đều có Phật và Bồ Tát, nhưng chưa từng phát nguyện đến tiếp dẫn, ḿnh có năng lực tu đạt đến đó th́ tự ḿnh đi về đó nên chẳng dễ thành tựu. Văng sanh Cực Lạc thế giới th́ có thể thành tựu ngay trong đời này. Đời người ngắn ngủi mấy mươi năm, đầy đủ tư lương Tín Nguyện Hạnh, lâm chung chánh niệm phân minh, Phật liền cầm hoa sen đến tiếp dẫn. Ta liền ngồi lên hoa sen sanh về thế giới Cực Lạc, dứt sạch sanh tử, thật là thuận tiện quá sức. Điều này trong Tam Tạng kinh điển đă nói tường tận, tu pháp môn Tịnh Độ thù thắng là ở chỗ này.

Tu các pháp môn khác th́ cần phải “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”, hoàn toàn cậy vào tự lực, tu hành trong một thời gian dài. Tu pháp môn Tịnh Độ dù đạo lư chẳng dễ hiểu, nhưng chỉ cần Tín - Nguyện - Hạnh là có thể thành tựu. Nếu không th́ đừng nói là tu hai, ba mươi năm chẳng hiểu được lư Tịnh Độ, dù có tu năm trăm năm cũng chưa chứng được quả La Hán, cũng vẫn chẳng hiểu được lư Tịnh Độ.

Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát phải tu hành qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Đạt đến Thập Hồi Hướng mới hiểu được Phật lư, mới hành bố thí triệt để được, nhưng tu đến Thập Hồi Hướng phải mất hai đại A Tăng Kỳ kiếp, thực chẳng dễ chi! Nay tôi đối trước Đức Phật thuyết pháp, nếu nói nhầm một câu th́ chính là hủy báng Phật pháp, người thuyết pháp phải đọa địa ngục. Tôi đă hơn chín mươi sáu tuổi, c̣n đến đây tạo tội địa ngục làm ǵ? Tôi khùng như thế chăng? Nói tóm lại, Tịnh Độ Tông thật chẳng dễ giải thích, chẳng dễ hiểu ǵ.

Chúng ta đă phát tâm tu hành, nếu chẳng tu hành thành công th́ chẳng đáng tiếc lắm sao? Muốn giải thích Tịnh Độ cho rơ ràng chẳng dễ dàng ǵ, từ Tổ Sư của Tịnh Độ Tông Trung Quốc là ngài Huệ Viễn đại sư đời Đông Tấn cho đến ngài Ấn Quang đại sư thời Dân Quốc, những lời khai thị của các ngài đều xuất phát từ kinh Phật. Kinh Hoa Nghiêm là vua các kinh, là vua của cả Tam Tạng, thế mà trong phẩm cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. V́ thế phải biết rằng: Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đều tu pháp môn Tịnh Độ, cầu sanh Cực Lạc thế giới. Kinh dạy: “Ly kinh nhất cú, tức thị ma thuyết” (nói sai khỏi kinh một câu, chính là ma nói). Kinh Pháp Hoa cũng dạy: “Y pháp bất y nhân” (nương theo pháp, chẳng nương theo người). Chúng ta tu Tịnh Độ nương theo lời Phật, có bằng chứng chân thật. Nếu không, dù ai có danh tiếng lớn lao đến đâu mà lời nói chẳng phù hợp với lời Phật, chúng ta cũng chẳng tin.

V́ sao Tịnh Độ Tông chỉ nói Tín - Nguyện - Hạnh mà chẳng nhắc đến Giải? Trong kinh cũng có thí dụ: Dù cho bậc trí huệ đệ nhất là ngài Xá Lợi Phất, khắp toàn thân đều có miệng, và lại có vô lượng vô biên Xá Lợi Phất trong vô lượng vô biên kiếp giảng giải đạo lư Tịnh Độ th́ cũng chẳng thể giảng trọn hết. Tôi vốn chẳng có năng lực ấy, chỉ có một hai quyển kinh làm cơ sở, ngay cả kinh A Di Đà tôi cũng c̣n hiểu chưa hết. Trong kinh ấy câu nào cũng đều là vô lượng vô biên bí quyết trọng yếu để tu hành. V́ vậy, muốn thoát sanh tử th́ phải là kẻ đă liễu sanh tử mới chẳng đến nỗi lầm lạc. Tịnh Độ Tông lấy Tín - Hạnh - Nguyện làm cơ sở, chúng ta cứ chiếu theo đó mà hành. Phật là bậc đă liễu sanh tử, Phật dạy như thế nào, ta cứ tin như thế ấy, hành như thế ấy ắt sẽ thành công. Nếu tự lầm cậy ḿnh thông minh, nhất định sẽ hiểu biết sai lạc vậy.

Trong Tín - Nguyện - Hạnh, Tín là ǵ?

Thứ nhất, tin rằng nếu không học Phật sẽ vĩnh viễn luân hồi trong lục đạo, chẳng được giải thoát. Bất cứ tôn giáo khác nào đều chẳng thực hiện được việc này.

Thứ hai, tin rằng học Phật th́ phải mất ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới có thể thành Phật. Chỉ có pháp môn Tịnh Độ trong thời gian ngắn liền có thể thành tựu ngay trong đời này. Cổ đức nói: “Vạn người tu vạn người đậu”. Kinh A Di Đà dạy: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe kinh này mà thọ tŕ và nghe danh hiệu chư Phật th́ các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Đấy chính là “vạn người tu, vạn người đậu”. Nhưng chúng ta ở đây dù niệm Phật dăm ba năm cũng chỉ là miệng niệm. Chỉ khi văng sanh Tây Phương rồi th́ nghe chim chóc, cây cối phát ra tiếng bèn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Lư thâm áo này phàm phu chẳng thể hiểu nổi, ngay cả bậc đă chứng Nhị Quả cũng không cách nào hiểu rơ. Chỉ nên tin chắc vào Thánh Ngôn Lượng chẳng nghi th́ mới có thể thành công.

Thứ ba, tin sâu xa rằng chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, quyết định sẽ thành tựu trong đời này, quyết định “vạn người tu, vạn người đậu”.

Thứ tư, tin rằng lúc văng sanh, A Di Đà Phật nhất định đến trước ḿnh tiếp dẫn văng sanh thế giới Cực Lạc. Tin sâu rằng đă tu pháp môn Tịnh Độ th́ phải chấp tŕ danh hiệu chẳng buông. Từ nay sanh ḷng tin sâu xa chẳng nghi, đến chết cũng chấp tŕ danh hiệu chẳng buông, dù cho bom nguyên tử có rớt xuống cũng chấp tŕ chẳng bỏ th́ mới thành công vậy.

Hiện giờ tôi thấy t́nh huống của quư vị rất tốt, rất phù hợp với những điều được dạy trong kinh A Di Đà. Kinh dạy: “Đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Quư vị phước khí chẳng nhỏ, nhưng có mấy vị chưa nghe đến đây đă lui ra rồi, thật là đáng tiếc! Tôi rất lưu tâm đến điều này, bọn họ phước báo không nhiều, nhưng quư vị th́ không giống như vậy. Nếu nghe minh bạch sẽ đều có thể thành công v́ hạt giống Kim Cang đă rơi vào tám thức điền của mọi người. Do quư vị giữ tinh thần lắng nghe, mới biết là quư vị đă được phước báo to như cơi trời, hạt giống ấy vĩnh viễn chẳng bị tiêu diệt. Điều khẩn yếu là hai chữ “bất thoái”, vĩnh viễn chẳng thoái thất. Nếu khéo công phu, sẽ thành tựu ngay trong đời này. Nếu không,sớm muộn ǵ hạt giống Kim Cang cũng sẽ nảy mầm, lúc ấy chính là lúc quư vị thành tựu kết quả.

Tiếp đến là nói về Nguyện. Hiện tại ḿnh học Phật rồi, đă biết có vô lượng vô biên Tịnh Độ. Nhưng chúng ta tu Tịnh Độ, phải phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là điều vĩnh viễn chẳng biến cải, chớ có ai nói ǵ cũng tin, chẳng thể sáng ba, chiều bốn. Dù cho có ai nói thế giới nào tốt đẹp ngàn vạn lần cơi Tây Phương, ta cũng chẳng trái bỏ ư chí niệm Phật lúc đầu. Dù cho ai dạy pháp môn nào hay hơn, lẹ làng hơn pháp môn Niệm Phật Văng Sanh cũng vĩnh viễn chẳng biến cải. Có khí phách kiên định, nguyện thiết tha như thế th́ nguyện ắt thành.

Nếu đă tu Tịnh Độ rồi lại đổi tu pháp khác tức là tu cả ba, bốn pháp môn th́ không có pháp nào tu thành công hết! Đă phát nguyện văng sanh Tây Phương thiết tha rồi, đă có ḷng tin rồi, đă có căn cứ rồi, bất luận là t́nh h́nh nào cũng vĩnh viễn chẳng biến cải, ắt sẽ thành tựu.

Lại nói về Hạnh. Hạnh rất đơn giản. Kinh Địa Tạng, kinh Dược Sư, kinh Pháp Hoa, Tam Tạng mười hai bộ kinh đều hay cả, nhưng nếu vậy, chẳng lẽ mỗi ngày tụng hết cả Tam Tạng mười hai bộ kinh hay sao? Muôn phần chúng ta chnên dùng phàm để suy thánh, tưởng tâm Phật, tâm Bồ Tát giống như tâm phàm phu: Nếu ḿnh lễ bái vị này, không lễ bái vị kia, chỉ sợ đắc tội với vị kia. Đấy thật là ngu si. Chúng ta có tâm phân biệt, chứ Phật chẳng hề có. Nếu chúng ta ngu si, niệm kinh này, niệm kinh kia th́ không một ai trong một ngày niệm xong Tam Tạng mười hai bộ kinh được cả!

Tu Tịnh Độ cực giản dị, dù cho chẳng niệm kinh A Di Đà, chỉ niệm Phật cũng được. Vạn đức hồng danh, bất luận là Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc bốn chữ A Di Đà Phật, câu hồng danh này bao hàm vô lượng vô biên danh hiệu Phật. Bởi lẽ, A Di Đà Phật chính là Pháp Giới Tạng Thân, niệm một câu Phật hiệu cũng giống như niệm hết thảy Phật.

Hơn nữa, chữ A trong A Di Đà Phật chính chữ thứ nhất trong Hoa Nghiêm Tự Mẫu của kinh Hoa Nghiêm. Đức Thế Tôn cuối đêm thấy sao Mai, kiến tánh thành Phật, liền quán tưởng chữ A. Không có chữ A này th́ cũng chẳng có Tam Tạng mười hai bộ loại kinh điển. Câu A Di Đà Phật này cũng chẳng được phiên dịch, v́ hàm tàng nhiều ư nghĩa. Chỉ lấy một câu danh hiệu Phật này, thật thà niệm đến khi Nhất Tâm Bất Loạn, ắt sẽ nhất định thành công, chẳng cần phải niệm nhiều thứ khác. V́ thế, lúc niệm Phật, đừng nghĩ đến vọng niệm nào khác. Vọng niệm khác là Ma, ta dùng câu Phật hiệu này để trừ khử nó. Như vậy th́ mới có thể đạt được “tịnh niệm tiếp nối.

Hơn nữa, về Chánh Trợ Song Tu th́ thật sự ra, đối với Trợ Pháp cũng chẳng cần phải làm ǵ khác, chỉ cốt sao đối với một câu danh hiệu Phật này, nhất tâm niệm Phật th́ Chánh lẫn Trợ đều bao gồm trong ấy, nhưng chúng ta c̣n là phàm phu, vẫn chưa đạt được công phu ấy. Thực ra, Nhất Tâm niệm Phật th́ kinh, Phật, chú đều gộp cả trong đó, chỉ sợ bọn ta chẳng được thành tâm như thế. Nếu thành tâm niệm Phật, Tam Tạng mười hai bộ kinh đều nằm trọn trong ấy.

Đối với Trợ Hạnh Công Phu, nếu chúng ta chưa biết làm lành th́ cũng chẳng khẩn yếu lắm, chỉ cần “các điều ác đừng làm” th́ cũng được. Niệm Phật th́ chẳng tạo ác. Lúc chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta chính là A Di Đà Phật. Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Chẳng được một mặt niệm Phật, một mặt tạo nghiệp. Nếu như niệm Phật mà lại c̣n gây các tội nghiệp giết chóc, dâm dục, trộm cắp, uống rượu v.v... th́ chính là báng Phật, công hiệu của việc niệm Phật bị giảm thiểu. Chỉ cốt sao đừng tạo nghiệp, thật thà niệm một câu A Di Đà, lại đừng làm các điều ác. Tu pháp môn Tịnh Độ như thế, nhất định thành công!

Khi đến giảng trong Phật Thất, tôi vốn thường giảng nói sao cho người tham gia đắc Nhất Tâm, nhưng thấy mấy năm nay, có nhiều người thoái chuyển. Thế nên hôm nay, tôi nói nhiều về giáo lư, hiểu rơ giáo lư th́ mới biết rơ nên dụng công thế nào để được Nhất Tâm. Tôi nói bài kệ để khích lệ chung:

“Tịnh Tông tư lương Tín Nguyện Hạnh” (Tư lương của Tịnh Độ Tông là Tín - Nguyện - Hạnh): Tịnh Độ Tông tu hành văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ phải chuẩn bị đủ ba thứ tư lương “tin sâu, nguyện thiết, hạnh mạnh mẽ”. Tín - Nguyện - Hạnh giảng ra có vô lượng vô biên pháp, hôm nay tôi giảng những điều cực giản yếu.

“Nhị lực cảm giao công thỉ thành” (Hai lực cảm ứng đạo giao th́ mới thành công): Phàm là muốn được thành công, tu các tông khác phải dựa vào chính sức ḿnh, tu dần từng bước mới có thể thành công. Hễ dùng sức sai một phân sẽ chẳng thể thành công. Tịnh Độ Tông bất tất phải như thế, sức lực chủ yếu là sức của A Di Đà Phật, ḿnh chỉ đổ ra ít sức. Ḿnh chỉ cần buông xuống vạn duyên, niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn, những việc ǵ khác đều không bận tâm đến. Những ǵ khác đều coi là do sức của A Di Đà Phật, thế giới Cực Lạc là do A Di Đà Phật trang nghiêm thành. Lúc chúng ta lâm chung, Phật đích thân tự cầm hoa sen đến tiếp dẫn sanh về thế giới ấy. “Trang nghiêm cơi Phật, tiếp dẫn văng sanh” đều do sức của Phật, chúng ta chỉ việc niệm Phật sao cho đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn. Đấy là những điều được minh thị trong kinh. Có cả Phật lực lẫn tự lực như thế ắt sẽ thành công.

“Kinh văn tối trọng Đồng Cư Độ” (cơi được kinh văn chú trọng nhất là Phàm Thánh Đồng Cư Độ): thế giới Cực Lạc chia làm bốn cơi (Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang). Trong kinh A Di Đà có đủ cả bốn cơi, nhưng cơi được coi là trọng yếu nhất chính là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Bọn phàm phu chúng ta chưa đoạn được một phẩm vô minh nào, không cách nào sanh về [Thường Tịch Quang] Tịnh Độ, nhưng thế giới Cực Lạc chính là Tha Thọ Dụng Tịnh Độ, giống như một căn nhà tốt, chẳng phải chỉ để riêng ḿnh sử dụng mà c̣n phải nhượng cho mọi người đều được sử dụng.

Tu hành đoạn Hoặc mới thoát khỏi luân hồi. Phàm phu không cách ǵ thoát luân hồi, chỉ có được A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc tiếp dẫn mới ḥng thoát sanh tử luân hồi, dù văng sanh thế giới Cực Lạc nhưng vẫn là phàm phu. V́ thế, trong kinh A Di Đà, chư Phật trong sáu phương xuất hiện để chứng thực những điều đă được nói trong phần kinh văn trước đó đều là cảnh giới của phàm phu, là cơi Phàm Thánh Đồng Cư.

Dựa theo thế giới Sa Bà đây để nói th́ phía dưới trời Sắc Giới là trời Lục Dục, vẫn có nam nữ, ăn uống cũng như chuyện ăn ở, nhưng trong kinh A Di Đà cũng nhắc đến ăn ở th́ đấy cũng là cảnh giới của phàm phu chưa đoạn Hoặc. V́ thế, chúng ta Nhất Tâm niệm Phật, dù chưa đoạn Hoặc cũng vẫn được văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Sau khi văng sanh sẽ làm người hoặc là làm trời, nhưng vẫn là phàm phu, chưa có quả vị, nên phải thuộc về Phàm Thánh Đồng Cư Độ.

V́ thế, ở trong cơi Sa Bà này, chưa đoạn Hoặc mà có thể văng sanh Cực Lạc th́ thuộc về Hoành Siêu (vượt khỏi luân hồi theo chiều ngang), sanh sang cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc. Từ đó lại sanh lên cơi Thường Tịch Quang cũng là Hoành Siêu. Đạo lư này thâm áo chẳng dễ hiểu nổi được, chúng ta cứ tin vào Thánh Ngôn Lượng là đủ. Bởi thế, kinh văn chú trọng nơi Phàm Thánh Đồng Cư Độ, chuyên tiếp độ phàm phu chưa đoạn Hoặc văng sanh.

“Đản đắc phục Hoặc tiện văng sanh” (chỉ chế phục được Hoặc bèn liền văng sanh): Nhất Tâm Bất Loạn cũng là điều được nhắc đến trong kinh A Di Đà, nhưng phải đoạn Hoặc mới đạt nổi Nhất Tâm Bất Loạn. Đoạn Hoặc văng sanh th́ liền sanh vào Thượng Phẩm, nhưng số người chưa đoạn Hoặc chiếm đa số. Ngay như tôi đây, chẳng biết đời trước thế nào, chứ đời này tôi tu tập suốt sáu mươi năm vẫn chưa đoạn nổi một phẩm vô minh nào. Đây là lời thành thật, chẳng những tôi không có thần thông mà quỷ thông cũng không có luôn. Phải nhớ là dù có thần thông vẫn không tránh khỏi luân hồi lục đạo, không cách nào liễu sanh tử.

Bây giờ nói đến chuyện làm sao đắc Nhất Tâm? Chúng ta không có cách nào đoạn Hoặc để đắc Nhất Tâm, chỉ có thể chế ngự Hoặc mà thôi. Ngay lúc vọng niệm của chúng ta nổi lên tơi bời, lập tức dùng một câu Phật hiệu chèn ép nó, dù chèn ép được Hoặc, nhưng Hoặc vẫn chưa đoạn. Đến lúc lâm chung, do thường ngày hễ vọng niệm nổi lên bèn lập tức dùng Phật hiệu chế ngự, đè nén, nên lúc lâm chung cũng giống hệt như vậy. Lúc ấy Phật hiệu khởi lên, bèn được Phật đến tiếp dẫn đới nghiệp văng sanh. Chuyện đới nghiệp văng sanh này trong kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ đều ngầm nói hoặc nhắc đến rơ ràng. Do chưa đoạn Hoặc, nhưng dùng Phật hiệu để chế ngự nó, được văng sanh, nên gọi là “đới nghiệp văng sanh”.

V́ thời gian đoạn Hoặc rất lâu chẳng thể nhất thời thực hiện được, nay tu pháp môn Tịnh Độ, hễ vọng niệm vừa khởi bèn nghĩ “hễ cái ǵ có h́nh tướng th́ đều là hư vọng”, tức là dùng Chân Như Phật Tánh chế ngự vọng niệm. Chân Như Phật Tánh tức là một câu “A Di Đà Phật”. Dùng Phật hiệu chế ngự Hoặc, sẽ được Phật tiếp dẫn, đới nghiệp văng sanh, đến Tây Phương rồi mới đoạn Hoặc. V́ thế, nay chỉ nói là “cầu văng sanh”.

      Nói đă dài rồi, sợ mất thời gian quư vị dụng công, mang lỗi với mọi người. Giờ đây quư vị lại niệm Phật, chế ngự Hoặc. Kính xin chư vị buông xuống vạn duyên, thiện duyên, ác duyên đều buông xuống hết, cứ một câu A Di Đà mà niệm măi.

 

PHẦN THỨ BA: NHỮNG BÀI GIẢNG NGẮN

(Mẫn Đạt chuyển ngữ, Như Ḥa nhuận văn)

 

I. Môn Dư Đại Đạo[6]

(Giảng tại Thiện Quả Lâm, năm Dân Quốc năm mươi tám (1969)

Đệ tử Từ Tỉnh Dân kính ghi)

 

      Giải thoát được sự khổ luân hồi trong lục đạo, trong cơi trời và cơi người [vẫn phải chịu nỗi khổ này, vẫn] chưa được giải thoát. Chứng quả A La Hán, đoạn dứt hơn một trăm sáu mươi phẩm Kiến Tư Hoặc, bổn tánh đă phóng quang minh, chẳng mê lạc vào trong lục đạo [cũng chưa rốt ráo], chỉ có nương theo pháp Đại Thừa tu thành quả vị Phật vạn đức vạn năng mới là rốt ráo nhất. Tuy kinh đă nói rơ phương pháp giải thoát nhưng thực hành hết sức khó khăn, thành Phật phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, thành A La Hán cũng phải trải qua bảy lần sanh tử. Phàm phu nh́n thấy sự việc khó khăn như vậy ai cũng sợ và thoái lui, chỉ có đức Phật Thích Ca là chẳng như vậy. V́ lẽ đó, từ khi đức Phật thị hiện thành đạo đến nay đă hơn hai ngàn năm trăm năm (đúng ra phải là hai ngàn chín trăm năm), chưa gặp một đức Phật thứ hai xuất hiện, v́ thế mới biết thành Phật khó khăn dường nào.

      Tám vạn bốn ngàn pháp môn trong Phật pháp đều phải mở mang trí huệ quang minh trong bản tánh, đây là những pháp môn thông thường, ngày nay chúng ta tu hành [theo những pháp môn này] đều khó thành tựu. Hôm nay tôi nói về pháp môn đặc biệt ngoài những pháp môn thông thường, pháp môn đó gọi là Môn Dư Đại Đạo.

      Điểm khác biệt với những pháp môn thông thường là ở chỗ chẳng khai phát trí huệ quang minh trong bản tánh mà c̣n có thể thành tựu. Ngày nay được nghe pháp môn này, phải hết sức lưu ư. Nếu bỏ qua cơ hội, chẳng biết tới bao giờ mới có duyên nghe được!

      Các pháp môn thông thường, bất kể Đại Thừa hay Tiểu Thừa, đều dùng tự lực. Pháp môn đặc biệt th́ ngoài tự lực c̣n có thêm Phật lực trợ giúp, gọi là Nhị Lực pháp môn. Cũng như đi lên lầu cao, nếu có người phụ giúp, sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tại sao pháp môn đặc biệt có thể nhờ Phật lực, c̣n pháp môn thông thường chẳng được Phật lực giúp đỡ? Phải biết Phật học không thể mê tín, tu hành phải nhờ vào tự lực, chẳng thể cầu mong Phật tu giùm cho ḿnh, như người đói phải tự ăn, chẳng thể nhờ người khác ăn mà ḿnh hết đói được. V́ vậy, pháp môn thông thường phải tự thực hành, pháp môn đặc biệt cũng phải như vậy, chỉ có thêm nhân duyên thù thắng được Phật lực gia tŕ mà thôi. Pháp này chẳng thể nghĩ bàn, người tu hành chưa thành Phật đều chẳng hiểu rốt ráo. Không chỉ người thường chẳng hiểu, ngay cả những người học vấn cao sâu, tu học đă lâu cũng đều chẳng tin, v́ vậy, gọi là pháp khó tin. Hôm nay tôi chỉ y theo chú thích của tổ sư nhiều đời trước, chẳng dám nói theo ư riêng của ḿnh. Tuy pháp này gọi là khó nghĩ bàn, nhưng sự thực hành chẳng khó lắm, dù chẳng có học vấn nhưng ai chịu làm theo sẽ đều thành công. Nếu chẳng làm theo, dù có học vấn cao đến đâu đi nữa, vẫn chẳng thành công, do đó gọi là pháp khó tin nhưng dễ hành.

      Sau khi giải thích ư nghĩa của pháp môn đặc biệt xong, tôi sẽ nói đến phương pháp. Tuy nói tám vạn bốn ngàn pháp môn khó hành, nhưng nếu ai chịu tu hành, sẽ đều có thể liễu sanh tử, thoát ly luân hồi. Ngày nay chẳng ai chịu hành theo, nên chỉ có pháp môn đặc biệt này có thể thành tựu.

      Tại sao chúng sanh tu hành theo tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng thể thành tựu? V́ có ba chướng ngại.

      Thứ nhất là “vô nhân hy quả”, [tức là] tâm chúng sanh thường mong mỏi chẳng nhọc nhằn chi cả mà đạt được kết quả tốt đẹp; lúc c̣n sống chẳng chịu tu hành, nhưng khi mất đi bèn hy vọng được sanh vào cơi lành, thân quyến của tang chủ thường tụng kinh siêu độ cho người mất, hy vọng [người ấy] được siêu sanh, hoặc treo tràng phan chúc thọ Tây Phương tiếp dẫn. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy chết rồi sanh làm quỷ thần, được trường sanh bất diệt, đây đều là sự hiểu biết lầm lạc của chúng sanh.

      Thứ hai là “phóng dật, sợ phải học”: Chúng sanh học Phật khó thành là v́ ưa thích buông lung, chán ghét lao nhọc, chỉ biết cầu phước, chẳng hiểu chỗ diệu dụng của Phật pháp. Kinh nói: “Đức Phật v́ một đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian này”. Đại sự nhân duyên là ǵ? Là để giải quyết vấn đề sanh tử trọng đại, vấn đề này chúng sanh trong lục đạo chẳng ai có khả năng giải quyết. Đức Phật v́ đại sự này thị hiện trên thế gian, chúng sanh chỉ cầu mong tiêu tai diên thọ; khuyên người liễu sanh tử đâu có ai nghe, dù có nghe cũng chẳng giác ngộ!

      Thứ ba là ham muốn dục lạc, lười nhác tu hành. Thánh nhân Trung Quốc dạy người kiểm soát dục vọng, kiểm soát không nổi th́ dùng lễ nhạc để đối trị. Tức là dạy họ “phát hồ t́nh, chỉ hồ lễ” (khi t́nh cảm nam nữ nẩy sanh, phải dùng lễ để ước thúc), dùng lễ để kềm chế. Ngày nay, con người tôn sùng văn hóa Âu Tây, chạy theo dục vọng cuồng hoan, mê hoặc trong sự hưởng lạc, thân vùi trong ngũ dục, lục trần, tâm tán loạn, nếu khuyên họ tu pháp xuất thế, họ chẳng đủ nhẫn nại để chịu đựng khổ nhọc dài lâu.

      Con người có ba chướng ngại kể trên nếu không giác ngộ sẽ mờ mịt cả đời, lúc lâm chung thuận theo nghiệp dẫn dắt. Khi đă giác ngộ, chẳng ai không cảm thấy đau khổ cùng cực, đời người ngắn ngủi như trong chớp mắt, phước báo hưởng hết rồi, lúc mạng chung liền đọa tam đồ. Bởi vậy, người có trí chẳng ai không thiết tha đến sự vô thường của đời người và mau chóng đường giải thoát. Nhưng thường v́ công phu tu hành chẳng sâu dy, một khi chuyển thế liền mê mất, lại tiếp tục tạo ác nghiệp. Thí dụ như chúng ta ở đạo tràng này, bất kể là người nghe hay người nói đều chẳng phải là ngẫu nhiên, nhất định phải do công phu từ đời trước. Nếu không, lúc nghe sẽ chẳng thấm thía, người nói cũng cảm thấy khó khăn. Lúc chưa nghe đến Phật pháp trong đời này, chẳng ai không mê hoặc, tạo nghiệp. Lúc nhỏ, tôi cũng đă từng hủy báng kinh tượng Phật, sau này v́ lo sợ loạn lạc, chiến tranh, nên mới thức tỉnh hối cải và học Phật. Thế nên phải biết: Nếu tu học không thành, một khi chuyển thế, sẽ chẳng biết đến khi nào mới được giải thoát. Ngày nay chúng ta rất may mắn được nghe Phật pháp, nếu chẳng cầu thoát ly th́ c̣n đợi đến lúc nào nữa? Muốn cầu thoát ly nhưng lại sợ khổ nhọc v́ chẳng trừ khử được ba thứ chướng ngại kể trên, hỡi ôi, phải làm sao đây?

      Đức Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa, đức Phật Thích Ca nói về pháp Môn Dư Đại Đạo nhằm khuyến khích chúng sanh [phát tâm niệm Phật, phát nguyện] văng sanh về thế giới Cực Lạc của đức A Di Đà Phật.

      Phật giáo vô lượng, A Di Đà Phật từ bi đệ nhất, nguyện lực đệ nhất trong chư Phật, Ngài biết rơ chúng sanh có đầy đủ ba thứ chướng ngại kể trên, nên tùy thuận tâm chúng sanh, tạo dựng một thế giới tên là Cực Lạc, dùng nơi đó nhằm tiếp dẫn thần thức của húng sanh trong khắp mười phương thế giới về đó hưởng các niềm vui [và tu học] thành Phật.

      Thế giới Cực Lạc là một thế giới khoa học phát triển. Khoa học như chúng ta hiểu biết trong hiện thời vẫn c̣n đang trong thời kỳ ấu trĩ. Phật pháp vô biên, tŕnh độ khoa học ở thế giới Cực Lạc vượt quá xa đến nỗi chúng ta chẳng thể nào nghĩ tưởng nổi.

      Chúng sanh muốn thành Phật luôn gặp ba thứ chướng ngại, nhưng nếu văng sanh về thế giới Cực Lạc, ba chướng ngại sẽ biến thành con đường thành Phật.

      Chúng sanh ở đây không có nhân mà muốn có quả, chắc chắn sẽ không đạt được quả. Tuy thế giới Cực Lạc không có nhân nhưng có quả[7]. Khi văng sanh rồi, bèn có ba mươi hai tướng tốt, sáu thứ thần thông, vô lượng quang minh, vô lượng thọ mạng, chẳng sanh, chẳng diệt. Chúng ta ở thế giới này mà phóng dật, sợ phải học, sẽ chẳng đạt được pháp, c̣n trong Cực Lạc thong thả cũng học được pháp. Phàm khi đi du ngoạn ở công viên, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hót cũng giống như nghe pháp tu hành, c̣n ở đây th́ gió thổi, chim kêu chẳng ai biết ư nghĩa ǵ hết, chỉ là âm thanh tạp loạn. Âm thanh ở thế giới Cực Lạc đều là pháp âm, nghe rồi liền hiểu đạo lư. C̣n người không biết th́ gột rửa trong ao tám công đức liền khai trí huệ. Chúng ta ở thế giới này tâm niệm lục trần mải mê hưởng dục lạc nhất định chẳng thể nhập đạo, c̣n trong Cực Lạc th́ tùy theo ư muốn liền nhập đạo. Nơi đây do khoa học phát triển nên cũng có thể dùng phi cơ để bay đi nơi khác, nhưng nếu chẳng cẩn thận cũng có thể bị mất mạng khi máy bay trục trặc. C̣n cơi Cực Lạc chẳng có sự nguy hiểm đó, hết thảy đều thuận theo tâm chúng sanh có thể hưởng mọi thứ khoái lạc.

      Mức độ khoa học phát triển ở thế giới Cực Lạc người xưa nghe xong rất khó tin tưởng, ngày nay nhờ cơ sở khoa học hiện đại phát triển nên có thể giải thích phần nào những sự thật y. Ngày nay, ta thường thấy sàn nhà có lót gạch, cẩn dây đồng, người ta thường biết việc này học từ người Âu Tây, chẳng biết thế giới Cực Lạc đă có những thứ này từ lâu rồi, chỉ khác ở chỗ một bên là vàng ṛng, c̣n một bên là dây đồng… C̣n về điện báo vô tuyến, người xưa cũng chẳng tin, ngày nay toàn là những đồ dùng hằng ngày, chẳng c̣n lạ lùng ǵ nữa. Thiên Nhĩ Thông trong thế giới Cực Lạc vượt trội vô tuyến điện của chúng ta, tiếc rằng phàm phu bị t́nh chấp chướng ngại, chỉ tin chuyện ở đây, chẳng chịu tin nơi kia. Người ta tin vô tuyến điện thực ra là mê tín v́ chỉ biết ‘sự’ này nhưng chẳng biết ‘lư’ của nó, tuy tin chắc nhưng vẫn là mê muội. Do vậy, mê hoặc chỉ tin những sự việc ở thế giới này, niệm niệm chẳng xả, cho nên chẳng chấp nhận khoa học [phát triển] trong thế giới Cực Lạc.

      Sự giàu sang hoa lệ ở thế giới Cực Lạc nói măi chẳng hết, nói đại khái bèn có thể kể tới những sự hưởng thụ sau đây:

      Nói đến nơi cư trú, bên đó có lầu đài làm bằng thất bảo. Chẳng phải chỉ có những đồ trang trí bên ngoài mới làm bằng thất bảo, mà bất cứ vật liệu kiến trúc ǵ cũng làm bằng thất bảo. Chẳng phải như nhà ở nơi đây làm bằng gỗ, xi măng, gạch, ngói. Cơi Cực Lạc không có lầu cao, nếu có th́ những căn lầu cao chọc trời ở đây cũng không sánh bằng!

      Nói đến thức ăn, mỗi hạt ngũ cốc của chúng ta ở đây đều phải trồng trọt cực khổ mới có. Những người giàu có, mỗi ngày đều đến tiệm ăn cũng phải coi thực đơn rồi chọn món ăn. C̣n thức ăn ở cơi Cực Lạc, có đầy đủ trăm món ngon lạ, vừa khởi ư niệm liền hiện ra trước mặt, ăn xong liền biến mất, chẳng phải rửa chén bát, nồi, niêu, xoong, chảo.

      Nói đến y phục, chúng ta phải đo kích thước đàng hoàng rồi mới may mặc, rất phiền phức, lại dễ bị dơ bẩn, hư rách. C̣n y phục cơi Cực Lạc h́nh dáng, màu sắc đều tùy tâm sở thích, tự nhiên hóa thành, vĩnh viễn chẳng dơ bẩn, hư rách.

      Nói về phương tiện giao thông, ở đây chúng ta cần có rất nhiều thứ, thí dụ như xe, tàu, máy bay. C̣n ở cơi Cực Lạc chẳng cần ǵ cả, khi chúng ta ở trong nhà, nếu muốn đi tới nơi nào, chẳng cần bước ra khỏi cửa, cả căn nhà liền bay đến chỗ muốn đến. Nếu nói tường vách che lấp không thấy ngoại cảnh th́ tường vách liền tự động biến mất, hiện ra hoa sen lớn chở chúng ta đi. Nếu sợ gió th́ tường vách liền hiện ra. Tất cả đều là những máy móc kỳ diệu chuyên chở người ta. Muốn đến thế giới phương khác, vừa khởi ư niệm liền đến nơi, vừa nhanh chóng, vừa an toàn.

      Trên đây là nói đại khái về y phục, thức ăn, chỗ ở, phương tiện di chuyển. Nếu để ư so sánh, liền biết sự khác biệt giữa hai thế giới. Thức ăn của chúng ta đều sanh trưởng từ đất đai ô uế. Những thịt cá động vật làm thức ăn cho con người, trong thân thể có đủ thứ trùng, bọ, phẩn uế, độc tố. Chúng ta dùng nước đă được lọc sạch, tuy chẳng có kư sinh trùng, nhưng cũng có quá nhiều chất hóa học, chẳng có chất nào không có hại cho thân thể. Ở thế giới chúng ta tuy có máy truyền h́nh có thể thâu h́nh và âm thanh từ những nơi xa, nhưng c̣n phải mất công lấy tay bấm vào máy, c̣n thế giới Cực Lạc trên mỗi bông hoa, mỗi lá cây đều có thể nh́n thấy vô lượng thế giới. Cả ngày đều có âm nhạc vi diệu phát ra, nếu không thích nghe th́ âm thanh đó tự nhiên ẩn mất. Tuy ḿnh không nghe nhưng người khác vẫn có thể nghe được.

      Thế giới chúng ta cũng có ao nước, dưới đáy lót bằng gạch, rất trơn trợt, nếu không cẩn thận trượt té sẽ bị thương. C̣n ao nước ở cơi Cực Lạc đều do vật báu làm thành, dưới đáy ao có toàn cát vàng, nếu ai cảm thấy cứng quá đâm vào chân khó chịu th́ cát ấy liền trở thành mềm mại. Ngược lại ai cảm thấy quá mềm th́ cát ấy sẽ trở thành cứng. Nước trong ao chẳng dơ bẩn như nước ở đây, lạnh nóng bất thường. Nước ao cơi Cực Lạc có đầy đủ tám công đức, ai muốn lạnh th́ nước liền lạnh, ai muốn nóng th́ nước liền nóng, ai muốn cạn, muốn sâu, nước đều biến thành vừa ư người đó.

      Ngày nay khoa học phát triển, một ngày có thể đi ngàn dặm, con người hưởng thụ vật chất càng ngày càng tăng thêm, [nh́n từ một góc độ nào đó] cũng có thể nói là khá sung sướng, nhưng thọ mạng chúng sanh quá ngắn, hưởng thụ chưa được bao lâu đă phải chết mất. C̣n cơi Cực Lạc vĩnh viễn không phải lo lắng về cái chết, chỉ hưởng thụ mọi điều vui sướng măi cho tới khi thành Phật. Thử nh́n về sự học Phật, cơi này của chúng ta có đủ mọi nỗi gian khổ, thí dụ như học Thiền nhất định phải tham Thiền chết lên chết xuống cũng chỉ chứng tới mức A La Hán. C̣n văng sanh Cực Lạc th́ hưởng hết mọi thứ vui sướng và cũng có thể chứng được Vô Thượng Bồ Đề.

      Sự thù thắng của cơi Cực Lạc là như vậy, [chúng ta] nên hỏi làm sao mới văng sanh về đó được? Giáo chủ cơi Cực Lạc là A Di Đà Phật đă nghe thấy hết tâm thanh của mọi chúng sanh. Chúng ta chỉ cần chí tâm niệm A Di Đà Phật,liền cảm ứng đạo giao cùng đức Phật, đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà liền đến tiếp dẫn văng sanh thế giới Cực Lạc. Trên mặt Sự tuy đơn giản như vậy, thực hành cũng cần phải tuân theo ba yếu quyết. Thứ nhất là Tín, nếu làm giống như đă nói th́ là tin chắc chẳng nghi. Thứ nh́ là Nguyện, lúc lâm chung không chịu lên cơi trời làm Ngọc Hoàng. Thế giới Lưu Ly ở Đông phương, thế giới thượng phương của Phật Di Lặc, hoàn cảnh tuy tốt đẹp chúng ta cũng không phát nguyện sanh về đó, chỉ nguyện văng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thứ ba là Hạnh, niệm câu Phật hiệu này tới lúc [giữ chặt trong tâm măi] không đánh mất là được. Tâm chúng sanh loạn, lúc tỉnh tạp niệm nhiều, lúc ngủ lại nằm mộng, học Phật phải dẹp trừ tâm loạn đó. Học Thiền và những pháp môn khác, trải qua hết mọi nỗi gian khổ, dần dần đoạn Hoặc, trải qua nhiều năm nhiều kiếp tu hành, mới có thể nói là có thành tựu. Niệm Phật chẳng cần phải đoạn Hoặc, chỉ cần văng sanh về thế giới Cực Lạc liền thành tựu ngôi bất thoái. Nếu niệm tới mức đoạn Hoặc chứng Chân, tức là minh tâm kiến tánh, tâm chính là Phật.

      Tín - Nguyện - Hạnh là ba yếu quyết của sự tu hành, cũng là ba món tư lương để văng sanh thế giới Cực Lạc. Đó là chánh hạnh, ngoài chánh hạnh ra c̣n phải cần trợ hạnh, tức là đừng làm các việc ác, vâng làm các việc lành. Cả hai Chánh và Trợ đều song tu, giống như hai cánh của con chim, chẳng thể thiếu thứ nào. Những đồng tu cũ ở Đài Trung, xét về chánh hạnh chỉ làm được bảy phần mười, trợ hạnh c̣n ít hơn nữa, tham Hoặc đầy đủ, tu hành như vậy làm sao thành tựu cho được? Niệm Phật cũng như quét nhà, tham Hoặc ví như rẩy bụi, vừa quét vừa rẩy bụi, vậy th́ làm sao cảm ứng đạo giao cùng Phật, làm sao minh tâm kiến tánh cho được? Do đó, cần phải Chánh Trợ song tu th́ mới là đầy đủ.

 

II. Ư nghĩa chính yếu của Tịnh Pháp giải thoát

(Giảng tại Liên Xă Đào Viên, đệ tử An Thọ kính ghi)

 

      Đă biết chúng ta cần phải tu hành theo lời Phật dạy, tu hành cần phải có chứng nghiệm. Không có chứng nghiệm th́ chẳng đáng tin. Chứng nghiệm tức là giải thoát. Trước mắt có thể ĺa khổ được vui, sau này có thể văng sanh Tây Phương. Giải thoát là chẳng phải chịu các sự đau khổ, không phải chịu sanh tử trong tam giới, chuyện này phải có duyên mới làm được. Các sự đau khổ vốn rất nhiều, khi nào được giải thoát th́ mới giải quyết vấn đề [chấm dứt đau khổ]; do đó, mong cầu giải thoát là chuyện vô cùng quan trọng.

      Đức Phật dạy rất nhiều pháp môn, hết thảy đều phải đoạn Hoặc (chế ngự phiền năo) mới được giải thoát. Tịnh Pháp (pháp môn Tịnh Độ) chẳng nằm trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà do đức Phật đặc biệt lập ra nhằm khế hợp căn cơ của chúng sanh trong thời Mạt Pháp. V́ vậy cũng dính dáng với chuyện đoạn Hoặc, nếu vậy th́ tại sao gọi là Tịnh Pháp? Thật ra, Tịnh Pháp không nhất định phải đoạn Hoặc, không cần phải đoạn Hoặc cũng được, đây là điểm đặc biệt của Tịnh Pháp. Ngoài pháp môn Tịnh Độ ra, [các pháp môn khác] đều phải đoạn Hoặc, dù chỉ c̣n một tí Hoặc chưa đoạn th́ cũng không thể liễu sanh tử. Người không học Phật không tin pháp môn Tịnh Độ, ngay cả phần đông người học Phật cũng đều chẳng tin, v́ vậy, phải nói rơ nghĩa lư này th́ mới có ḷng tin chân thật. Nếu không, sẽ có nhiều người tuy tu Tịnh Độ cũng chẳng hiểu lư này, cũng vẫn mê tín, như vậy th́ sẽ không thể thành công.

      Mọi người đều biết đức Phật A Di Đà [mà chúng ta] thờ phụng tại [chánh điện trong] Liên Xă chẳng ở tại thế giới này mà ngự tại Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hoàn cảnh thế giới Cực Lạc như thế nào? Kinh A Di Đà nói: “Đều do bảy báu làm thành” chẳng giống như thế giới Sa Bà đều do đất, cát làm thành. V́ vậy, thế giới Cực Lạc tốt đẹp hơn thế giới chúng ta gấp ngàn vạn lần, ai có thể sanh về thế giới tốt đẹp như thế?

      Trả lời: Người nào tu th́ người đó sẽ về.

      Tu pháp nào? Tu pháp môn Tịnh Độ.

      Tu như thế nào? Nói vắn tắt là niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.

      Có phải chỉ niệm A Di Đà Phật là được rồi? Không được! C̣n một chút phiền toái, phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn – nghĩa là chỉ có A Di Đà Phật trong tâm, ngoài ra không có tâm nào khác – th́ mới được, cũng tức là niệm đến mức ngũ dục lục trần đều chẳng quyến rũ nổi th́ mới được, chuyện này chẳng dễ! Vậy th́ niệm như thế nào mới được nhất tâm bất loạn, không niệm th́ không đạt được, phải không? Lư này khó hiểu, nhưng phải hiểu, nếu không, sẽ niệm không đúng pháp, [như vậy] cũng là mê tín, cũng chẳng thể thành công.

      Lư do khiến chúng ta không đạt được nhất tâm là v́ chúng ta có Hoặc, Hoặc là ǵ? Hoặc tức là mê hoặc, điên đảo, bản tánh của chúng ta đă bị vô minh bao phủ chẳng phát ra quang minh, người xưa nói “mê mất bản tánh”. Như vậy th́ là hồ đồ, u mê, chẳng biết làm việc thiện. Chẳng làm việc thiện th́ tư cách làm người cũng chẳng đủ, làm sao có thể văng sanh, giải thoát, chứng quả vị Phật cho được? Do đó, những ǵ tương phản với nhất tâm đều là Hoặc, cần phải đoạn chúng. Bất luận pháp môn nào do Phật dạy đều phải đoạn Hoặc, đoạn Hoặc th́ sẽ thành công, không đoạn th́ chẳng thành công.

      Chúng ta mê hoặc rất nhiều, chủ yếu là hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Kiến Hoặc là ư kiến mê hoặc, điên đảo, kiến giải không đúng. Tu hành phải cầu chứng quả, nếu đi lạc đường th́ làm sao chứng quả? Kiến Hoặc chia ra năm loại: Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến. Nêu một thứ có thể bao gồm những thứ c̣n lại, thí dụ như Thân Kiến: Thân vốn chẳng có, thân vốn chẳng phải là tôi, coi thân này là ‘tôi’ th́ đó là Hoặc. Lư này khó hiểu, người ta thường nói: “Người nào đó Ngă Kiến rất nặng”, và “muốn trừ phiền năo th́ phải vô ngă’. Khổng Tử cũng dứt tuyệt những chuyện “ư, tất, cố, ngă”, nêu gương “vô ư, vô tất, vô cố, vô ngă”[8]. Bất luận chúng ta làm việc ǵ, đặt một chữ Ta đi đầu th́ đều là ác. Chỉ có Ta mà không có người khác th́ làm sao làm công việc tốt đẹp cho được? Có Ta th́ tất cả lợi ích đều phải gom về Ta, người khác nhất định phải chịu thiệt tḥi. Chuyện lớn nhỏ ǵ cũng giữ cái tâm cho ḿnh trước, đó là Ngă Kiến, là một căn bệnh nặng nhất, người học Phật gọi là Thân Kiến. Khi trừ bỏ cái Ta, thân cũng không c̣n nữa. Phàm người tu Tịnh Độ đều biết khi văng sanh về thế giới Cực Lạc cũng có một cái thân. Thân con người là một vật xấu xa, ô uế nhất, bảy khiếu[9] đều chẳng sạch, hôm nay chết đi, ngày mai liền sanh gịi, hạt giống tinh cha huyết mẹ chẳng tịnh, lúc sanh ra cũng chẳng sạch. C̣n ở thế giới Cực Lạc là hóa sanh từ hoa sen, thân thể thanh tịnh. Hai thân thanh tịnh và thân xương thịt phàm phu không thể tồn tại cùng lúc, quư vị muốn có thứ nào? Tâm đặt ở đây th́ có thân này, tâm đặt nơi Tây Phương sẽ có thân của người cơi Cực Lạc; nhưng có người nào chẳng yêu thương cái thân giả tạm trước mắt? Nếu chẳng phá cửa ải Thân Kiến này, sẽ chẳng thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ngược lại, nếu quư vị chẳng yêu thương cái thân giả tạm này, tâm quư vị sẽ từ từ chẳng đặt nơi đây mà đặt nơi cơi Cực Lạc, vậy th́ sẽ văng sanh được. Phần đông người ta đều nghe nói đến nghĩa lư của cái thân và Ta này, nhưng người thấu hiểu chẳng nhiều, như vậy chính là mê hoặc. Như vậy th́ làm sao thành tựu? Chỉ có một chuyện này cũng rất khó làm rồi, huống chi bốn thứ c̣n lại đều chẳng dễ phá trừ.

      Kế đó là Tư Hoặc, cũng có năm loại, Tư Hoặc là ǵ? Là những ǵ chấp chứa trong tâm, vĩnh viễn chẳng phá trừ, thứ nhất là Tham. Chúng ta vừa thấy vật ǵ liền yêu mến vật đó, ưa thích có mức độ nặng nhẹ, [thí dụ] tôi ưa chùi mồ hôi, ưa là c̣n nhẹ, nặng th́ gọi là tham. Nếu chúng ta chẳng muốn thoát ly tam giới th́ cứ tham. Tam giới gồm có sáu tầng trời Dục Giới, mười tám tầng trời Sắc Giới, bốn tầng trời Vô Sắc Giới, tổng cộng hai mươi tám tầng trời. Thử hỏi chư vị: Chúng sanh tham những ǵ? Người nào ở Sa Bà thế giới đều tham năm thứ. Thứ nhất là tiền tài, vàng bạc châu báu người nào chẳng thích? Thứ hai là t́nh yêu nam nữ, nếu chẳng thích th́ chẳng có nam nữ. Thứ ba là danh lợi, thử hỏi ai chẳng bận rộn v́ danh lợi? Thứ tư là ăn uống, người nào chẳng ăn uống? Thứ năm là ngủ nghỉ. Tham muốn năm thứ này th́ chẳng rời khỏi tam giới, thường xoay vần trong ṿng lục đạo. Ngược lại [không tham], sẽ chẳng bị kẹt trong tam giới. Người tu Tịnh Độ có thể không đoạn Hoặc, nhưng tham và Thân Kiến nhất định phải dứt trừ. Ở thế giới Sa Bà đầy dẫy tài - sắc - danh - thực - thùy, thế giới Cực Lạc chẳng có những thứ này, v́ vậy, trước hết phải đoạn dứt ḷng tham.

      Người chẳng tu Tịnh Độ phải đoạn dứt tổng cộng một trăm chín mươi ba phẩm Kiến Tư Hoặc; chúng sanh trong tam giới chẳng biết đến Kiến Tư Hoặc, [phần đông đều] mê hoặc, điên đảo, chẳng hiểu rơ nghĩa lư. Thế nào là chẳng hiểu rơ nghĩa lư? Như chúng ta ngày nay thọ khổ báo, thọ quả báo đều là do những ác nghiệp đă tạo trong kiếp trước tích tụ lại, đây là Khổ Đế. Muốn không thọ khổ th́ phải làm sao? Phải cầu không sanh, không diệt; muốn đạt được không sanh không diệt, phải tu đạo. Lúc đức Phật thành đạo và bắt đầu chuyển pháp luân, Ngài đă giảng về Tứ Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đối với căn tánh thông thường của chúng ta, suốt tám mươi năm cũng không đoạn được một phẩm Kiến Hoặc, người có thể đoạn một phẩm Kiến Hoặc trong tám mươi năm đă thuộc về thượng căn rồi! Thế th́ muốn đoạn một trăm chín mươi ba phẩm Kiến Tư Hoặc phải mất mấy ngàn vạn năm! Dù đă đoạn dứt trọn hết một trăm chín mươi hai phẩm, hễ c̣n một phẩm chưa đoạn th́ vẫn chưa thoát ly sanh tử, chưa thoát khỏi tam giới. V́ thế mới nói tự lực rất khó thành tựu và đ̣i hỏi phải có thời gian rất dài.

      Pháp môn Tịnh Độ có hai lực, cần có tự lực trước rồi sau đó mới có tha lực giúp đỡ -- tức là sức mạnh của A Di Đà Phật. Đức Phật biết chúng sanh thành tựu khó khăn nên đại từ đại bi đến giúp đỡ, chúng ta cầu thoát ly tam giới, thử hỏi rời khỏi tam giới sẽ đi về ở đâu? A Di Đà Phật là người kỹ sư xây dựng Tây Phương Cực Lạc thế giới cho chúng ta về đó tu học.

      Làm thế nào để văng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Kinh A Di Đà nói nhất tâm bất loạn tức là đoạn được một trăm chín mươi ba phẩm Kiến Tư Hoặc, bảy ngày có thể thành tựu, lúc lâm chung tâm chẳng điên đảo, liền được văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dù lúc lâm chung chẳng có người trợ niệm cũng được văng sanh, vẫn đắc Thượng Phẩm Thượng Sanh.

      Muốn đoạn Hoặc, nhất định phải có công phu định lực, chúng ta không dễ ǵ làm được. Pháp môn Tịnh Độ có một phương pháp đặc biệt, phương pháp này đối với người tu theo pháp môn khác cũng vô dụng, chỉ có tu pháp môn Tịnh Độ mới dùng được, pháp đó là “phục Hoặc” (chế ngự phiền năo) th́ cũng có thể văng sanh. Hoặc chẳng dễ đoạn, chúng như hạt giống sẽ nẩy mầm, há chẳng hỏng việc hay sao? Người tu Tịnh Độ chẳng cần đoạn Hoặc, nhưng cần chấm dứt không làm những việc ác trước kia, cứ để nguyên như vậy đừng đụng tới, chỉ cần giữ cho nó không phát tác, không nẩy mầm. Cứ một mạch niệm A Di Đà Phật, miệng niệm, tai nghe [Phật hiệu] lọt vào tâm, đối với hết thảy những mê hoặc, điên đảo nào cũng đều dùng câu A Di Đà Phật đè xuống, đến lúc lâm chung, tất cả những hạt giống thiện mà chúng ta đă làm (hạt giống Phật), và hạt giống ác (những việc ác làm lúc trước) chứa hết trong thức điền thứ tám, [do những hạt giống thiện này nhiều nên chúng bao trùm, che phủ hết các hạt giống ác]. V́ bao phủ bên ngoài nên hạt giống Phật nhảy ra trước, Phật bèn phóng quang tiếp dẫn hạt giống tự tánh Phật này (chẳng tiếp dẫn hạt giống ác). Đây gọi là “chế ngự phiền năo”, chưa đoạn Hoặc mà văng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Các pháp môn khác cũng có nói đến “chế ngự phiền năo” nhưng chẳng có hiệu quả, v́ đè nơi nào th́ nó lại khôi phục ở đó, chỉ có pháp môn Tịnh Độ là có thể đạt được hiệu quả.

      Sức mạnh của A Di Đà Phật to lớn, nghiệp lực của chúng sanh cũng lớn. Lúc văng sanh, nghiệp báo vẫn chưa dứt, vẫn c̣n hạt giống ác, nên gọi là “đới nghiệp văng sanh”. Văng sanh rồi mới đoạn Hoặc. V́ cơi Cực Lạc chẳng c̣n sanh tử, thọ mạng chúng sanh nơi đó vô lượng, quang minh vô lượng, tự nhiên sẽ mở mang trí huệ, lúc bấy giờ, hạt giống A Di Đà Phật sẽ hoàn toàn hiện lên. Sự hưởng thụ trong cơi ấy vô cùng thù thắng, sự phú quư nơi cơi Sa Bà này chẳng thể sánh bằng. Ngoài ra, người văng sanh đến cơi ấy có sáu thứ thần thông, muốn lên mặt trăng cũng dễ như lật bàn tay, dù xa cách tám hành tinh, chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay liền đến được, chẳng cần mất công sức như chúng ta ngày nay. Ngoài ra c̣n đạt được Nhất Sanh Bổ Xứ, tức là văng sanh chẳng bao lâu liền thành Hậu Bổ Phật, chẳng bao lâu sẽ thành Phật. Đă thành Phật bèn sẽ giống như A Di Đà Phật vậy.

 

III. Bài kư theo thầy nghe pháp

(Giảng trong chuyến hoằng pháp tại Đông Thế, đệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)

 

      Đạo tràng là nơi để cầu đạo, mọi người đến đạo tràng nếu chẳng cầu đạo mà chỉ muốn t́m náo nhiệt, vậy th́ chẳng đạt được lợi ích ǵ cả.

      Đạo là ǵ? Ai cũng có Đạo, nhưng chẳng ai biết, cho nên phải cầu đạo. Hiện nay có Đạo hiện nay, tương lai có Đạo tương lai, nói như vậy, phải chăng là có hai Đạo? Chẳng phải, chỉ có một Đạo, chẳng phải hai. Lấy việc leo thang làm thí dụ, bước lên một nấc là cũng gọi là bước vào đạo, bước lên mười nấc cũng gọi là bước vào đạo. Đạo chỉ có sâu hay cạn, chẳng phải là có hai thứ đạo. Giống như lên lầu hai, vừa bước lên hai nấc hoặc năm nấc thang xong rồi đứng lại, đó là “chẳng đạt đạo”, chẳng đạt được rốt ráo, phải đi [hết cầu thang] lên lầu trên th́ mới gọi là “đạt đạo”. Do vậy, mọi người học th́ phải học đến cùng; nếu học nửa chừng rồi bỏ, học chẳng đến đâu, đứng nửa đường hoặc đi tới đi lui đều chẳng có ích ǵ hết. Hăy nên biết cầu đạo phải đắc đạo, việc này rất quan trọng!

      Tam Tạng kinh điển trong Phật pháp nhiều như mây khói trên biển, đức Phật đă tuyên thuyết suốt bốn mươi chín năm. Dùng thời gian ngắn ngủi để nói hết Tam Tạng là một việc không thể nào làm được. Nếu nói các bạn đồng tu phải từng bước tu tập đến cùng được không? Đương nhiên là được! Nhưng trong tâm cần phải có nghị lực, nghị lực tức là tâm kiên tŕ, gặp chuyện vui ǵ cũng chẳng thay đổi, gặp chuyện ǵ bất trắc, cản trở cũng chẳng nản chí, được như vậy th́ sẽ thành công. Muôn vàn chẳng thể nh́n thấy một thoi vàng liền sanh tâm ưa thích, đạo tâm mất sạch. Lúc gặp phiền năo bèn sanh tâm ưu sầu, đạo tâm cũng thụt lùi, vậy là không được. Phải chẳng bị hoan hỷ và phiền năo chi phối, luôn hướng về trước chẳng lùi. Thật ra, người có nghị lực như vậy rất ít. Cũng v́ phần đông người ta rất khó làm được nên mới có câu nói: “Đường trở về không hai, phương tiện có rất nhiều cửa”, có một phương pháp đặc biệt chẳng cần phải khắc phục nhiều khó khăn mà vẫn có thể đạt được Đạo. Có chuyện dễ dàng, tiện nghi như vậy sao? Có, nhưng tùy thuộc quư vị có tin hay là không?

      Trước khi nói rơ về phương pháp đặc biệt này th́ phải tŕnh bày những vấn đề liên quan. Phải biết muốn học Phật đến nơi đến chốn th́ phải đoạn Hoặc chứng Chân. Trước tiên, phải đoạn Kiến Tư Hoặc. Kiến Tư Hoặc là ǵ? Kiến Tư Hoặc có hơn một trăm sáu mươi phẩm, rất khó hiểu rơ, cũng v́ rất khó hiểu rơ nên đoạn chúng càng khó hơn. Trong kinh có thí dụ muốn đoạn một phẩm Hoặc giống như ngăn chặn ḍng nước chảy mạnh rộng đến bốn mươi dặm, khó đến mức như vậy đó! Do điều này ta có thể biết đoạn Hoặc rất khó. Nếu hỏi cá nhân tôi chín mươi sáu tuổi, học Phật đă hơn bảy mươi mấy năm, đoạn được bao nhiêu phẩm Hoặc? Nói thật với chư vị, một phẩm Hoặc tôi cũng chưa đoạn được, nhưng tôi có pháp môn đặc biệt, pháp môn đặc biệt ǵ vậy? Khỏi phải dùng cả bảy mươi năm, chỉ cần tám năm, mười năm, hoặc ba tháng bèn có thể thành công ngay trong đời này. “Có chuyện tiện lợi như vậy hay sao?” Có chứ! Pháp môn đặc biệt này chính là pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn tiện lợi như vậy nhưng rất khó tin. Pháp môn Tịnh Độ này bao trùm hết ba căn, lợi độn đều thích hợp, lại c̣n là chỗ quay về của ngàn kinh vạn luận. Cá nhân tôi đă tu học theo rất nhiều phương pháp nhưng chẳng đi đến đâu, chỉ có thể nương nhờ pháp môn đặc biệt này mà thôi.

      Có được pháp môn Tịnh Độ này th́ có ích lợi ǵ? Ích lợi quá nhiều, chẳng thể dùng lời nói và văn tự để diễn tả, cũng chẳng thể suy nghĩ mà có thể hiểu rơ, chỉ có thể dùng câu “không thể nghĩ bàn” để h́nh dung. Bây giờ, tôi đặt ra một câu hỏi để quư vị tham khảo. Thử hỏi có ai biết được chuyện sanh tử của ḿnh không? Trong lục đạo đời này làm người, đời sau không nhất định sẽ làm người được đâu nhé! Có thể sẽ đi làm quỷ, biến thành súc sanh, hoặc đọa địa ngục cũng không chừng. Nếu thường ngày có làm những việc thiện to lớn, đời sau có thể sanh lên cơi trời làm Thượng Đế. Làm Thượng Đế xong, đợi đến khi những nhân ác trong quá khứ hiện tiền, vẫn phải luân hồi tới lui trong sáu nẻo, chứ chẳng phải là làm người bèn vĩnh viễn làm người, Thượng Đế vĩnh viễn làm Thượng Đế! Ai cũng phải chuyển dời, vĩnh viễn luân hồi chẳng dừng, đó gọi là “luân hồi trong sáu nẻo”. Nói vậy nếu chưa “đắc đạo” th́ tốt nhất là đừng chết. V́ nếu chết đi, chẳng biết đời sau sẽ biến thành sinh vật ǵ! Trong kinh ví lục đạo như biển khổ, ở trong lục đạo cũng giống như trôi lăn trên biển khổ luôn luôn trồi lên hụp xuống. Học Phật đắc đạo rồi sẽ khỏi phải chịu nỗi khổ luân hồi, đó gọi là “chẳng sanh, chẳng diệt”. Pháp môn Tịnh Độ là biện pháp tốt nhất để thoát ly luân hồi.

      “Học Phật” khác với “Phật Học”. Học Phật là chúng ta hành theo lời Phật dạy. Phật Học nghĩa là t́m hiểu kinh điển Phật pháp, tuy là hiểu rơ, nhưng chẳng học và làm theo. Ngày nay có rất nhiều người nghiên cứu Phật Học, người học Phật chẳng nhiều, [Phật Học] giống như nói về thức ăn, đếm của báu, chẳng có ích ǵ hết. Do đó, hiểu Phật, học xong th́ phải hành, phải tu. Như vậy th́ phải học pháp môn Tịnh Độ như thế nào? Tu như thế nào?

      Pháp môn Tịnh Độ đơn giản và dễ dàng nhất, đó tức là pháp tŕ danh, niệm A Di Đà Phật. Tuy câu này đơn giản, dễ dàng, nhưng đạo lư và nội dung vô cùng thâm diệu. V́ vậy, đức Thế Tôn gọi pháp môn này là “pháp môn khó tin”. Trong kinh Di Đà, nói [cơi Cực Lạc] có “chúng điểu diễn pháp” (loài chim nói pháp), những con chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn tuyên lưu pháp âm nên biến hóa ra. Ngoài ra, hoa sen trong ao thất bảo cũng vậy. Niệm Phật văng sanh chẳng phải là hôm nay niệm Phật, ngày mai văng sanh, chẳng hề tiện nghi như vậy. Hơn nữa, sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải là lập tức thành Phật. Sau khi văng sanh ở trong hoa sen, tùy theo công phu tu tập mà chia thành chín phẩm. Có người lập tức hoa nở thấy Phật, có người qua một đêm hoa bèn nở, có người một ngày một đêm mới nở, có người nhiều kiếp mới nở. Ở tại đó tu hành, đoạn Hoặc, sẽ chẳng bị thoái chuyển v́ hoàn cảnh tốt đẹp, nhờ được chư Phật hộ niệm, lại c̣n được lợi ích v́ chư thượng thiện nhân ở chung một chỗ. Trong một thời gian ngắn, chẳng thể nói rơ trọn hết những lợi ích ấy được! Nếu quư vị muốn biết, có thể nghiên cứu kinh Di Đà th́ sẽ hiểu rơ. Thế th́ [thử hỏi]: “Ông đă đạt được pháp môn này hay chưa?’. Tôi đă đạt được rồi, là do Ấn Quang đại sư -- thầy của tôi dạy tôi. Quư vị nên xem Gia Ngôn Lục của Ấn Tổ th́ tự nhiên sẽ tin ngay. V́ thời gian có hạn nên tôi không thể nói nhiều, chỉ mong những lời này sẽ giúp mọi người tin sâu Tịnh Độ, từ đấy định tâm một chỗ, nhất tâm niệm Phật A Di Đà, tương lai thoát ly luân hồi văng sanh Cực Lạc thế giới.

 

IV. Nhớ Phật Niệm Phật

(Giảng tại Phong Nguyên, Năm Dân Quốc bảy mươi ba (1984), đệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)

 

      Trong Phật pháp vốn chẳng có tông phái ǵ cả, nhưng v́ trong thời Mạt Pháp căn tánh chúng sanh kém cỏi, trí huệ chẳng bằng lúc trước, nên cần phải chọn lựa phương pháp tu học cho thích hợp. Phật dạy: “Thời Mạt Pháp Tịnh Độ thành tựu”, chúng ta cần phải nương theo lời dạy của đức Phật mà tu. Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn nhị lực, tu hành nương theo sức lực của Phật và sức lực của ḿnh. Nhưng trong ngàn người khó t́m được vài người chân chánh tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, phần đông mọi người đều tin sơ sài, chẳng ai tin tưởng thực sự!

      Học Phật cần có ba điều, thiếu một cũng không được. Đó là Văn - Tư - Tu (nghe - suy nghĩ - tu tập). Văn nghĩa là nghe, “Phật pháp khó nghe, nay đă được nghe”. Có thể nghe được Phật pháp, thật chẳng dễ đâu nhé! Vô cùng khó khăn! Nhưng sau khi nghe được, chẳng tiến thêm một bước là suy tư th́ cũng uổng công. Hiện nay, Tam Tạng mười hai bộ kinh khắp nơi đều có, nhưng kinh tạng chẳng thể tự động thuyết giảng. V́ “Phật pháp không ai nói, tuy có thông minh vẫn chẳng hiểu rơ”, cho nên phải thâm nhập, tư duy và nghiên cứu. Nói trở lại chuyện Tịnh Độ là pháp khó tin, nếu muốn thông suốt ắt phải thâm nhập Tam Tạng kinh điển. V́ thế mới biết pháp môn Tịnh Độ chỉ nghiên cứu không chẳng đủ, nhất định phải thật tu. Nếu không thể thực hành th́ chỉ là lời nói dư thừa. Phải biết: Nghe nhiều chẳng bằng nghĩ nhiều, nghĩ nhiều chẳng bằng hành nhiều; ba thứ thiếu một th́ không được.

      Tịnh Độ là pháp dễ hành khó tin. Khó tin v́ ḷng tin phải vững chắc, Bát Địa Bồ Tát trở lên mới chẳng lung lay ḷng tin. V́ vậy, chúng sanh phải tin tưởng vào Thánh Ngôn Lượng[10], nương vào nguyện lực của đức Phật, thiết thực tu hành. “Một nguyện lực, một thật tu”, đây là điều trọng yếu nhất. “Dị hành” nghĩa là chỉ cần làm theo lời dạy của Phật, nhất định sẽ thành công. Sáu chữ ‘Nam-mô A Di Đà Phật’ bao gồm Tam Tạng mười hai bộ kinh, chẳng thể dùng hai ba ngày mà có thể giải thích rơ ràng được. Tu hành không thể tu một chút xíu rồi thôi. Người xưa nói: “Muốn biết đường xuống núi, phải hỏi người từng đi qua”. Người đă từng trải qua dạy quư vị làm như thế nào, quư vị phải làm như vậy th́ sẽ thành công.

      Chữ Tịnh trong Tịnh Độ Tông rất quan trọng, phàm phu thường chẳng tịnh, v́ cả ngày phàm phu đều khởi vọng tưởng, trong ṿng một khảy ngón tay đă khởi lên mấy trăm vọng tưởng, mỗi vọng tưởng là một lần sanh tử, thật là đáng sợ! Cả ngày đều khởi vọng tưởng, sẽ không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Có người hỏi: “Có ai chẳng khởi vọng tưởng, có ai chẳng khởi tâm niệm?” Chỉ có Phật mới một niệm chẳng khởi. Tịnh Độ Tông dạy chúng ta gom hết thảy tâm niệm lại thành tịnh niệm, chẳng khởi vọng tưởng. “Có thể làm được hay không?” Chỉ cần biết phương pháp th́ sẽ làm được. Lần này, tôi đến Phong Nguyên thật chẳng dễ, hôm nay bèn nói phương pháp này cho quư vị biết. Phương pháp ǵ? Tức là Nhớ Phật niệm Phật (Ức Phật niệm Phật).

      Niệm Phật tức là mỗi lúc khởi tâm động niệm đều là A Di Đà Phật, đương nhiên đấy đều là tịnh niệm. Nhưng như vậy th́ công việc ǵ cũng không cần phải làm nữa hay sao? C̣n một phương pháp khác, đó tức là Nhớ Phật, trong tâm luôn nghĩ đến Phật, chẳng quên. Niệm Phật là “niệm tại đâu, chú tâm vào nơi đấy”. Nhớ Phật là nhớ rơ chẳng quên, dẫu thầm lặng (tức là tuy miệng không niệm ra tiếng) nhưng vẫn luôn nhận biết (trong tâm luôn tưởng Phật). Thí dụ người ta ai cũng không quên tiền bạc, ai cũng không quên ăn cơm, như thế đem tâm ham tiền, nhớ ăn cơm biến thành tâm nhớ tưởng Phật, cái ǵ cũng biến thành A Di Đà Phật. Cứ như vậy tuy trong tâm chẳng nói, nhưng có ấn tượng, đó là nhớ Phật. Mọi người phải hiểu rơ bốn chữ “niệm Phật, nhớ Phật” này th́ sẽ đạt được lợi ích to lớn.

      Thời gian hôm nay rất ngắn ngủi, tôi cúng dường vài câu vô cùng quan trọng này, mọi người hăy nên nghiên cứu rơ ràng, lâu ngày chầy tháng niệm Phật liên tục chẳng dứt, và biến đổi cái tâm không quên tiền, tâm không quên ăn cơm thành tâm nhớ Phật.

      Kính chúc quư vị nhất tâm bất loạn, pháp hỷ sung măn.

 

V. Đau ḷng mỏi miệng khuyên buông xuống

(Giảng trong chuyến hoằng pháp tại Lộc Cảng, năm Dân Quốc bảy mươi ba (1984), đệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)

 

      Mọi người phải biết học Phật là để làm ǵ? Phật pháp Tiểu Thừa chỉ nhằm liễu sanh tử cho cá nhân. Phật pháp Đại Thừa nếu chỉ v́ ḿnh liễu sanh tử th́ vẫn chưa đủ, phải giúp mọi người liễu sanh tử. Đó là tự lợi lợi tha. Đạo tràng Lộc Cảng này được thành lập cũng chính yếu v́ liễu sanh tử. Sanh tử có “liễu sanh tử thật” và “liễu sanh tử giả”. Thật sự có thể liễu sanh tử th́ chỉ có một ḿnh đức Phật. Mọi người học Phật, học liễu sanh tử th́ nhất định phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp mới có thành tựu. Ngoài ra đức Phật c̣n phương tiện lập ra phương pháp cứu chúng sanh hoành siêu (vượt ra khỏi tam giới theo chiều ngang), giúp cho chúng sanh ngay trong một đời này có thể thành tựu, đó là pháp môn Tịnh Độ.

      Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn tu hành nương nhờ vào hai lực lượng, dựa trên hai lực lượng này tu tập sẽ có thể thành tựu ngay trong một đời này. Đă biết pháp môn này, bất luận quư vị sống đến bảy tám chục tuổi, hoặc trên trăm tuổi, thậm chỉ chỉ sống một tháng, chỉ cần bạn chịu tu, một tháng cũng có thể liễu sanh thoát tử. Pháp môn hay đến như vậy nhưng rất khó hiểu rơ triệt để. Muốn hiểu rơ pháp môn này, phải đọc hết Tam Tạng mười hai bộ kinh th́ mới hiểu rơ. Lại nói thêm, những pháp môn khác phải được thân người th́ mới có thể tu tập, c̣n pháp môn Tịnh Độ, ngay cả con kiến cũng có thể thành tựu. Đương nhiên, nếu quư vị  chẳng thành tựu trong đời này th́ cũng phải luân hồi, cũng bị mê muội khi chuyển sanh sang đời sau, trong tương lai cơ hội gặp lại pháp môn này vô cùng mù mịt.

      Những lời dạy của đức Phật được gọi là Thánh Ngôn Lượng. Nếu có thể tin tưởng thực sự th́ tuy chẳng hiểu, vẫn có thể thành tựu. Chỉ sợ là quư vị không hiểu, nhưng cố làm ra vẻ như chính ḿnh rất thông ḿnh. Thí dụ rơ ràng đây là một khúc cây, quư vị lại nói bừa là tấm giấy. Giấy có công dụng của giấy, gỗ có công dụng của gỗ. Dùng khúc cây gơ vào đầu sẽ đau, nhưng dùng tấm giấy gơ sẽ không đau; đồ vật ǵ cũng có cách dùng riêng của nó, chớ nên dùng sai. Kinh điển càng chẳng thể giảng sai, mỗi chữ Trung Quốc có một âm, mỗi âm có nghĩa khác, nói sai sẽ hại người. Lúc b́nh thường phàm những người đến đạo tràng này giảng kinh đều phải y theo chú giải của Tổ Sư mà tuyên nói, không thể nói tùy tiện, bừa băi.

      Thông thường, mọi người đều nghe đến hai chữ Ngă Chấp. Nếu người mang bệnh th́ phải uống thuốc. Bệnh ǵ th́ uống thuốc trị bệnh đó. Nhưng một thứ thuốc không chỉ trị một loại bệnh, có trăm ngàn cách biến hóa, nếu không bệnh mà uống thuốc bừa băi sẽ rất phiền phức. Trong Phật pháp thường nói đến một bệnh nặng, đó là tham - sân - si. Người học Phật đều biết, bất kể học theo tông phái nào cũng đều bị bệnh tham - sân - si này. Tâm tham, tâm sân hận, tâm ngu si được gọi là Tam Độc. Tam Độc từ đâu đến? Hoàn toàn do cá nhân quư vị mong cầu mà có. Tự ḿnh cầu ư? Nhất định quư vị sẽ nói “chẳng có lẽ ấy!” Đích thực là vô cùng chánh xác, tự ḿnh t́m cầu tham, sân, si rồi giữ chặt nó trong tâm. Nếu vậy th́ sẽ chẳng thể liễu sanh tử. Chắc chắn quư vị đă nghe người xưa nói: “Thành Phật chẳng khó, buông dao đồ tể xuống bèn lập tức thành Phật”. Dao đồ tể (đồ đao) là dao dùng để mổ heo, ḅ; sát sanh chẳng phải là việc tốt, chỉ cần buông dao đồ tể xuống liền thành công. Mọi người phải nhớ “buông xuống”! Tam Độc tức là dao đồ tể. Bất cứ người nào trong chúng ta cũng chuyên cầm con dao đồ tể ấy, sau đó tự giết hại ḿnh, hại người. Như vậy th́ làm sao giải thoát cho được? Nếu buông xuống dao đồ tể xong rồi lại cầm cây kéo, như vậy th́ cũng không được, nhất định phải buông xuống hoàn toàn. Tu pháp môn Tịnh Độ nhất định phải chuyên tâm nơi câu A Di Đà Phật. Thiền Tông nói: “Nhất niệm chẳng khởi”, người nào có thể một niệm chẳng khởi th́ người ấy chính là thật sự buông xuống. Nếu làm chẳng nổi th́ phải chuyên niệm A Di Đà Phật, dựa vào Nhị Lực để tu hành th́ mới có thể thành công, mới có hy vọng văng sanh, liễu sanh tử.

 

VI. Học Phật phải cầu thành Phật. Thành Phật phải nhờ Di Đà.

(Giảng trong chuyến hoằng pháp tại Lộc Cảng, năm Ất Sửu, đệ tử Hoàng Bích Hà kính ghi)

 

      Năm nay tôi đă chín mươi tám tuổi, làm việc thường là sẵn tâm nhưng chẳng có sức. Hôm nay may mắn gặp gỡ, nói chuyện chỉ lựa những điều quan trọng để nói, nói xong th́ điều quan trọng nhất vẫn là do mọi người thực  hành.

      Tại sao chúng ta học Phật? Học Phật nghĩa là mọi người đều cầu thành Phật. Nếu không thể thành Phật th́ học Phật để làm ǵ? Nhưng muốn thành Phật th́ phải bắt chước làm theo hành vi của đức Phật, bắt chước làm theo sẽ có ích lợi ǵ?

      Chư vị nên biết, từ trước tới nay mọi người đều luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi không bao giờ ngưng dứt. Sáu nẻo tức là cơi trời, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, và A Tu La. A Tu La hơi đặc biệt, chia ra khắp bốn cơi trời, người, súc sanh, ngạ quỷ. Phàm những chúng sanh trong cơi Sa Bà chúng ta hễ có sanh bèn có diệt, bất kể là thánh nhân hay là hảo nhân (người tốt), ai cũng chẳng thoát khỏi sanh tử, đều phải luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Vả lại, nhân quả thông ba đời, nợ đời trước th́ đời sau phải trả. Trả xong nợ cũ rồi bèn đầu thai sanh vào cơi trời, cơi người. Trong cơi trời người, lại khởi Hoặc, tạo nghiệp, đương nhiên sẽ sanh tử tiếp nối không dứt y như cũ. Do đó, người ta chết đi không thể bảo đảm là đời sau sẽ sanh làm người trở lại. Ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế chết đi cũng có thể biến thành heo, chó, ḅ, dê, huống chi là người thường! C̣n người học Phật th́ sao? Đời này không thể thoát ra sáu nẻo luân hồi, đă đầu thai bèn bị mê muội khi chuyển sanh sang đời sau, nhất định sẽ quên hết những đạo lư chính ḿnh đă tu trong đời trước; cũng nhờ đời trước có tu hành nên đời này sẽ hưởng phước. Nhưng giàu sang học đạo khó lắm! Đă hưởng giàu sang, lại làm quan, cơ hội tạo nghiệp càng lớn, kỳ vọng có thể thoát ly sanh tử, thành tựu Phật đạo trở thành rất viễn vông, không thể nào thực hiện được!

      Trong sáu nẻo, lúc th́ sanh lên trời, lúc th́ đọa xuống cơi súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Sanh tới cơi lành (trời, người) cũng như trong biển cả, ngoi đầu lên hít một hơi khoẻ khoắn một lát rồi thôi. Đợi có cơn sóng đánh ụp tới liền bị ngập đầu, ch́m xuống biển sâu thẳm chẳng c̣n lưu lại dấu vết. Đúng như câu “đầu ngoi lên hụp xuống”. V́ thế, con người nhất định phải biết t́m giải thoát, cầu thoát ra khỏi biển khổ. Giống như [bị ch́m] giữa biển và gặp được tàu cứu vớt, liền phải leo lên tàu để được chở qua tới bờ bên kia, bờ bên kia tức là bờ giải thoát. Nhưng ai được giải thoát? Trừ Phật ra, ngay cả Bồ Tát cũng chưa thật sự được giải thoát, do đó học Phật nhất quyết phải cầu thành Phật, nếu không thành Phật th́ là tự phụ bạc, tự ruồng rẫy chính ḿnh.

      Tại sao nói thành Phật mới thật sự là giải thoát? Chữ Phật nghĩa là Giác. Giác nghĩa là hiểu rơ tất cả, phải tu tới mức hiểu rơ tất cả [bất cứ sự việc ǵ cũng phải hiểu rơ]. Nếu tính thời gian th́ một ngày, một năm có thể làm nổi hay không? Một trăm năm, một ngàn năm, một vạn năm cũng chưa làm nổi! C̣n nói theo phương diện không gian, dùng mảnh đất Đài Loan nhỏ nhoi này để tính, những học giả nghiên cứu thực vật, động vật có thể biết rơ hết tất cả những thực vật, động vật sanh sản ở Đài Loan này hay không? Người Đài Loan từ một tuổi tới một trăm tuổi [đă là rất nhiều], tên của các thứ cây cỏ, chim chóc, thú vật đă là rất nhiều [làm sao biết hết cho được]! Do đó, muốn thành Phật phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp. Sau khi thành Phật, ở ngoài tam thiên đại thiên thế giới ở chỗ nào có mưa, có bao nhiêu giọt mưa, Phật đều biết rơ ràng. Đúng là không có việc ǵ Ngài không biết, không có vật ǵ Ngài không rơ. C̣n phàm phu chúng ta, trước mắt có một tờ giấy che kín là chúng ta không nh́n thấy rồi, nói chi những chuyện khác!

      Nói như vậy th́ thành Phật là chuyện rất khó phải không? Đúng là rất khó! Nhưng đức Phật vô cùng từ bi, trong muôn vàn khó khăn, Ngài đặc biệt mở ra một pháp môn giúp cho mọi người nhanh chóng được giải thoát thật sự.

      Mọi người đều biết đi học cần phải vào trường, trường học lại có trường hay, trường dở. Hiện nay, muốn học Phật phải kiếm một trường hay. Kiếm được một trường hay rồi, được đức Phật A Di Đà làm hiệu trưởng, Quán Thế Âm Bồ Tát làm Chủ Nhiệm Giáo Vụ, Đại Thế Chí Bồ Tát làm Chủ Nhiệm Huấn Đạo, đúng là một ngôi trường quá tốt đẹp! [Trường ấy là trường nào vậy?] Trường ấy chính là thế giới Cực Lạc. Nơi đó “chẳng có sự khổ, chỉ có điều vui”. Tới đó muốn làm ǵ th́ làm, đó là một nơi thanh tịnh chẳng ô nhiễm. Nhưng v́ nó quá đặc biệt, trong một vạn người chẳng t́m ra được một người thật sự tin tưởng, chẳng hoài nghi; do đó, pháp môn Tịnh Độ gọi là pháp khó tin

      Phần đông người ta v́ chẳng tin chân thật, miệng niệm Phật nhưng tâm rong ruổi theo duyên bên ngoài. Đúng như câu nói “miệng niệm Di Đà, tâm tán loạn”, [hét toạc cổ họng cũng luống công], niệm như vậy sáu trăm vạn kiếp cũng không thể thành công. Xét về số lượng th́ niệm Phật nhiều sẽ được khẩu thiện, đời sau sanh làm người mà thôi! Như vậy là vẫn chưa rốt ráo. Rốt ráo nhất vẫn là thật sự tin tưởng, thật thà niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc. Sanh tới Tây Phương, tiếp tục tu học trong trường, khi tốt nghiệp ra trường sẽ được tự do, thật sự được giải thoát.

      Pháp môn Tịnh Độ, ngàn kinh vạn luận chỗ nào cũng chỉ quy. Tam Tạng mười hai bộ kinh điển, bộ kinh nào nói tới pháp môn mà không phải bất cứ ai cũng có thể hiểu trọn vẹn được, liền dùng sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” để khuyên chúng sanh. Trong sáu chữ này, chữ nào cũng liên quan tới Tam Tạng kinh điển. Chữ Tín là cội nguồn của hết thảy công đức, đương nhiên muốn tin tới mức không lay động th́ Bát Địa Bồ Tát mới làm được. Tuy nhiên, chúng ta có thể miễn cưỡng tin. Đức Phật là thánh nhân, tuyệt đối sẽ không bao giờ nói dối; hăy tin vào Thánh Ngôn Lượng, cho dù không hiểu lư lẽ cũng thành công. Nếu mọi người có thể không hoài nghi, y giáo phụng hành, có thể văng sanh về cơi Cực Lạc, nhất định có thể thành Phật, đạt được giải thoát thật sự.

 

VII. Pháp khế đạo

(Giảng tại Tịnh Nghiệp Tinh Xá (Dân quốc 74, 1985), đệ tử Ngô Bích Hà kính ghi)

 

      Hôm nay tôi rất vui mừng có duyên nói chuyện với quư vị, nhưng v́ thời gian quá ngắn ngủi chỉ có thể chọn ra đôi lời quan trọng để nói mà thôi.

 

      * Tin sâu nhân quả, tu nhiều âm đức.

 

      Căn bệnh lớn nhất của con người hiện thời là “không tin nhân quả báo ứng”, bất luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian đều chẳng ĺa nhân quả, nay tôi sẽ dùng câu này để mở đầu buổi nói chuyện.

      Sự của nhân quả rất phức tạp. Lư của nhân quả sâu thẳm khó hiểu; quy nạp lại bèn chia ra nhiều loại khác nhau: thiện, ác, vô kư, hữu lậu, vô lậu. Lúc tạo th́ có khi thiện chuyển thành ác, có khi ác biến thành thiện, có rất nhiều sự thay đổi khác nhau, rất khó nói, nên chỉ nêu ra những sự việc liên quan mật thiết nhưng tương đối dễ hiểu, đó là “đạo đức”.

      Đạo là ǵ? Đạo là những ǵ có thể đem lại lợi ích cho đại chúng, đem lại từ bi, trí huệ cho người khác. Đức là ǵ? Sau khi thực hành, có thể đạt được những lợi ích. Đức lại chia thành dương đức và âm đức. Dương đức [là những đức] hiện ra rơ ràng, thuộc hữu lậu, [chẳng hạn như] làm việc thiện mà mong người khác biết, mong được danh thơm tiếng tốt hay phước báo. C̣n âm đức ẩn kín, thuộc về vô lậu, làm việc thiện không mong người khác biết, tuy không v́ danh, v́ lợi, vẫn được phước báo. Ngược lại, việc ác cũng chia ra dương ác và âm ác. Dương ác là những điều ác hiện rơ ràng, ai cũng biết; âm ác ví dụ như tâm ác độc hại người, quả báo là trong tương lai sẽ đọa tam đồ, chúng ta phải nên cẩn thận. Nhân quả báo ứng tuyệt đối chẳng hư giả. Chúng ta tới chùa, chùa là đạo tràng, nếu không có đạo đức, th́ là đạo ǵ? Do đó đừng nên tạo ác, phải tu âm đức, nếu có thể tu âm đức th́ quả báo ẩn kín hay rơ rệt đều có đủ.

 

      * Noi theo Thánh Ngôn Lượng để tu tŕ.

     

      Kế đó, hăy nói về việc học Phật. Trong Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, tổ sư chia thành mười tông phái, sau đó lại chia thành pháp môn phổ thông và pháp môn đặc biệt. Tu theo pháp môn phổ thông muốn giải thoát sanh tử, tu thành quả vị Phật phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp. Pháp môn đặc biệt th́ ngay trong đời này có thể thoát khỏi tam giới, thoát khỏi luân hồi, thành tựu trong đời này. Ngoài lợi ích to lớn như vậy lại c̣n bao trùm khắp ba căn. Kẻ hiểu được là phải triệt ngộ ư nghĩa của Tam Tạng mười hai bộ kinh, nhưng nếu hiểu không được, dẫu là người ngu nhất cũng tu được. Tu như thế nào? Chỉ chấp tŕ một câu A Di Đà Phật là được! Câu danh hiệu A Di Đà Phật này, vừa dạy liền biết niệm, vô cùng dễ dàng! Cứ nhất tâm tŕ niệm bèn liền được đức Phật tiếp dẫn, liễu thoát sanh tử, sanh về Cực Lạc, vô cùng thẳng tắt! Đó là pháp môn đặc biệt, cũng gọi là pháp môn Tịnh Độ. Lư này chỉ có Phật và Phật mới có thể biết trọn vẹn, từ Đẳng Giác trở xuống đều chẳng hiểu trọn hết.

      Nghiên cứu Phật học cần phải biết về Tam Lượng[11]: Hiện Lượng, Tỷ Lượng, Thánh Ngôn Lượng. Lượng nghĩa là thước tấc. Chẳng biết dài hay ngắn th́ phải dùng thước tấc để đo lường, thước tấc là tiêu chuẩn. Tam Lượng là tiêu chuẩn. Thánh Ngôn Lượng là những lời dạy của thánh nhân, chân thật chẳng hư dối có thể dùng làm tiêu chuẩn cho người tu hành. Pháp môn Tịnh Độ chỉ có đức Phật mới hiểu trọn, chúng ta cứ noi theo Thánh Ngôn Lượng sẽ khỏi phạm sai lầm. Đạo sư ở thế giới chúng ta, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta chấp tŕ danh hiệu A Di Đà Phật, chúng ta hăy nghe theo, chấp tŕ danh hiệu, đó là Phật tử chân chánh, tin tưởng Thánh Ngôn Lượng.

 

      * Miệng niệm tai nghe, một trăm lẻ tám chẳng loạn.

 

      Đă tin vào Thánh Ngôn Lượng và tŕ danh hiệu A Di Đà Phật; công phu tŕ danh có sâu hay cạn, giống như trường học có tiểu học, trung học, đại học, tŕnh độ cao thấp khác nhau. Niệm Phật tầng thứ nhất là “miệng niệm tai nghe”, mức độ này cũng như tiểu học. Kế đó là “tâm niệm, tâm nghe”, mức độ này cũng như trung học. Cuối cùng là “thần niệm, thần nghe”, [thần ở đây nghĩa là tâm thanh tịnh; hoặc nói chính xác là dùng tánh Nghe nơi tự tánh để nghe câu niệm. Cái tâm nói ở mức độ thứ hai thấp hơn v́ cái tâm ấy c̣n là tâm thức, tức vọng tâm chưa phải chân tâm] mức này cũng như đại học. Tŕnh độ của chúng ta chỉ là tiểu học mà thôi, có thể miệng niệm rơ ràng rành rẽ, tai nghe rơ ràng, rành rẽ, công phu niệm tới mức thuần thục, trong tâm chỉ có Phật, chẳng bị ngoại cảnh làm rối loạn, đó chính là nhất tâm bất loạn được nói trong kinh Di Đà.

      Chúng ta tự hỏi ḷng ḿnh có ai niệm tới mức nhất tâm bất loạn hay chưa? Niệm Phật tới mức “tâm niệm, tâm nghe” chính là cảnh giới “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” của Đại Thế Chí Bồ Tát, càng không dễ ǵ đạt được. C̣n mức độ “thần niệm, thần nghe” chính là Thật Tướng Niệm Phật, đạt đến mức “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. “Chiếu mà thường tịch, tịch mà thường chiếu”, rốt cuộc chẳng có ai hiểu được.

      Chư vị đừng coi thường câu “miệng niệm, tai nghe” này, miệng niệm rơ ràng, tai nghe rành rẽ, sẽ chánh niệm phân minh, có thể đắc nhất tâm. Chư vị có thể hạ thủ công phu từ chỗ này, luyện tập một tháng không gián đoạn th́ sẽ đạt được lợi ích to lớn.

      Những điều nói trên đều là phương pháp niệm Phật, c̣n số lượng nhiều hay ít, ở đây, tôi nhắc lại một bài kệ của cổ đức để mọi người tham khảo:

      Niệm Phật bất tất cầu đa niệm

      Đản niệm bách bát tâm bất loạn

      Kỳ trung nhược hữu nhất niệm sai

      Trạo chuyển châu đầu giai bất toán

      (Niệm Phật chẳng cầu phải niệm nhiều

      Chỉ niệm trăm tám tâm chẳng loạn

      Trong đó nếu có một niệm sai

      Lần chuỗi niệm lại, trước không tính)

     

      Đừng chê một trăm lẻ tám ít quá, nhất tâm niệm Phật th́ một trăm lẻ tám cũng bằng ba mươi sáu vạn ức mười một vạn chín ngàn năm trăm tiếng (Nhận định: Xin tham khảo Long Thư Tịnh Độ Văn, cuốn bốn, phần Pháp Môn Tu Tŕ số sáu). Lời tôi nói đều y theo kinh điển và lời của Tổ Sư, chư vị hăy nên chuyên cần luyện tập niệm Phật nhất tâm. Kính chúc quang thọ vô lượng.

 

VIII. Biết quả sợ nhân, nên cẩn thận; gặp duyên, đụng cảnh gắng tu tập

(Dân Quốc 65 (1976), khai thị cho lớp Trung Huệ, đệ tử Ngô Bích Hà kính ghi)

     

      Chư vị hăy lắng nghe! Người giảng hay chẳng bằng người biết nghe. “Chư pháp ư cung kính trung cầu” (cầu pháp phải bắt đầu từ nơi cung kính), dù những ǵ tôi nói chẳng như lúc trước, nhưng cung kính lắng nghe nhất định sẽ đạt được lợi ích của Phật pháp. Huống chi chư vị đă ra sức niệm Phật ba ngày, trong trăm việc bận rộn t́m được thời gian rảnh rỗi, cơ duyên này thật sự là chẳng dễ nên phải gắng sức để đạt được nhất tâm bất loạn. Cung kính, thành khẩn, thiết tha là thiện nhân duyên, mong mỏi được nhất tâm văng sanh

      Trong Tịnh Tông chúng ta có nói “vạn tu, vạn người đi”, hoặc là “mười niệm văng sanh”, hoặc là “lâm chung trợ niệm văng sanh” đều là lời nói dựa trên căn cơ để thành lập. Mọi người ai nấy đều có điều kiện [khác nhau], không thể cẩu thả. Thí dụ như việc ăn uống, [thức ăn vừa mua về] không thể ăn liền, phải nấu nướng, chuẩn bị đủ mọi thứ, ăn xong phải dọn dẹp đủ thứ. Lại c̣n cách thức ăn uống ở mỗi địa phương đều có nhiều cách thức khác nhau. Lư trong Phật pháp cũng như vậy. Trong câu “vạn tu, vạn người đi”, chữ Tu nghĩa là ǵ? Tu như thế nào? Trước hết phải t́m hiểu, chứ không phải lần chuỗi, miệng niệm khơi khơi bèn gọi là tu. C̣n nếu không tu th́ làm sao văng sanh được? C̣n nói “mười niệm văng sanh”, chúng ta niệm Phật đă niệm hết hai mươi lăm năm rồi, đừng nói chỉ có mười niệm, mười vạn niệm cũng chẳng phải là quá đáng. Nếu những niệm đó đều hư dối, chẳng chân thật, tới lúc lâm chung sẽ rất nguy hiểm! Trong mười vạn niệm ấy, chưa từng có một niệm đạt được nhất tâm bất loạn. C̣n trợ niệm văng sanh được coi là bảo hiểm cuối cùng. Trợ niệm nhằm mục đích giúp cho người sắp mất giữ được chánh niệm. Lúc lâm chung, tứ đại phân tán giống như gió, như dao cắt thịt, đau đớn vô cùng, lúc đó rất dễ đánh mất chánh niệm. Nếu có người nhắc nhở và người sắp lâm chung có thể chấp tŕ danh hiệu th́ trợ niệm như vậy mới có hiệu quả. Nếu chỉ có người đến trợ niệm niệm Phật, c̣n người sắp lâm chung chẳng chịu niệm th́ cũng không thể văng sanh. Do đó mới biết bất luận tông phái nào đều cần phải “Giải Hành tương ứng” (hiểu và hành đi đôi), đối với Lư có thể hiểu rơ, đối với Sự có thể tu hành chân thật. Giải có thể dẫn dắt Hành (sự tu hành), Hành có thể chứng minh cho Giải. Như vậy th́ mới không đến nỗi tu mù luyện đui, rơi vào hầm lửa, chư vị phải dụng công căn cứ vào những điều nói trên.

 

      * Gặp cảnh chế ngự phiền năo

 

      Chư vị niệm Phật ở đây, cầu được nhất tâm bất loạn, tại sao mong cầu đă lâu mà chưa đạt được? V́ chính ḿnh không thể làm chủ được. Tại sao vậy? V́ chưa minh tâm kiến tánh. Nếu chân tâm bản tánh có thể làm chủ th́ sẽ được tự tại, sẽ được nhất tâm bất loạn lâu dài. Nếu tâm vô cùng rối loạn,  mà muốn liễu sanh tử, muốn thoát ra khỏi luân hồi là điều không thể được! Nếu vậy th́ không có kế sách nào để có thể làm hay sao? Có chứ, nhất định phải noi theo Phật pháp. Thí dụ như bệnh tật, người bị bệnh phải tự biết ḿnh bị bệnh, phải nghe lời bác sĩ mà uống thuốc. Nếu chỉ nghe qua loa, nhưng không chịu uống thuốc, làm sao lành bệnh cho được? Do vậy, biết muốn đạt được quả “nhất tâm bất loạn” th́ phải trồng nhân “tịnh niệm tiếp nối”. Nhưng người tại gia chúng ta phải làm việc để kiếm sống nên không thể chẳng bị nhiều việc trong đời sống trói buộc, vậy th́ phải làm sao để tịnh niệm có thể tiếp nối? Trừ lúc làm việc của chính ḿnh phải tận tâm làm tṛn trách nhiệm ra, đối với tài sắc, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ, hết thảy đều chẳng quan tâm, để ư tới! Ư chí đều đặt nặng nơi sự liễu sanh tử, c̣n rảnh rỗi đâu nữa để quan tâm tới những thứ ấy? Nếu cả ngày đều chú tâm những việc đó, không chỉ chẳng liễu sanh tử nổi, e rằng c̣n tăng thêm rất nhiều hạt giống sanh tử nữa.

      Tu hành có chánh công phu và trợ công phu. Chúng ta không thể niệm Phật cả ngày. Người có thể niệm Phật suốt ngày th́ chánh công phu là niệm Phật, trợ công phu cũng là niệm Phật. Đó là lời của tổ Ngẫu Ích dạy. Nhưng niệm Phật phải có đầy đủ thiện căn, phước đức. C̣n nếu không thể [niệm Phật suốt ngày] th́ chánh công phu là niệm Phật, mỗi ngày công khóa cố định chớ nên thiếu sót. Lúc nào không cần phải dùng trí óc, không cần phải dùng tâm trí th́ nên khởi lên câu niệm Phật; c̣n trợ công phu là ǵ? Chính là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo và Sáu Ba La Mật . Những ǵ chúng ta làm hằng ngày tuy rất phức tạp, nhưng nếu dùng tâm khéo léo chuyển biến sẽ đều có thành trợ đạo, tùy thuộc chúng ta dụng tâm như thế nào mà thôi. Thí dụ như tôi dạy học nơi đây, nếu chưa từng dụng tâm hướng về Bồ Đề th́ chỉ đơn thuần là dạy học mà thôi. Nếu nghĩ đó là bố thí th́ dạy học cũng có thể gọi là trợ đạo. Hơn nữa, chúng ta phải luyện tập công phu trong các sự việc đầy dẫy phiền năo hằng ngày. Có câu “tâm vốn chẳng sanh, do cảnh mới có”, nếu cảnh không khởi lên, làm sao có thể khởi tham, khởi sân? Khi cảnh giới xuất hiện, tâm chúng ta luôn luôn bị cảnh giới chuyển. Cái gọi là “tu hành” chính là mỗi khi dấy khởi tâm niệm, liền lập tức cảnh giác, chẳng để cảnh giới xoay chuyển. Cổ đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm’, mỗi khi khởi tâm tham, tâm sân giận, tự tâm có thể cảnh giác, người niệm Phật chúng ta, lúc tâm biết chính ḿnh đang khởi tham sân, hăy mau niệm danh hiệu Phật để đè nén chúng, đó gọi là “chế ngự phiền năo”. Chế ngự phiền năo chính là lúc đang làm những việc đầy dẫy phiền năo trong xă hội, lúc cảnh giới vui, buồn, sân hận khởi lên, mà có thể đè nén những tâm niệm sân giận ấy, đó chính là công phu. Công phu tức là trong lúc khởi phiền năo có thể chuyển đổi nó thành Bồ Đề. Chế ngự phiền năo là đè nén những tâm niệm phiền hoặc này, không cho nó tiếp tục khơi dậy.

 

      * Tin sâu nhân quả.

 

      Kế đó là nói về nhân quả. Trước khi nói về nhân quả, phải nói về “niệm đầu” (ư niệm). Xin hỏi quư vị tại sao chúng ta có phiền năo? Tại sao lại có thiện tâm? V́ hết thảy đều do có ‘niệm đầu’. Tâm niệm dấy khởi th́ vạn pháp sanh, tâm niệm diệt th́ vạn pháp diệt. Vạn pháp do tâm tạo, vạn pháp sanh diệt đều do những tâm niệm sanh diệt. Niệm đầu là ǵ? Niệm đầu tức là nhân duyên, lư của nhân quả ở tại “vạn pháp do nhân duyên sanh”. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta có quá nhiều mê hoặc, điên đảo, trong tám thức điền chứa đầy hạt giống của vạn pháp. Tuy kinh dạy “phàm hết thảy những ǵ có tướng đều là hư vọng”, nhưng phàm phu vô tri, chấp tướng, chẳng biết nó là vọng, do đó, sum la vạn tượng, sáu trần cảnh do sáu căn làm môi giới, tâm tiếp xúc sáu trần cảnh ấy sẽ phát sanh ra các thứ liền tạo thành ấn tượng. Ấn tượng chính là hạt giống, đó là nhân. Những hạt giống này có thể hun đúc những hạt giống khác khởi lên, tạo thành duyên, đó gọi là Thân Nhân Duyên. Nói tóm lại “tướng huân” của hạt giống có thể chia thành hai:

      - Một là “tự loại tướng huân” tức là chủng tử này sanh ra chủng tử khác, khi chủng tử này hiện hành lại khiến cho chủng tử khác cũng hiện hành (“hiện hành” có nghĩa là chủng tử kết quả, tức nhân kết quả, quả ấy lại tạo thành duyên cho quả của nhân khác phát sanh, chín muồi), đó là nhân quả chẳng đồng thời.

      - Hai là “dị loại tướng huân”, tức là khi chủng tử hiện hành, th́ sự hiện hành ấy lại huân tập thành chủng tử, đó là nhân quả đồng thời (Gọi là đồng thời v́ nhân tạo thành quả, quả ấy lại là nhân cho quả trong tương lai, tức là quả là quả của cái nhân này, nhưng quả lại chính là cái nhân của quả khác trong tương lai). Đó là Lư của hạt giống và hiện hành huân tập. Do đó định luật nhân quả -- lúc hạt giống sanh khởi hiện hành, hạt giống là nhân, hiện hành là quả. Lúc hiện hành hun đúc hạt giống th́ hiện hành là nhân, hạt giống là quả. Tất cả đều ở trong tâm địa của chúng ta, chẳng cần phải đi đâu t́m nhân duyên, bất cứ lúc nào nhân duyên đều có thể đưa đến, hiểu được như vậy th́ chuyện này có đáng sợ hay không? Nếu chúng ta có thể giữ cho tâm ḿnh chẳng chấp trước tất cả pháp th́ sẽ không tạo hạt giống nghiệp nữa, nhưng chuyện này đâu phải dễ? Do đó sanh tử luân hồi vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Vậy th́ phải làm sao? Đáp: chỉ có niệm Phật, làm cho tịnh niệm tiếp nối.

V́ ư niệm đều do những thứ cùng loại dẫn dắt, nếu có thể niệm Phật đến mức thành phiến, một phiến Phật hiệu này liên tục chẳng dứt, câu sau nối tiếp câu trước. “Nam-mô A Di Đà Phật’, chữ Phật vừa dứt th́ chữ Nam liền khởi lên, chẳng để cho có mảy may nào gián đoạn. Chỉ có tâm niệm Phật này khởi lên, chẳng có niệm nào khác dấy khởi, Kiến Tư Hoặc không do đâu mà dấy khởi, những tâm tham - sân - si cũng mất biệt th́ làm ǵ có sát, đạo, dâm, vọng từ nơi thân khẩu. Ngược lại, khi niệm tham sân vừa khởi, dù thân khẩu không tạo tác, nhưng vừa khởi tâm niệm, pháp trần bên trong liền bị nhiễm ô, làm sao thoát luân hồi cho được? Do đó, nghiên cứu lư luận nhân quả mới niệm Phật tốt đẹp, mới tu tập từ nơi khởi tâm động niệm, đó là làm cho những ǵ chưa sanh sẽ không sanh.

 

      * Trực hạ thừa đương (Dám gánh vác ngay trong giây phút đó)

 

      Lúc niệm Phật, tuy không hiểu Lư, nếu chịu khởi ḷng tin vững chắc và phát nguyện tha thiết, công phu cũng không nhỏ, toàn Sự là Lư. Sự là ǵ? Thí dụ như những sự trang nghiêm của cơi Cực Lạc là do A Di Đà Phật muốn nhiếp thọ chúng sanh nên Ngài mới từ bi biến hiện ra. Sự là những việc trang nghiêm, c̣n chỗ cực kỳ thâm diệu chính là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, chân không huyền diệu là Lư. Do đó, có người châm biếm cơi Cực Lạc là bánh vẽ, là hóa thành, nhưng hóa thành này cũng có sự thọ dụng thật sự. Chư vị chỉ cần có thể chấp tŕ câu danh hiệu A Di Đà Phật này, Phật hiệu bắt đầu từ tâm, phát ra nơi miệng, âm thanh lọt vào tai, trở lại vào tâm th́ sẽ tương ứng. Người niệm Phật [phải biết] cái túi da hôi thối này chẳng phải là ḿnh, tấm thân do tứ đại ḥa hợp này chẳng phải là ḿnh, tâm mới là ḿnh, tâm tức là ḿnh, ḿnh tức là tâm; tâm niệm Phật, tâm tức là Phật, Phật tức là ḿnh. Lúc chúng ta niệm Phật, dám gánh vác[12] trong giây phút đó, chẳng hư dối, chẳng khiếp đảm. A Di Đà Phật chính là ḿnh, nay ḿnh niệm Phật, là A Di Đà Phật đang niệm Phật, tự niệm tự Phật, niệm Phật tự tánh, công đức đó rất lớn! Nếu ḿnh là A Di Đà Phật th́ không thể chẳng tin nhân quả, phải tự hỏi có vị Phật nào làm việc giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối hay chăng? Thử nghĩ ḿnh là A Di Đà Phật, thân sắc vàng ṛng, làm sao có thể làm những việc giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối? Nếu thật sự có thể quán tưởng như vậy, cho dù không hiểu được lư lẽ, tu hành vẫn được lợi ích to lớn.

      Những ǵ nói trên đây có ba điểm chính: Thứ nhất là gặp cảnh chế ngự phiền năo, thứ nh́ là tin sâu nhân quả, thứ ba là gánh vác tới cùng. Gặp cảnh chế ngự phiền năo, gột rửa những hạt giống xấu ác từ trước làm cho thanh tịnh; tin sâu nhân quả, rải hạt giống tốt nhưng không hưởng thụ [phước báo]; gánh vác tới cùng là phương tiện để làm cho Sự Lư viên măn. Nếu có thể làm được ba điểm này th́ lo ǵ không đạt được nhất tâm bất loạn, lo ǵ không văng sanh thế giới Cực Lạc!

      Hôm nay chẳng nói dài ḍng, xin quư vị bố thí cho tôi ḷng hoan hỷ. Bố thí hoan hỷ chính là bố thí vô úy vậy!

 

IX. Khai thị tại Phật thất chùa Linh Sơn năm Ất Măo

(đệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)

 

      H́nh cảnh thập cá thường cân tùy,

      Tiền đầu khiên dẫn hậu diện thôi.

      Thành tâm niệm Phật xung tha tán,          

      Lục tự đ́nh thời tha hựu hồi.

      (Mười tên cảnh sát thường theo sau,

      Phía trước lôi kéo phía sau đẩy

      Thành tâm niệm Phật, đuổi họ mất

      Khi sáu chữ ngưng, họ lại về)

 

      Chư vị lăo sư, chư vị đồng tu:

      Thời gian vô cùng quư báu, [hôm nay tôi] sẽ nói sơ lược những điểm chính yếu với quư vị, chỉ cần mọi người nghe hiểu, tin tưởng, và ghi nhớ được th́ rất tốt. Nói về đề tài ǵ? Về sự phân biệt giữa học Phật và không học Phật.

 

      * Phân biệt giữa học Phật và không học Phật

     

      Phần đông người không học Phật đều mê hoặc, điên đảo, dĩ nhiên cũng rất đáng thương. Tại sao nói như vậy? V́ muốn giác ngộ th́ phải đi học, khi hấp thụ được nền giáo dục hoàn hảo th́ mới có thể giác ngộ. Nếu không cần học vấn ǵ cả mà có thể giác ngộ, đúng là rất hiếm. Chúng ta đă có cơ hội học Phật, vả lại, đă học rất nhiều năm, chắc có lẽ cũng có giác ngộ đôi chút. Nếu chẳng giác ngộ ǵ hết th́ chẳng phải cũng đáng thương như những người chưa học Phật hay sao?

      Không giác ngộ có ǵ xấu? Giác ngộ có ǵ tốt? Người không giác ngộ th́ hiện tại chẳng có cách nào! Không chỉ hiện tại không tốt, mà tương lai sẽ c̣n tệ hơn bây giờ. Hiện thời chưa tạo nhân lành, trong tương lai chuyện xấu c̣n nhiều hơn nữa. Nếu là người giác ngộ, bất kể hoàn cảnh hiện thời như thế nào, tuy khó tránh được tám nỗi khổ của đời người, nhưng nhờ có giác ngộ nên biết đó là quả báo do chính ḿnh đă tạo từ đời trước, dẫu chịu khổ vẫn chẳng oán trời trách người. Nhờ giác ngộ nên biết cách giải quyết nỗi khổ trước mắt, có thể vun trồng thiện căn, phước đức cho tương lai, mong cầu sau này được giải thoát. Đó là sự khác biệt giữa giác ngộ và không giác ngộ, đều là ở điểm này cả.

      Người không học Phật chẳng biết, phàm những người tin Phật và biết học Phật, chỉ cần gặp mặt nói chuyện với nhau th́ liền biết người này có giác ngộ hay không. Trong một vạn người không học Phật, có đến chín ngàn chín trăm mấy cách suy nghĩ, nhưng cái nh́n đối với ba đời th́ đều không ngoài ba loại. Những người nghiên cứu tâm lư học đều biết, đó là nghĩ tưởng về những việc tốt đẹp hồi trước -- nuối tiếc quá khứ; phần đông đều than van bây giờ không bằng lúc trước -- bất măn đối với hiện tại; mong muốn tương lai chuyển biến tốt đẹp hơn bây giờ -- hy vọng tương lai. Ba cách suy tưởng của người b́nh thường là nuối tiếc quá khứ, bất măn hiện tại, và hy vọng tương lai đều là mê hoặc, điên đảo, nếu có cách suy nghĩ như vậy th́ không thể khai ngộ được.

      Cách nh́n như vậy đều cho rằng hiện giờ không bằng lúc trước, hy vọng tương lai tốt hơn bây giờ. Nhưng trải qua một thời gian sau th́ lại nuối tiếc những việc tốt bây giờ và bất măn đối với những ǵ đă hy vọng trong tương lai. Do đây có thể biết: Càng về sau càng chẳng bằng lúc trước, ngày càng tệ hơn, đây là lời chân thật. Nếu hy vọng tương lai có thể hưởng phước tức là mê hoặc, điên đảo. Hôm nay [tôi sẽ] tŕnh bày những ǵ trong kinh đă nói, người đă nghe kinh sẽ hiểu được, mà người chưa nghe kinh cũng có thể nói đă biết việc này, có thể hiểu được t́nh huống ngày càng tệ này th́ hăy mau siêng năng tinh tấn niệm Phật.

 

      * Trạng huống thực trong tương lai

     

      Bây giờ tôi sẽ nêu vài thí dụ trước, rồi sau mới nói đến kinh văn. Vạn pháp trong thế gian đều vô thường. Thí dụ như bốn mùa trong một năm, mùa Xuân và Hạ c̣n rất tốt, mùa Thu và Đông tệ hơn. Một năm như vậy, mà trăm ngàn năm cũng vậy, chỉ có điều ngày càng tệ hơn! Trong kinh Phật nói rơ: Thọ mạng con người bắt đầu từ lúc mười tuổi, mỗi một trăm năm tăng thêm một tuổi, cứ thế tăng măi đến lúc tám vạn tuổi (nói số chẵn cho dễ nhớ), đây gọi là Kiếp Tăng. Trong Kiếp Tăng th́ thọ mạng và phước báo của con người ngày càng tăng trưởng, đấy là lẽ tự nhiên. Đến lúc tám vạn tuổi trở về sau, mỗi một trăm năm lại giảm một tuổi, giảm măi đến lúc tuổi thọ con người chỉ c̣n mười tuổi th́ thôi, đây là Kiếp Giảm. Trong Kiếp Giảm, thọ mạng và phước báo của con người cũng giảm theo. Giảm đến lúc mười tuổi, có thể nói là lúc xấu đến cùng cực. Chúng ta hiện nay đang trong Kiếp Giảm, đang lúc tuổi thọ con người giảm đến một trăm tuổi. Từ tám vạn tuổi giảm xuống một trăm tuổi, t́nh huống ngày càng tệ hơn. Mọi người hăy xem lịch sử Trung Quốc th́ biết. T́nh h́nh thời Hiên Viên Hoàng Đế hoàn toàn khác với t́nh h́nh hiện nay. Không bàn chuyện xa xôi, chỉ bàn về chuyện ở Đài Loan trong hai mươi mấy năm nay th́ cũng vậy. Mỗi năm đều chẳng bằng năm trước, hiện nay bề ngoài dường như ngày càng giàu có, hoa lệ, nhưng những vật sanh trưởng tự nhiên ngày càng ít, những vật nhân tạo ngày càng nhiều. Những vật chưng diện bên ngoài phần nhiều đều tạo thêm phiền năo, ngũ dục, lục trần, có ǵ tốt đẹp đâu nhỉ? Phần nhiều các thức ăn hiện nay đều giảm bớt thọ mạng của con người, phần nhiều đều dùng chất hóa học, ăn vào sẽ sanh bệnh, sanh ung thư. Hiện nay, ngay cả bánh chiên dầu cũng có thêm Amonia, nước uống cũng có chất tẩy. Người ta chẳng thể không ăn cơm, không uống nước. Mọi người hăy thử suy nghĩ kỹ, hiện thời tuổi thọ trung b́nh của con người là một trăm tuổi mà c̣n như vậy, từ nay về sau chỉ có ngày càng tệ hơn mà thôi! Sau chín ngàn năm, tuổi thọ sẽ giảm chỉ c̣n mười tuổi sẽ xấu ác đến cùng cực, sau đó, cứ một trăm năm sẽ tăng lên một tuổi trở lại. Thật sự muốn hưởng phước th́ phải đợi đến lúc tuổi thọ tăng đến hai vạn tuổi, lúc bấy giờ mới thực sự hưởng phước, vậy th́ c̣n lâu lắm! Những ǵ nói trên đây đều dựa theo kinh Phật, những ǵ không có trong kinh, tôi chẳng dám nói bừa, nếu không, sẽ đọa địa ngục. Cho nên nếu mọi người muốn hưởng phước trong tương lai, phải ráng chờ đợi cho qua khoảng thời gian dài đăng đẳng này!

      Từ đây về sau sẽ có rất nhiều tai họa, người học Phật đều biết sẽ có đại tam tai, hỏa tai, thủy tai, phong tai. Lúc đại tam tai xảy ra, ngay cả hai mươi tám tầng trời cũng phải bị hủy diệt. Trong khoảng thời gian trước khi đại tam tai xảy ra sẽ có tiểu tam tai. Nguyên nhân chánh yếu tạo nên tam tai là do tâm con người. Trong Kiếp Tăng, tâm người hướng thiện, đạo đức ngày càng tăng trưởng. Trong Kiếp Giảm, nhân tâm và đạo đức ngày càng suy sụp. Người chưa học Phật chẳng cần phải nói, nhưng người đă học Phật cũng bao gồm trong ấy. Nếu tâm không tốt th́ sau này làm thế nào mới văng sanh được? Không chỉ chẳng thể văng sanh, mà trong tương lai muốn ĺa đời một cách an lành cũng chẳng dễ. Người ngoại quốc cũng chẳng phải là ngoại lệ, ai cũng sẽ gặp phải tai kiếp, tất cả đều do nhân tâm tạo nên. Hiện tại không tốt, sau này sẽ càng ngày càng tệ hơn!

 

      * Nhân tâm xấu ác trong Kiếp Giảm.

 

      Nói tóm lại, căn nguyên của hết thảy xấu tốt đều do tâm con người tạo nên, tâm ấy là tâm tham, sân, si. Trong kinh đă nói rơ: Nếu có tâm tham th́ sẽ chiêu cảm nạn đói kém, vật dùng và thức ăn ngày càng ít. Có tâm sân hận sẽ sanh ra kiếp đao binh, xảy ra chiến tranh. Ngày xưa dùng đao kiếm, một đao chỉ chém bị thương một người, ngày nay có súng ống, súng đại bác, vừa bắn một tràng bèn có thể giết hàng chục người. Độc hại hơn nữa là bom nguyên tử, ngày nay rất nhiều quốc gia trên thế giới đều có; một khi chiến tranh bộc phát, số người chết sẽ không thể nào tính nổi, như trái bom nguyên tử thả ở Nhật trong thế chiến thứ hai làm chết hàng trăm ngàn người. Ngày nay, sức tàn phá của bom hạt nhân so với bom nguyên tử c̣n lớn hơn nhiều, tai hại của kiếp đao binh này đều do tâm sân hận gây nên.

      Nói tiếp về si, tâm ngu si tạo nên tật bệnh. Ngày xưa chẳng có những bệnh kỳ quái như hiện nay. Ngày xưa chỉ cần dùng những cây thuốc thông thường đều có thể trị nhiều bệnh. Hiện nay phần nhiều đều là bệnh ung thư, mang bệnh này rồi th́ chẳng có thuốc hay ǵ để chữa. Sau này, những bệnh kỳ quái sẽ ngày càng nhiều. Những thứ này đều do nhân tâm tạo nên, tâm tham tạo nên nạn đói kém, tâm sân hận gây ra kiếp đao binh, tâm ngu si tạo nên những bệnh quái lạ, đây là tiểu tam tai. Do đó, mọi người đừng tưởng tương lai sẽ tốt đẹp hơn, thực sự là tương lai sẽ tệ hơn bây giờ rất nhiều.

      Những sự việc vừa nói trên đây đều là nỗi khổ con người phải chịu đựng trong đời sống. Con người sau khi chết th́ đối với những tội nghiệp đă tạo ra khi chết sẽ như thế nào? Có người nói: “Chết rồi là hết chuyện!” Chẳng đơn giản như vậy đâu nhé! Sau khi đă chết, vẫn c̣n linh hồn, vẫn c̣n luân hồi, ngày nay tạo nhân ǵ, tương lai sẽ hứng chịu quả báo đó. V́ vậy, mọi người phải nên niệm Phật, chế ngự phiền năo (chế ngự phiền năo), đừng tạo nghiệp thêm nữa!

 

      * Phương pháp niệm Phật chế ngự phiền năo

 

      Hôm nay tôi nói với quư vị về phương pháp Phục Hoặc (chế ngự phiền năo). Trong kinh nói đến mười thứ Hoặc, đó là Kiến Hoặc: Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến. Tư Hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi. Kiến Hoặc có tám mươi tám Sử, Tư Hoặc có tám mươi mốt phẩm, đoạn một phẩm cũng chẳng dễ. Mười thứ Hoặc này được gọi là Thập Sử cũng giống như “h́nh cảnh” (công an mật vụ) ngày nay, ngày đêm theo dơi, coi chúng ta tạo nghiệp, kéo chúng ta vào luân hồi chịu khổ.

      Một phen rơi vào luân hồi mà muốn được thân người trở lại, trong hàng vạn người khó được một kẻ! Phần đông đều đọa vào ba đường ác chịu khổ, nên vừa nghĩ đến tương lai phải chịu khổ đúng là rất đáng sợ. Hiện nay, nếu bom nguyên tử rớt xuống đây, con người chết liền tức khắc, sau đó đọa vào ba đường ác, đọa địa ngục. Lúc chịu khổ, mong đến ngày thoát khỏi chẳng biết đến bao giờ, đau đớn không thể nào diễn tả nổi, cái khổ này lớn gấp ngàn vạn lần nỗi khổ của con người hiện nay. Người chưa học Phật cả ngày rượu chè trác táng, tạo nghiệp mù mịt, tương lai nhất định sẽ đọa vào ba đường ác chịu khổ, trong kinh gọi là Lưu Chuyển Môn. Nghĩa là nếu chúng sanh chẳng giác ngộ, cứ tạo nghiệp măi, nhất định sẽ như ḍng nước chảy xuôi, chảy ngay vào tam đồ chịu khổ. Ngược lại, nếu có thể giác ngộ th́ sẽ không tạo nghiệp, có thể dừng lại, chảy ngược ḍng trở lại, có thể giải thoát, ĺa khổ được vui.

      Người không học Phật tạo nghiệp thọ khổ, lẽ đương nhiên rất đáng thương. Người học Phật đă được nghe pháp, nếu c̣n không tin, c̣n chẳng y giáo phụng hành, tương lai cũng sẽ luân hồi thọ khổ, vậy th́ có phiền phức lắm không, có trách ai được không? Nếu nói “[tôi] nghe chẳng hiểu”, tại Đài Trung trong ṿng hai mươi mấy năm nay mỗi tuần đều có giảng kinh, nếu quư vị c̣n chưa đi nghe giảng, mặc cho thời gian luống trôi, lăng phí cuộc đời, rốt cuộc có ích ǵ cho ḿnh? Phật Thất khi trước, mỗi ngày tôi đều đến nói chuyện, hiện nay chỉ có thể đến hai lần, sau này đến một lần chắc cũng chẳng dễ. Dù đến nghe giảng mà nếu chẳng dụng tâm để nghe th́ cũng chẳng có ích ǵ, tại sao không thâu nhiếp tâm lại, lắng ḷng nghe giảng, cầu được giải thoát trong tương lai!

      Trong phần trước nói mười Hoặc giống như mười gă cảnh sát theo dơi chúng ta, coi chúng ta tạo nghiệp, kéo chúng ta vào ba đường ác. Thế nên chúng ta phải chế ngự phiền năo, làm cho chúng chẳng khởi tác dụng, làm thế nào để chế ngự phiền năo? Phật pháp không cần nhiều, quư ở nơi thực hành, tức là “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo thêm tai ương mới”. Chúng ta sanh trưởng trong hoàn cảnh xấu ác như hiện nay, chỉ có thể tùy duyên nhận chịu quả báo để tiêu nghiệp cũ. Đă biết phải tiêu nghiệp cũ th́ phải giác ngộ sửa sai, sửa mười nghiệp ác thành mười nghiệp thiện, luôn luôn “giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt”, như vậy th́ mới có thể tiêu nghiệp cũ.

      Lúc tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi khởi lên, lập tức dùng câu Phật hiệu đè nén chúng, khiến cho ác niệm ấy chẳng khởi. Được như vậy th́ mới mong tương lai được giải thoát; nếu không, bom nguyên tử ở trước mắt cũng chẳng tránh khỏi. Trong kinh có nói: “Có chung cộng nghiệp th́ thọ chung nghiệp báo”. Chúng ta cùng sống trong thời đại ngày nay th́ chắc chắn ai cũng sẽ hứng chịu nguy cơ này, nếu chúng ta có thể y giáo phụng hành “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo thêm tai ương mới” và “giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt”, tuy cùng ở trong hoàn cảnh xấu ác do cộng nghiệp cảm thành, nhưng sẽ không phải chịu quả báo của cộng nghiệp ấy. Cho dù nghiệp báo hiện tiền, chúng ta cũng sẽ chuyển biến, sẽ chẳng thọ chung nghiệp báo, trước mắt là có thể thoát khỏi nỗi khổ bom nguyên tử, tương lai có thể văng sanh Tây Phương. V́ chúng ta có thể sửa đổi th́ [những tai ương ấy] sẽ chẳng nằm trong kiếp số, trong tương  lai nhất định có thể giải thoát.

      V́ vậy, chế ngự phiền năo là việc chúng ta nhất định phải làm, phải nghĩ tham, sân, si, mạn, nghi như Ma, lúc những tâm niệm ấy vừa khởi, lập tức dùng câu Phật hiệu để đè nén chúng. Nhưng Ma cũng có sức mạnh, càng đè sẽ càng khó, nên chúng ta cần trợ lực. Làm mười nghiệp thiện tức là trợ lực cho công phu niệm Phật. Nếu làm mười nghiệp ác tức là tăng thêm sức lực cho Ma con, Ma cháu. Vừa làm nhiều việc thiện vừa niệm Phật, sẽ chẳng sợ Ma.

      Khi ta vừa khởi lên một vọng niệm liền lập tức dùng mười câu Phật hiệu đè nén nó. Do đó: “Một vọng niệm khởi liền dùng mười câu Phật hiệu, vọng niệm chẳng [thể chống cự] nhiều Phật hiệu”. Mọi người có thể về nhà thí nghiệm. Thí dụ như lấy đậu đen tượng trưng cho vọng niệm, lấy đậu nành tượng trưng cho câu niệm Phật. Vừa khởi vọng niệm bèn lấy một hạt đậu đen [bỏ vào hộp], sau đó liền lấy mười hột đậu nành đè nén và bỏ mười hột đậu nành [vào hộp. Mười hột đầu nành này sẽ che kín hột đậu đen]. Dụng công như vậy lâu ngày chầy tháng, đậu nành sẽ nhiều, đậu đen sẽ ít, có thể đè nén vọng niệm, đó là phương pháp chế ngự phiền năo.

      Dùng đậu đen tượng trưng cho vọng niệm và đậu nành tượng trưng cho Phật hiệu. Dụng công lâu dài th́ Phật hiệu nhiều, vọng niệm ít, giống như đậu nành nhiều, đậu đen ít. Chúng ta tùy tiện quơ một cái, cơ hội nắm được đậu nành lớn, cơ hội nắm được đậu đen sẽ rất nhỏ. Giống như lúc lâm chung, những hạt giống trộn lẫn trong thức điền thứ tám, những hạt giống vọng niệm lộn xộn bị những hạt giống niệm Phật đè nén bao phủ v́ hạt giống niệm Phật nhiều hơn, vọng niệm khởi lên chẳng dễ, Phật hiệu khởi lên dễ hơn. Lúc hạt giống niệm Phật vừa khởi lên, chúng ta liền có thể nhờ vào sức Phật tiếp dẫn, đới nghiệp văng sanh, tu hành sẽ được thành công.

      Hôm nay, tôi nói về phương pháp chế ngự phiền năo này vô cùng quan trọng, nếu mọi người chẳng dụng tâm ghi nhớ, bây giờ tuổi tác của tôi đă lớn rồi, năm tới chẳng biết c̣n sống hay không. Dù c̣n sống, tôi có giảng thêm mười năm th́ cũng chỉ giảng những điều quan trọng về phương pháp niệm Phật chế ngự phiền năo này [mà thôi]. Hy vọng mọi người hăy siêng năng niệm Phật, ráng đè nén phiền năo, để có thể văng sanh. Nếu muốn đoạn dứt Hoặc th́ nói thành thật là ngày nay chẳng ai có thể làm được!

      Đoạn vừa nói được gọi là Hoàn Diệt Môn, môn này chẳng giống với Lưu Chuyển Môn ở phía trước. Hoàn Diệt Môn là không để cho nó lưu chuyển, có thể đè nén Hoặc, chẳng để mặc cho cơn sóng đẩy đưa, quay lại tự ḿnh làm chủ. Hiện thời là tiêu tai miễn nạn, trong tương lai bèn có thể văng sanh, sẽ được giải thoát.

      Sau cùng, nói thêm bài kệ để kết thúc:

      H́nh cảnh thập cá thường cân tùy (Mười tên cảnh sát thường theo sau): Bất cứ người nào cũng có vọng niệm, mười Hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi, giống như mười người cảnh sát luôn luôn theo sát chúng ta.

      Tiền đầu khiên dẫn hậu diện thôi (Phía trước lôi kéo phía sau đẩy): Ông cảnh sát ở phía trước kéo chúng ta vào ba đường ác chịu khổ, những người cảnh sát đi theo sau c̣n thúc hối chúng ta sao đi chậm vậy!

      Thành tâm niệm Phật xung tha tán (Thành tâm niệm Phật, đuổi họ mất): Chế ngự phiền năo cần phải chánh tu và trợ tu, niệm Phật là chánh hạnh. Thập thiện nghiệp là trợ hạnh giống như mười người hầu giúp đỡ công phu niệm Phật của chúng ta. Tuy mười người cảnh sát mật vụ theo sát, muốn đẩy chúng ta vào ba đường ác, nhưng chúng ta một mực niệm Phật với tâm chân thành, ư chân thành, đức Phật sẽ phóng kim quang phá tan, đuổi họ đi, họ chẳng thể theo sát chúng ta nữa.

      Lục tự đ́nh thời tha hựu hồi (Khi sáu chữ ngưng, họ lại về). Nhưng lúc chúng ta không chú tâm niệm Phật, sáu chữ hồng danh vừa ngưng lại, lập tức mười tên cảnh sát liền trở về, theo sát chúng ta, trói buộc chúng ta, đẩy chúng ta vào ba đường ác chịu khổ.

      Tôi nói tới đây là dứt lời, quan trọng nhất là mọi người phải niệm Phật cho đàng hoàng, thực nghiệm phương pháp chế ngự phiền năo. Người thượng căn dụng công trong Phật Thất có thể đè nén Hoặc, cho nên mọi người đừng nên khuấy nhiễu, chớ nên tùy ư đi tới đi lui, chớ nên nói chuyện xen tạp. Nếu không, sẽ nhiễu loạn tâm người hành đạo, tạo thêm tội nghiệp.

      Xin mời những người hộ thất nghiêm chỉnh chấp hành quy củ trong Phật thất để có thể thành tựu đạo nghiệp cho mọi người! Bây giờ bắt đầu niệm Phật, không thể vọng động nữa.

      Hăy cầu nhất tâm! Buông xuống vạn duyên! Một câu Di Đà! Niệm tới cùng!

 

X. Khai thị tại Phật Thất chùa Linh Sơn năm Quư Hợi

(đệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)

 

      Nhân thân bất dị đắc,

      Tam đồ chân khả phạ.

      Cực Lạc nhân nhân khứ,

      Tam độc tâm phóng hạ

      Niệm Phật bất cải tâm

      Đẳng như thuyết không ngữ   

      Tâm khẩu nhược tương ứng    

      Lập kiến Phật Bồ Tát

      (Thân người chẳng dễ được

      Tam đồ thật đáng sợ

      Cực Lạc người người đến

      Buông xuống tâm tam độc.

      Niệm Phật chẳng sửa tâm

      Cũng như nói suông thôi

      Nếu tâm miệng tương ứng

      Liền thấy Phật, Bồ Tát)

 

      Chư vị lăo sư, chư vị đồng tu:

      Hôm nay chùa Linh Sơn tổ chức mừng Thánh Đản đức Phật A Di Đà, bắt đầu đả Phật Thất. Bản thân tôi mỗi năm đều đến đây cùng quư vị nói vài lời, không dám nói là giảng khai thị. Hai chữ Khai Thị này bản thân tôi gánh vác không nổi. Tôi đă nói chuyện ở đây ba chục năm, lúc trước trong Phật Thất đều đến nói chuyện ba bốn lần, sau đó cảm thấy quá phức tạp nên chỉ nói hai lần, đến bây giờ bận quá nhiều chuyện nên chỉ nói một lần, trước tiên xin thanh minh chuyện này.

      Nói chuyện trong Phật Thất và giảng kinh khác nhau, chẳng nói đạo lư, mà chuyên nói về vấn đề quan trọng là làm thế nào để đạt được nhất tâm bất loạn. Những lời nói trong ṿng ba mươi năm nay đều chẳng giống nhau, có thể nói là đă đem những điều quan trọng nói hết trơn rồi. Đây là v́ bản thân tôi chẳng có học vấn. Nếu là người có học vấn, dù chuyên nói về một pháp môn nói thêm ba mươi năm nữa cũng chẳng hết.

      Đối với pháp môn Tịnh Độ, trong những năm gần đây cũng chẳng tránh có chỗ nói huyền thuyết diệu. Tại Đài Trung trong ba mươi năm qua, tôi đă giảng kinh không gián đoạn, c̣n giảng các kinh lớn, chư vị đồng tu cũng thường nghe kinh, nghe về pháp môn Tịnh Độ chẳng ít, giáo lư cũng nghe chẳng ít, đáng lẽ chư vị phải có thành tựu mới đúng. Nhưng xem lại trong ṿng ba mươi năm, mười năm sau chẳng sánh bằng mười năm trước, mười năm trước lại chẳng bằng mười năm đầu, có thể nói là càng ngày càng tụt lùi, đến hôm nay th́ càng không lạc quan cho lắm. Hôm nay tôi nói chuyện xin quư vị thứ lỗi! Chư vị đến đây là mong đạt được nhất tâm bất loạn, nếu người đến nói chuyện chỉ nói những lời khách sáo, tâng bốc mọi người th́ chẳng có ích lợi ǵ cho quư vị, chỉ có thể nói về lỗi lầm, sửa đổi lỗi lầm trở lại th́ mới thành công, tại sao vậy? V́ lúc trước hoàn cảnh học Phật đơn giản, hiện thời rất phức tạp, phức tạp như thế nào? Ở ngoại quốc, có nhiều người chưa hiểu chữ nghĩa là mấy  mà to gan làm càn, dám sửa kinh Phật, lại c̣n in cho người khác coi, mọi người vừa coi liền loạn lên, tâm loạn th́ làm sao đạt được nhất tâm? Chuyện này cũng chẳng trách người khác được! Họ nói lời xằng bậy gây rối loạn, chư vị đă nghe giảng những bộ kinh lớn và nghe khai thị trong Phật Thất, nếu chẳng thể phân biệt tà - chánh tức là chẳng có đủ ḷng tin đối với Phật. Kinh là do Phật nói ra, ai dám sửa đổi kinh? Văn Thù Bồ Tát cũng không dám sửa, sửa kinh là đại nghịch bất đạo, đó chẳng phải là đệ tử Phật.

      Pháp môn Tịnh Độ lấy văng sanh làm nguyên tắc [và mục đích], trong ṿng ba mươi năm qua, mười năm đầu có được vài người, lúc văng sanh hiện tướng rất tốt đẹp. Mười năm thứ hai th́ số người này ít đi, đến mười năm thứ ba hiện nay th́ chỉ có lác đác vài vị mà thôi, công phu đă chẳng khá lắm. Không những công phu tu hành [kém hơn trước] mà ngay đến làm người trong cuộc sống hằng ngày cũng kém cỏi. Tín đồ Phật giáo bất luận là xuất gia hay tại gia đều phải lấy Giới làm nền tảng. Trong Tam Học Giới -Định - Huệ, nếu chẳng coi trọng Giới th́ làm sao có thể thành công cho được? Vấn đề căn bản của việc học Phật là Giới. Nói đến chuyện này, hôm nay chẳng đàm huyền thuyết diệu, chỉ nói đôi lời về pháp môn Tịnh Độ.

      Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt. Tổ sư và kinh điển đều đă nói qua. Pháp môn Tịnh Độ là pháp khó tin, dễ thực hành, nếu tu pháp môn khác th́ phiền phức rất nhiều, nhất định phải đoạn Kiến Tư Hoặc. Người hiểu về Kiến Tư Hoặc đă rất ít, chỉ nói hiểu thôi mà c̣n chưa hiểu th́ làm sao đoạn nổi? Chẳng phải thành ra nói suông hay sao? Pháp môn Tịnh Độ chẳng cần đoạn Hoặc, nhưng xin mọi người đừng hiểu lầm, lời nói này chẳng dễ. Nếu quư vị có thể đoạn th́ rất tốt, đương nhiên sẽ là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Nếu chẳng thể đoạn Hoặc, ngay cả Hoặc cũng chẳng hiểu, bảo quư vị đoạn Hoặc chẳng phải là đă làm khó quư vị hay sao? Đây là một trong những điều khó tin.

      Điều “dễ hành” thứ hai là điều ǵ cũng chẳng cần biết, quư vị chỉ cần niệm Nam-mô A Di Đà Phật là sẽ thành công, nhưng quư vị lại chẳng chịu tin. Tam Tạng mười hai bộ, pháp môn nào cũng tốt, nếu chân đạp trên hai chiếc thuyền, khi thuyền vừa rời bến th́ quư vị rớt ngay xuống nước. Nếu quư vị đạp tới bốn chiếc thuyền cùng một lúc, sẽ chẳng đi đâu được! Đó là “dễ hành”. Những kẻ phàm phu lè tè sát đất như chúng ta chẳng tin câu nói này là chuyện đương nhiên! V́ ngay đến Bát Địa Bồ Tát c̣n chưa dám nói là đă tin, nhưng chúng ta phải gượng tin. Mỗi pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn được nói trong kinh đều có nhân, đều là pháp môn phương tiện, đúng như câu “phương tiện có nhiều cửa”, nhưng chỉ có cái nhân tu hành trong Tịnh Độ Tông là chẳng cần phương tiện. “Vạn pháp duy tâm, tâm niệm Phật, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm”, điều này vô cùng chính xác. Chúng ta niệm Phật chẳng qua là lấy tâm Phật làm tâm ḿnh. Trừ Phật ra bèn chẳng có ǵ khác, chỉ cần chuyên tâm là thành công, vô cùng đơn giản!

      Kinh A Di Đà có nói một câu quan trọng là niệm đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm là ǵ? Nếu trong tâm của quư vị ngoài A Di Đà Phật ra c̣n có Phật Dược Sư sẽ chẳng gọi là nhất tâm, mà gọi là “nhị tâm”, chẳng chuyên nhất. Người nhất tâm th́ trong ḷng trống trơn thanh tịnh, tức là chỉ có chuyện này. Niệm đến nhất tâm th́ quư vị mới văng sanh, chưa đạt đến nhất tâm sẽ không văng sanh. Nếu chư vị nói ngoài A Di Đà Phật ra th́ chư vị chẳng niệm ǵ khác có được hay không? Như vậy th́ tốt lắm, nhưng trong hai mươi bốn giờ, hăy tự xét xem thời gian niệm A Di Đà Phật được bao nhiêu? Nếu mỗi ngày có thể niệm Phật một giờ đồng hồ th́ cũng khá lắm rồi, hai mươi ba giờ đồng hồ c̣n lại th́ làm ǵ vậy?

      Chư vị lại nói: “Đâu có ai rảnh rỗi để suốt từ sáng đến tối đều niệm Phật!” Lời này không sai, chẳng bảo quư vị niệm một mạch như vậy! Trong kinh nói rất rơ: Có niệm Phật và cũng có nhớ (ức) Phật. Quư vị đều đă đọc  Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, niệm Phật và nhớ Phật có hai cách giải thích khác nhau. Niệm Phật là miệng và tâm đều niệm, Nhớ Phật th́ miệng có thể không niệm, nhưng tâm luôn tưởng nhớ, chẳng quên mất. Thí dụ trên tay tôi cầm cái khăn, tôi cầm cái khăn v́ ai? V́ A Di Đà Phật. Tại sao tôi uống nước? Cũng v́ A Di Đà Phật. Hết thảy mọi sự việc đều chẳng quên A Di Đà Phật, giữ chặt A Di Đà Phật trong tâm. Chuyện này có quá khó lắm không? Thật ra chẳng khó! Trong tâm mọi người đều chẳng quên ăn cơm, dù bận hay mệt đến đâu, dù chẳng đói, đến giờ ăn cũng phải ăn, chẳng bao giờ quên ăn cơm, nhưng lại quên niệm Phật! Nói tóm lại, bất luận việc ǵ cũng đều chẳng quên chính ḿnh muốn văng sanh Tây Phương, hết thảy đều v́ A Di Đà Phật. Như vậy th́ sẽ tịnh niệm tiếp nối, trong tâm mới không xen tạp thứ khác, như vậy th́ mới đạt được nhất tâm.

      Đạt được nhất tâm là công phu rất cao. Phải gạt bỏ hết những tâm niệm lộn xộn, loạn xạ, làm thế nào để gạt bỏ? Nói cho chư vị nghe thử. Phàm phu chúng ta dễ ǵ thấu hiểu Phật lư! Trong kinh nói nhất tâm có Lư nhất tâm và Sự nhất tâm. Lư nhất tâm là Thật Tướng Niệm Phật, chuyện này đa số  chẳng biết. Sự nhất tâm cũng khó biết. Ngay cả Lư nhất tâm và Sự nhất tâm quư vị đều chẳng biết th́ quư vị đạt được nhất tâm ở chỗ nào? Chỉ cần đạt tới Sự nhất tâm hoặc Lư nhất tâm th́ sẽ đoạn Hoặc, kinh Di Đà có nói chuyện này, nhưng phàm phu chúng ta không biết. Nếu chư vị đạt được nhất tâm sẽ chẳng khởi vọng tưởng nữa. Trong tâm quư vị nghĩ đông, nghĩ tây, nghĩ nhà nào tốt, nhà nào xấu, thị thị phi phi, khởi vọng tưởng là một căn bệnh rất trầm trọng. Nhà Thiền nói “một niệm chẳng khởi”, chẳng khởi vọng tưởng bèn sẽ thành công, đó là một câu nói tổng quát.

      Nhưng mọi người chẳng thể không khởi vọng tưởng, nói thật ra, mọi người công phu đều chưa đạt đến mức ấy. Có câu nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Chẳng sợ khởi vọng tưởng, vừa khởi vọng tưởng liền hỏi: “Tôi đă khởi vọng tưởng rồi, làm thế nào đây?”, phải mau chóng giác ngộ. Nếu có thể chế ngự phiền năo, đến lúc lâm chung được người khác trợ niệm mới có kết quả. Nếu quư vị chẳng biết chế ngự phiền năo, lúc lâm chung dẫu được người khác trợ niệm, nhưng chẳng nghe theo họ, công phu là phải tập luyện trong lúc thường ngày. Vừa biết ḿnh đă khởi vọng tưởng liền A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, đánh đuổi vọng tưởng đi, đó là “chế ngự phiền năo”.

      Nói đến đây, khởi vọng tưởng là lục đạo luân hồi, là hạt giống của ba đường ác. Nếu quư vị tin câu này, sẽ được lợi ích. Nếu quư vị không tin th́ cũng chẳng có cách chi khác, sự thật đă phơi bày rơ ràng như vậy. Thông thường, các vị đồng tu thường có một cái tật rất lớn, đó là thị thị phi phi, tranh danh đoạt lợi. Cho dù quư vị được xứng tâm vừa ư, đến lúc chết cũng không mang theo được! [Những ǵ] mang theo được chỉ là nghiệp tội, như vậy mà c̣n chưa hiểu thấu hay sao? [Đă biết như vậy tại sao c̣n không chịu buông xuống?] Cho nên cũng là niệm Phật quan trọng nhất.

      Niệm Phật nhằm mong đạt được nhất tâm, Phật Thất c̣n ba ngày nữa, bốn ngày trước tôi chẳng đến đây, tốt xấu ǵ tôi không biết. Hôm nay đến đây quan sát ít nhiều, tôi cũng biết đôi chút. Tôi đă giảng hơn ba mươi mấy năm tại Đài Loan, thời gian giảng ở Đại Lục tạm thời chẳng nhắc đến, tôi có thể nói ít nhất là đă giảng bảy mươi năm, có thể ít nhiều ǵ tôi cũng nh́n thấy chút đỉnh. Lúc trước người ta nói “lúc đả thất tại chùa Linh Sơn, khi một cây kim rớt xuống đất mọi người đều nghe rơ”, bây giờ c̣n có thể được như vậy không? Ở nhà th́ lôi Đông kéo Tây’, bàn chuyện nhà họ Trương tốt, nhà họ Lư xấu, cả ngày đều chỉ lăng xăng những chuyện này. Đến đạo tràng mà vẫn c̣n làm những chuyện như vậy, các bạn đến để nhất tâm niệm Phật hay là đến để kiếm chuyện? Như vậy th́ làm sao thành công cho được? Than ôi! Nói đến đây tôi kết thúc bằng một bài kệ, mọi người phải đạt nhất tâm. Nếu không đạt được nhất tâm, đến lúc mạng người kết thúc sẽ phải đọa vào ba đường ác đó nghe!

      Nhân thân bất dị đắc   (Thân người chẳng dễ được)

      Mọi cơi trong lục đạo đều có thể niệm Phật văng sanh, nhưng cơi người văng sanh dễ dàng nhất. Ngoài cơi người ra, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ sẽ khó hơn. Cơi trời cũng khó, vẫn chẳng bằng cơi người, v́ cơi trời hưởng phước quá lớn, trong ḷng họ chỉ nghĩ đến chuyện hưởng phước, cũng chẳng màng đến văng sanh Tây Phương làm chi! Do đó, chỉ có cơi người là dễ tu hành nhất. Câu đầu bài kệ liền nói ư này: “Thân người chẳng dễ được”. Câu này trong các kinh đều nhắc đến, chẳng phải chỉ có tôi nói như vậy mà thôi!  “Thân người khó được”: Trong kinh có thí dụ, từ trên đỉnh núi cao thả một sợi chỉ xuống, phía dưới chân núi đặt một cây kim. Thả sợi chỉ từ đỉnh núi xuống mà xỏ ngay vào cây kim ở chân núi, gió vừa thổi nhẹ th́ sợi chỉ này chẳng biết sẽ bay đến phương nào rồi! Đừng nói là chỉ có một sợi, dù có một ngàn sợi, mười ngàn sợi, có sợi nào may mắn xỏ trúng vào lỗ kim, xác suất xảy ra vô cùng khó khăn, thân người khó được cũng giống như vậy. Hiện thời, mọi người đều được thân người, phải nên quư trọng, v́ được thân người mới có cơ hội được nghe pháp môn niệm Phật, mới có cơ hội niệm Phật, mới có cơ hội được giải thoát.

      Tam đồ chân khả phạ  (tam đồ thật đáng sợ)

      Phải biết thân người khó được nhưng dễ mất, rất dễ hư hoại. Người Trung Quốc thích nói lời cát tường, lúc sanh con, ai nấy đều chúc mừng sống lâu trăm tuổi, nhưng rốt cuộc có mấy ai sống đến một trăm tuổi? Tuy ở Đài Loan có, nhưng rất hiếm. Tục ngữ nói: “Diêm Vương bắt bạn canh ba chết, bạn chẳng ở lại được đến sáng mai”. Trong kinh kể chuyện đức Phật hỏi đệ tử: “Mạng người dài bao lâu?” Có đệ tử trả lời: “Mạng người trong hơi thở”. Đức Phật nói: “Đúng lắm”. Hơi này thở ra, chưa chắc đă hít vào được, đúng là như vậy! Ai cũng không dám bảo đảm quư vị sẽ sống được bao lâu? Thân người mất rồi th́ sao? Mọi người hăy lắng nghe, muốn được thân người trở lại vô cùng khó khăn, không lấy được thân người trở lại th́ phải đi về đâu? Biến thành súc sanh, biến thành ngạ quỷ, đọa địa ngục. Đến ba cơi ấy, thọ mạng dài vô cùng. Địa ngục có tám vạn bốn ngàn năm, thời gian chịu khổ dài đăng đẳng, nếu sanh về đó, sự khổ không có ai chịu nổi. Nói cho các quư vị biết: Nếu chẳng dụng công niệm Phật, chớp mắt sẽ vào tam đồ, tam đồ rất đáng sợ!

      Cực Lạc nhân nhân khứ  (Cực Lạc người người đến)

      Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có dễ hay không? Trong kinh đă nói: “Vạn người tu, vạn người đến”, ai niệm đến nhất tâm bất loạn đều đến được, chẳng phải rất dễ hay sao? Nhưng phải ngay trong đời này, đời này đi không được th́ sẽ đọa vào tam đồ, thế là rồi đời! Hoàn toàn trong đời này, đến thế giới Cực Lạc bèn vĩnh viễn chẳng sanh chẳng diệt.

      Tam độc tâm phóng hạ (Buông xuống tâm tam độc)

      Đi đến thế giới Cực Lạc là tâm đi, tâm trống trơn thanh tịnh th́ mới tương ứng với A Di Đà Phật. Tâm không sạch, không tịnh giống như soi gương, tuy gương sáng nhưng bị vật che đậy nên không chiếu được (tức là không cảm ứng). Tam Độc là tham, sân, si. Người có tâm tham vừa nh́n vật ǵ liền muốn chiếm giữ, Tây Phương Cực Lạc thế giới đều do thất bảo trang nghiêm làm thành mà họ lại chẳng muốn. Chỉ thấy trước mắt, chỉ tham vật ở trước mắt. Phải mở rộng tầm mắt, tâm tham luyến Sa Bà phải buông xuống hết. Tâm sân hận độc hại nhất, người nào có lỗi với ḿnh? Cớ sao họ có lỗi với quư vị? Nếu họ không có lỗi với quư vị th́ quư vị đă văng sanh rồi phải không? Họ càng có lỗi với quư vị th́ càng tốt. Có lỗi với quư vị th́ quư vị sẽ  tránh xa họ, ít bận tâm hơn, quư vị tu phần của chính ḿnh mà thôi. Si là ngu si, tà tri, tà kiến. Nói nhân quả th́ quư vị chẳng chịu nghe, chỉ thấy danh lợi, chỉ thấy thị phi, những thứ này làm cho quư vị chẳng cảm ứng với A Di Đà Phật. Niệm Phật nhất định phải buông xả hết thảy tam độc tham, sân, si. Buông xả th́ tâm được thong dong, tự tại, cảm ứng đạo giao, mới về thế giới Cực Lạc được.

      Niệm Phật bất cải tâm,

      Đẳng như thuyết không ngữ

      (Niệm Phật mà chẳng sửa tâm,

      Khác nào chỉ  nói suông).

      Hai câu này hợp chung lại, mọi người lúc b́nh thường chẳng chuyên tâm niệm Phật, đến đạo tràng này vẫn nói chuyện thị phi, vẫn lộn xộn; đạo tràng là nơi để quư vị cầu đắc nhất tâm. Nếu ở đây cũng chẳng nhất tâm niệm Phật th́ ở nhà khỏi nói cũng biết rồi. Bởi vậy, “niệm Phật chẳng sửa tâm, khác nào chỉ nói suông”. Nếu chẳng sửa tâm, miệng niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là lừa dối Phật, có ích ǵ đâu? Như vậy cũng giống như nói suông mà thôi!

      Tâm khẩu nhược tương ưng    

      Lập kiến Phật Bồ Tát  

      (Nếu tâm miệng tương ứng,

      Liền thấy Phật, Bồ Tát).

      Nếu tâm và khẩu tương ứng th́ cũng giống như phóng điện đến A Di Đà Phật, cảm ứng cũng như phóng điện, tâm và khẩu tương ứng măi, sẽ thấy Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát từ Tây Phương Cực Lạc thế giới đến tiếp dẫn, chuyện này ai cũng biết. Nếu quư vị không đến được là v́ quư vị chẳng biết đường. Khi Phật đến tiếp dẫn, quư vị chẳng đi được, Phật ở ngay trước mắt nhưng quư vị bị tham - sân - si che đậy, chẳng thể truyền điện đến Phật. Nếu có thể buông tam độc xuống, tâm và khẩu tương ứng, quư vị sẽ lập tức thấy Phật, Bồ Tát.

      Niệm Phật rất quan trọng, bây giờ mọi người hăy buông xả hết những tâm niệm lăng xăng, lộn xộn. Một câu Di Đà cứ niệm riết không ngừng!

 TUYẾT LƯ LĂO NHÂN TỊNH ĐỘ TUYỂN TẬP CHUNG

 

Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ,

Trên đền bốn ân trọng,

Dưới cứu khổ tam đồ.

Nếu có ai thấy nghe,

Đều phát Bồ Đề tâm,

Hết một báo thân này,

Văng sanh cơi Cực Lạc.

 

 



[1] Ư nói: Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch thua mất Hoa Lục vào tay Mao Trạch Đông, phải chạy ra Đài Loan, nỗ lực xây dựng Đài Loan thành một tiền đồn Trung Hoa tự do.

[2] Kiền chùy (Ghanta): c̣n gọi là Kiền Tŕ, Kiền Trĩ, Kiền Để, là các khí cụ dùng để đánh báo hiệu trong tự viện như chuông, khánh, linh, bảng, mơ v.v... Ở đây ư nói, chuông, trống và địa chung dùng để tán Phật và niệm Phật trong Phật Thất

[3] Tuyết Tăng: Tuyết Tăng là một trong những biệt hiệu của cụ Lư Bỉnh Nam.

 

[4] Đa tài quỷ là loài quỷ ít bị đói khát trong số các ngoại quỷ, hoặc các loại đại lực quỷ thần.

[5] Cửu giới: Chín giới bao gồm nhân, thiên, a tu la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát.

[6] Môn dư đại đạo nghĩa là con đường rộng lớn ở ngoài những con đường khác.

[7] Thế giới Cực Lạc do nguyện lực, do tự tánh thanh tịnh lưu lộ thành cảnh giới tương ứng với tâm thanh tịnh chứ không phải do nghiệp lực của chúng sanh cảm thành như uế độ nên gọi là không có nhân mà có quả

[8] Hàm nghĩa: Khổng Tử xử sự không dựa theo ư kiến ức đoán, không độc đoán mọi chuyện phải làm theo ư ḿnh, mọi chuyện xử sự linh hoạt, không chết cứng, không coi ta là nhất, ai cũng không bằng ḿnh. Đây là một câu nói trong thiên Khổng Tử Thế Gia của Sử Kư nhằm khen ngợi đức hạnh của Ngài.

[9] Thất khiếu chính là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng

[10] Thánh Ngôn Lượng là dùng lời dạy của chư Phật, Bồ Tát, thánh tăng để khảo chứng, biện định sự việc. Chẳng hạn như khi tu quán Phật theo Quán Kinh, nếu thấy những cảnh được hiện trong khi quán thân Phật không phù hợp với những điều được Quán Kinh mô tả th́ biết là cảnh ấy là do ma hiện.

[11] 1. Hiện Lượng là sự nhận biết bằng trực giác, tức là khi các căn tiếp xúc cảnh giới, tâm thức nhận biết sự vật, thấu hiểu đúng như lư. Cái nhận biết đó không bị cong vạy bởi lăng kính ư thức, phân biệt, chấp trước.

2. Tỷ Lượng: Do so sánh mà nhận biết, chẳng hạn như nh́n đằng xa có khói bốc lên biết chỗ đó có lửa. Nghe tiếng nói cách tường biết bên ngoài có người v.v...

3. Thánh Ngôn Lượng: Phán định sự việc dựa theo giáo huấn của Phật, Bồ Tát, chư Tổ.

[12] Tức là khi niệm Phật phải nhận biết chính ḿnh là Phật; nói là “gánh vác” v́ dám trực tiếp chấp nhận chính ḿnh là Phật, dám đảm đương sự nghiệp của chư Phật. Nói cách khác, đây là Tín Tự như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải đă nói.