雪廬老人
淨土選集
(tuyển tập
những bài viết về Tịnh Độ của lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam)
Trích dịch: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
PHẦN THỨ NHẤT:
NHỮNG ĐOẢN VĂN TRÍCH TỪ BỘ HOẰNG
HỘ TIỂU PHẨM
* PHÁP TU
THÀNH TỰU NGAY TRONG ĐỜI NÀY
I. Phải nhận thức rơ hoàn
cảnh hiện tại và đường lối
tương lai
1. Đời người nhiều nghịch cảnh
Có ai là không bị
bệnh hoạn, già suy, thân thuộc sanh ly tử biệt,
của cải mất mát, oán thù gia hại? Lại c̣n
kẻ nghèo mong cầu tiền của, người không con
cầu con, kẻ vô nghề nghiệp, chẳng có chức
vụ mong có nghề nghiệp, chức vụ; nhưng
rốt cuộc mấy ai được như ư? Những
điều bất như ư ấy làm cách nào để
giải quyết đây?
2. Cơi đời này lắm tai nạn
Gió băo nổi dậy,
địa chấn phát sanh, tường đổ, nhà
sập khiến lắm người bị tử
thương. Lại c̣n không mưa thành đại hạn,
mưa quá thành lụt, mất mùa khiến lắm
người bị chết đói. Nước lớn tràn
dâng, ch́m ngập thôn trang. Lửa to bốc cháy, thiêu tan thành
thị khiến lắm người bị tử
thương. Những chuyện như vậy gần
như năm nào cũng có. Lại c̣n có năm chẳng thái
b́nh, có những quốc gia trên thế giới chẳng
nghĩ ǵ đến lẽ nhân đạo luôn gây tai vạ
chiến tranh. Lại c̣n phát minh những vũ khí giết
người tối tân, nào là bom nguyên tử, nào là bom khinh
khí, chỉ sợ là chẳng giết được
thật nhiều người mà thôi. C̣n bảo như
vậy mới là thế giới tiến hóa, chứ nói
trắng ra chỉ là một ḷ sát sanh lớn! Thử
hỏi ai có biện pháp nào để
tránh
khỏi những tai nạn như thế hay không?
3. Nỗi khổ luân hồi của thân sau
Rất đáng
thương thay! Người chết chẳng phải là
hết v́ thân tuy chết đi, thần thức chẳng
diệt. Có sáu cảnh giới là thiên, nhân, A-tu-la, súc sanh,
địa ngục, ngạ quỷ. Thần thức hoàn toàn
chẳng thể vượt ra khỏi phạm vi của sáu
cơi này. So trong lục đạo, cơi trời, cơi
người c̣n khá, nhưng vẫn có sanh tử, xoay vần
qua qua, lại lại; hốt nhiên mang thân trời,
người, hốt nhiên sanh trong địa ngục, súc
sanh. Ngàn lần sống, vạn lần chết, luân
chuyển như thế; xương vùi cao như núi, lệ
trào nhiều như biển, thật quá cực khổ!
Thử hỏi ai có phương pháp nào trốn tránh sự
luân hồi ấy ngơ hầu được trường
sanh an tịnh chăng?
II. Phương pháp giải cứu nghịch cảnh,
tai nạn, luân hồi
1. Chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai
nạn
Sự khổ vui
của mỗi người vốn là một thứ quả
báo, phải vận dụng cả ba đời để
quán sát. Nếu chẳng hiểu rơ đạo lư này, làm sao
thông hiểu được? Hiện tại chúng ta gặp
phải nghịch cảnh, mắc phải tai nạn,
đương nhiên là có dính líu đến nhân quả. Cách
để chuyển biến, tiêu trừ chúng nhanh nhất
chính là Niệm Phật. Trong kinh từng nói chí tâm niệm
Phật một câu, tiêu trừ được trọng
tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Nếu
đă tiêu trừ được tội th́ nào c̣n có
nghịch cảnh, tai nạn ǵ nữa! Kinh c̣n dạy
người niệm A Di Đà Phật được vô
lượng vô biên chư Phật ở bốn
phương, thượng, hạ hộ niệm. Phật
là bậc pháp lực vô biên vạn đức, vạn
năng, đă được Phật gia bị th́ c̣n
sợ ǵ tai nạn cơ chứ?
2. Thoát khỏi luân hồi, trường sanh vĩnh
viễn
Ngoài lục
đạo lại c̣n có cảnh giới nào khác th́ thật
là chuyện lạ. A! Lục đạo là cảnh phàm, nào
biết c̣n có cảnh thánh. Cảnh thánh chính là cơi Phật.
Trong các thế giới ở phương Tây, có thế
giới Cực Lạc là quốc độ của Phật
A Di Đà, hoàn toàn do bảy báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh.
So với bất
cứ cơi thiên cung nào, thế giới Cực Lạc cũng
tốt đẹp hơn ngàn vạn vạn lần.
Điểm tuyệt diệu nhất là thọ mạng vô
lượng, chẳng giống như cơi trời, cơi
người sanh tử chẳng ngừng trong lục
đạo. Trong kinh có dạy: Nếu ai sanh về đó
thân đều sắc vàng, quang minh chói lọi, thần thông
đầy đủ, nghĩ đến áo liền có áo,
nghĩ ăn liền có ăn, thọ mạng vô
lượng, sống măi đến khi thành Phật.
Phương pháp
rốt ráo để sanh về đó là như kinh đă
dạy: Niệm A Di Đà đến Nhất Tâm Bất
Loạn. Lúc lâm chung, nhất định A Di Đà Phật
đến rước đi.
3. Nêu lời cổ huấn để chứng minh
Những điểm
tốt lành vừa được đề cập trong hai
đoạn trên đều được chép trong kinh,
vốn ngàn lần, vạn lần chân thật, chẳng
cần phải nhọc công nêu chứng minh. Nhưng càng
chứng minh nhiều th́ tín tâm càng thêm kiên cố nên
chẳng ngại dài ḍng, nêu thêm mấy câu về
“mười đại lợi ích của việc niệm
Phật”. Nghĩa là người niệm Phật quyết
định sẽ được mười điều
lợi ích:
1) Ngày đêm
thường được hết thảy chư thiên,
đại lực thần tướng ẩn thân thủ
hộ người ấy.
2) Thường
được hai mươi lăm vị đại
Bồ Tát như Quán Âm bảo vệ, gia hộ.
3) Ngày đêm
thường được chư Phật hộ niệm,
A Di Đà Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ
người ấy.
4) Hết thảy ác
quỷ, dạ-xoa, la-sát đều chẳng hại
được, chẳng bị trúng phải rắn
độc, thuốc độc.
5) Nước,
lửa, oán tặc, đao binh, súng ống, gông, cùm, lao
ngục... đều chẳng mắc phải.
6) Những tội
nghiệp đă tạo khi trước thảy đều
tiêu diệt.
7) Đêm ngủ mộng
thấy điềm lành, hoặc thấy thân sắc vàng
thắng diệu của A Di Đà Phật.
8) Tâm thường
hoan hỷ, vẻ mặt tươi tắn, khí lực sung
măn, việc làm tốt đẹp.
9) Thường
được hết thảy mọi người trong
thế gian cung kính lễ bái giống hệt như kính
Phật.
10) Lúc lâm chung tâm không
hăi sợ, chánh niệm hiện tiền. Tây Phương Tam
Thánh dùng đài vàng tiếp dẫn văng sanh Tịnh Độ,
liên hoa hóa sanh, hưởng sự vui thắng diệu.
Xin quư vị chú ư:
Trong mười điều lợi ích này, chín điều
trước đều là những lợi ích chuyển hóa
nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn. Điều lợi ích
cuối cùng là thân sau thoát khỏi luân hồi.
III. Phương pháp niệm Phật
1. Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhất
- Nam mô đại
từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(niệm một lần, lễ một lạy, hoặc
chỉ chắp tay).
- Nam mô đại
từ đại bi A Di Đà Phật (niệm lễ giống
như trên).
- Nam mô A Di Đà Phật
(không cần lễ bái, chỉ cung kính niệm. Quỳ
niệm, ngồi niệm, đứng niệm đều
được. Tối thiểu là trăm câu đến ngàn
câu, vạn câu tùy theo công việc rảnh hay bận của
mỗi người. Chỉ nên từ ít tăng lên
nhiều, đừng từ nhiều giảm xuống ít).
- Nam mô Quán Thế Âm
Bồ Tát (một niệm, một lạy).
- Nam mô Đại Thế
Chí Bồ Tát (niệm một niệm, một lạy. Quán
Âm, Thế Chí là hai vị hiếp sĩ (Bồ Tát thị
giả thân cận) của đức A Di Đà, thường
gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Niệm Phật xong,
lẽ đương nhiên nên lạy hai Ngài)
- Nam mô Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát (một niệm, một
lạy. Cực Lạc thế giới có rất nhiều
vị Bồ Tát, tương lai đều là thầy
bạn của ḿnh nên cũng nên lễ bái)
- Nguyện đem công
đức này,
Trang nghiêm Phật
tịnh độ
Trên đền
bốn ân trọng
Dưới cứu
khổ ba đường
Nếu có ai thấy
nghe,
Đều phát tâm Bồ
Đề,
Hết một báo thân
này.
Cùng sanh cơi Cực
Lạc.
(Đây là bài hồi
hướng, cũng nói về nguyện lực niệm
Phật của ḿnh).
Lễ bái lui ra.
Phụ chú:
Mỗi ngày sáng
chiều hai lượt thực hành công khóa trên đây.
Rửa tay, súc miệng, đối trước
tượng Phật thắp hương, đảnh
lễ, theo đúng pháp tụng niệm. Nếu không có
tượng Phật hoặc chỗ ḿnh ở không thuận
tiện th́ không đốt hương, không đảnh
lễ cũng được, chỉ hướng mặt
về Tây, trong ḷng cung kính th́ cũng có công đức tương
tự. Đừng niệm những chữ ghi trong dấu
ngoặc.
2. Phương pháp niệm Phật mười hơi
Cho đến hết
một hơi, niệm dăm ba câu hoặc sáu bảy câu
“nam-mô A Di Đà Phật”. Niệm hết mười hơi
như vậy bèn niệm bài Hồi Hướng
một lượt, lễ bái lui ra.
Phụ chú:
Cách này dành cho
người cực kỳ bận rộn, chỉ tốn
thời gian không quá năm phút. Điều trọng yếu
nhất là mỗi ngày sáng chiều phải thực hành
một lần. Vạn phần chẳng được gián
đoạn. Có tượng Phật th́ đối
trước tượng Phật niệm tụng, không có
tượng Phật th́ hướng về phía Tây mà làm.
Hai cách niệm
Phật vừa đề cập trên là dành cho người
quá bận rộn. Nếu có lúc rảnh rỗi th́ sau khi
niệm “nam-mô đại từ đại bi A Di Đà
Phật”, tụng một quyển kinh A Di Đà, tụng ba
biến chú Văng Sanh, Tán Phật một lượt th́
càng hay. Cách hành tŕ này tối đơn giản, hợp
thực tế, quyết định thành công.
IV. Trợ duyên để niệm Phật thành công
1. Tiêu chuẩn đơn giản để phân
biệt thiện ác
Niệm Phật là
chánh nhân, làm lành là trợ duyên, giống như chim có hai cánh
mới có thể bay cao. Nhưng người đời
thường chẳng nhận rơ giới tuyến giữa
thiện ác. Chuyện lành vằng vặc chẳng hay là lành,
điều ác rành rành nào hay là ác. Ở đây, tôi căn
cứ theo kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo để
nêu ra một tiêu chuẩn: nếu ngăn dè th́ là thiện,
nhược bằng trái phạm th́ là ác. Để dễ
hiểu, tôi dùng biểu đồ như
sau:
Ba nghiệp nơi than |
Sát sanh |
Trộm cắp |
|
Tà dâm |
|
Bốn nghiệp nơi miệng |
Nói dối (vọng ngữ) |
Nói thêu dệt (ỷ ngữ) |
|
Ác khẩu |
|
Nói đôi chiều (lưỡng
thiệt) |
|
Ba nghiệp nơi ư |
Tham |
Sân |
|
Si |
Phàm là động
vật có sanh mạng, bất luận lớn hay nhỏ,
cứ làm thương tổn chúng đều là “sát sanh”.
Phàm là tài vật hay danh dự, dù nhiều, ít, lớn nhỏ,
nếu chẳng phải là vật của ḿnh, chưa
được đối phương chấp thuận mà
công khai đoạt lấy, hay trộm lén, cưỡng
chiếm, lừa lấy th́ đều là “trộm cắp”.
Ngoài vợ chồng chánh thức, hễ hành dâm với
hết thảy chúng sanh, chẳng luận v́ lư do nào
đều là “tà dâm”.
Ôm ḷng khinh lừa, nói
lời giả dối th́ gọi là “vọng ngữ”.
Chẳng luận là ngôn ngữ hay văn tự, đă
viết ra, đă nói ra, tự ḿnh đề xướng,
hoặc hùa theo, tạo ảnh hưởng thương
phong bại tục th́ gọi là “ỷ ngữ”. Lời
lẽ thô bạo, chửi mắng người th́ gọi là
“ác khẩu”. Khuấy động thị phi giữa hai bên,
ly gián cảm t́nh người khác th́ gọi là “lưỡng
thiệt”.
Mê đắm các
thứ vật dục chẳng bỏ, đă có lại mong
có thêm là Tham. Có việc bất như ư, tâm nổi nóng, phát
nộ khí th́ là Sân. Không có lư trí, gặp việc mê hoặc;
đối với đạo lư Phật nói, kinh sách thánh
hiền đều chẳng nghe theo, lại chẳng tin nhân
quả th́ là Si.
2. Ba đại yếu quyết để văng sanh
Cực Lạc: Tín, Hạnh, Nguyện
Niệm Phật văng
sanh Cực Lạc là một phương pháp đặc
biệt ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật,
được gọi là “môn
dư đại đạo” (đạo lớn nằm
ngoài các pháp môn). Sự tuy đơn giản, lư thực thâm
áo, chẳng thể dùng dăm ba câu để
tŕnh bày
tường tận được.
Cần phải
biết là đức Phật đạo đức tối
cao không ai bằng được, lời Ngài nói ra tuyệt
không dối người. Chỉ nên tin thật có cơi Cực
Lạc, niệm Phật được sanh về
đấy. Đó chính là yếu quyết thành công thứ
nhất.
Lại phải
chịu nhận rơ đời ác ngũ trược đây,
phát khởi tấm ḷng chân thật, nguyện sanh về
thế giới Cực Lạc. Đấy chính là yếu quyết
thành công thứ hai.
Đă tín, nguyện rồi
lại nên theo đúng phương pháp, mỗi ngày
định giờ giấc thực hành công khóa. Đấy chính
là yếu quyết thành công thứ ba.
V. Những bậc tiền bối mô phạm và kinh
điển nên tham khảo
1. Một vài vị sư trưởng cổ, kim
Pháp môn Niệm
Phật vốn phát xuất từ bi tâm độ sanh
triệt để của đức Thích Ca. Pháp môn này
giản tiện nhất, ổn thỏa, thích đáng
nhất, cao siêu nhất. Nếu chẳng tu nổi pháp môn
này th́ đừng bàn đến phương pháp nào khác
nữa. Điểm hay của pháp môn này là người học
vấn càng rộng th́ càng nghiên cứu, càng thấu hiểu
cao sâu, mà người chẳng biết một chữ
vẫn tu tập được. Chỉ tiếc cho
những kẻ không hiểu rơ lư này, cứ cho là cách tu
của mấy bà già lụm cụm, không khỏi là lầm
lạc lớn lắm ư?
Xin hăy xem trên hội
Hoa Nghiêm, hai vị đại thánh Văn Thù, Phổ
Hiền đều khuyên tu. Hai vị đại Bồ Tát
Mă Minh, Long Thọ của Ấn Độ đều soạn
luận hoằng dương. Các bậc cổ đức
Trung Hoa từ Huệ Viễn đại sư cho
đến Ấn Quang đại sư, lịch đại
tổ sư đa phần là tu các tông khác từ
trước, sau đều quy hướng Tịnh Độ.
Đàm Loan đại sư được xưng tụng là
hàng nhục thân Bồ Tát, Trí Giả đại sư là
bậc truyền đăng trong nhà Phật, đều hoằng
truyền Tịnh Độ. Cận đại, Đế Nhàn
đại sư của tông Thiên Thai, Thái Hư đại
sư của tông Duy Thức, Hoằng Nhất đại
sư bên Luật Tông, hai vị đại sư Hư Vân và
Viên Anh bên nhà Thiền đều có trước tác hoằng
dương Tịnh Độ.
Về phía cư
sĩ, có các vị hiền giả như ông Lưu Lôi ở
Lô Sơn đời Tấn, Bạch Lạc Thiên đời
Đường; Tô Đông Pha, Văn Ngạn Bác đời Tống;
Viên Hoằng Đạo đời Minh, Bành Xích Mộc (Bành
Tế Thanh), Dương Nhân Sơn... đời Thanh.
Họ đều là bậc đại học vấn, ai
nấy đều đặt tâm nơi Tịnh Độ.
Những vị này ai cũng biết đến. C̣n
nhiều vị như thế, nhất thời chẳng
thể nêu rơ hết, nên cũng không nói thêm nữa.
Chúng ta hăy tự
vấn: trí huệ, đức năng của ḿnh so với
những bậc thánh hiền ấy, ai cao, ai thấp?
Họ đều là bậc tu Tịnh, hoằng Tịnh.
Trái lại, bọn ta lại xem thường. Tri kiến
như vậy có thể nói là tri kiến chánh xác
được chăng?
2. Kinh điển nên tham khảo
Tam Tạng kinh
điển đâu đâu cũng chỉ dạy, quy
hướng pháp môn Tịnh Độ, nhưng ai có thời gian
để nghiên cứu trọn hết, cho nên trước
hết chỉ kể những kinh điển chuyên
biệt.
Về kinh có A Di Đà Kinh,
Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh.
Trong ba bộ này, tối thiểu là phải đọc kinh
A Di Đà mấy lượt. Nếu đủ sức, hăy nên
đọc kỹ bộ Tịnh Độ Thập Yếu
đôi ba lượt ngơ hầu hiểu đại khái pháp
môn Tịnh Độ. Nếu chẳng hiểu nổi th́
những cuốn như Kỹ Lộ Chỉ Quy, Sơ
Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam, Phật Pháp Đạo
Luận... là những cuốn sách nhỏ viết bằng
thể văn Bạch Thoại để tiếp dẫn người sơ
cơ.
Tịnh Độ Tam
Yếu Thuật Nghĩa, Long Thư Tịnh Độ Văn là
những tập sách nhỏ viết theo thể loại
văn ngôn, tùy sức đọc vài lượt cũng hiểu
được đại lược những điểm
quan trọng. Ấn Quang Đại Sư Văn Sao giống
như một quyển ngữ lục của Tịnh
Độ, An Sĩ Toàn Thư có những mẫu chuyện
cũ khá hứng thú. Hai quyển này là có thể giúp
người học khai phát trí huệ, chánh tri kiến.
Nếu có thể
đọc hết các sách trên xong, xem thêm các kinh khác sẽ
thấy dễ dàng hơn.
VI. Hai loại tâm lư sai lầm thường gặp
1. Chấn chỉnh kiến chấp phổ biến
“tâm tốt th́ cũng giống như niệm Phật”
Tâm ai nấy
đều đầy dẫy tham, sân, si, thân thường
luôn gây tạo sát, đạo, dâm, vẫn cường
điệu cố nói là tâm ḿnh tốt, chẳng phải là
lầm lạc đến mức cùng cực ư? Giả
sử như có tâm tốt thật sự th́ cũng
chẳng ngoài mười thứ thiện nghiệp đă
nói ở phần trên mà thôi. Đấy chỉ đáng gọi là
“tu phước”, kiếp sau sẽ hưởng tiểu
quả nhân, thiên, chứ vẫn không thoát khỏi luân
hồi. Chẳng đến được cơi Cực
Lạc là do đi không đúng đường. Muốn văng
sanh Cực Lạc th́ phải tu Huệ, mà tu Huệ chính là
niệm Phật. Nhân thế nào, quả thế ấy.
Phước là phước, huệ là huệ, phải phân
biệt rơ ràng, chẳng thể coi là cá mè một lứa
đến nỗi lầm lạc đại sự!
2. Chấn chỉnh lời
viện cớ “bận rộn quá không có thời gian
niệm Phật”
Niệm Phật chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn, sanh về Cực Lạc, c̣n sự nào lớn lao hơn pháp này nữa, nhưng lại xem rất thường. Phần nhiều người đời hay viện mấy lư do như quá bận rộn, không có thời gian để cự tuyệt pháp đại tiện nghi vạn kiếp khó được gặp gỡ này, thật đáng tiếc quá!
Có thật sự bận rộn hay chăng? Tôi chẳng thấy vậy. Niệm Phật th́ đi, đứng, nằm, ngồi đều làm được; dù là sĩ, nông, công thương đều chẳng trở ngại ǵ. Nếu chẳng tin th́ dưới đây tôi sẽ dẫn một bài ca ngắn để người đời đối với những sinh hoạt thường nhật có thể phân tích rơ ràng. Tôi tin rằng sau khi xem bài ca này xong, nhất định quư vị sẽ chẳng c̣n cười được nữa.
Biết
ngài vốn chẳng bận,
Cứ cố nói chẳng nhàn,
Trong hai mươi bốn
giờ,
Nằm ngủ mất tám
giờ,
Ba bữa ăn ba tiếng
Lại uống trà, hút thuốc
Chải gỡ, đại
tiểu tiện,
Phí mất khoảng một
giờ,
Đi ra ngoài uống rượu
Về chuyện gẫu cùng
vợ
Ít nhất vài ba giờ,
Lại e ḷng bận bịu,
Thân mệt tính ngủ trưa,
Ngủ hai giờ chẳng
đă,
Mất đi mười sáu
giờ,
Uổng phí hơn quá nửa,
Trong tám giờ c̣n lại,
Chưa chắc đă bận
thật.
Niệm Phật được
nửa tiếng
Đă kêu lâu lắm rồi
Hăy xem người xưa nay,
Mấy ai bảy mươi
tuổi?
Đừng đem khổ sanh
tử,
Vất ra đằng sau ót,
Việc chân chánh của ḿnh,
Vạn vạn lần khẩn
cấp,
Xin hăy gấp tỉnh ngộ,
Mau trồng chín phẩm sen.
Phụ Lục
Yếu quyết niệm
Phật
Trong lúc niệm
Phật, hết thảy mọi sự trong tâm đều
buông xuống hết, đừng nghĩ tưởng
loạn xạ, chỉ c̣n quan tâm đến sáu chữ
hồng danh từ tâm ḿnh phát khởi, từ miệng ḿnh
vang ra, lọt vào chính tai ḿnh, in sâu vào tâm. Phải
tưởng cho rơ, niệm cho rơ, nghe cho rơ. Có như vậy
th́ mới cảm ứng được.
GIẢI ĐÁP NGHI VẤN
1) Có người nói:
Chúng tôi là công chức, giáo chức, ở cư xá công
cộng th́ cúng Phật, lễ Phật, đương nhiên
là bất tiện, niệm Phật cũng làm phiền
người khác bất an, tôi chẳng biết làm sao?
Đáp:
Chốn công cộng đúng thật là có nhiều nỗi
bất tiện, nhưng việc ǵ cũng có cách để
dung thông cả. Nếu như đă biết niệm
Phật là đại sự th́ cứ thành tâm thầm
niệm, ắt có hiệu quả lớn. Bởi lẽ tâm
niệm c̣n càng khẩn mật hơn miệng niệm,
bất tất phải cúng Phật, lễ Phật ra
tiếng.
2) Có
người nói: Niệm Phật tuy tốt, nhưng
phải đến chùa, miếu, liên xă hay trai
đường, tôi không có thời gian.
Đáp:
Không nhất định phải đến những nơi
đó, không có thời gian đi ra ngoài, nhưng chẳng
lẽ ở nhà không có thời gian nào rảnh sao? Cứ
ở nhà niệm Phật nào có trở ngại chi.
3) Có
người nói: Niệm Phật là việc của kẻ có
tiền, tôi không có tiền bạc dư dả!
Đáp:
Thế là lại càng lầm hơn nữa! Niệm Phật
chẳng tốn tiền mấy. Ba cây nhang đáng giá là bao?
Dù chẳng đốt lấy một cây nhang cũng
chẳng quan hệ ǵ. Chỉ cốt sao trong tâm cung kính là
đủ.
4) Có
người nói: Niệm Phật là phải ăn chay, tôi
không làm được, cho nên tôi không thể niệm
Phật?
Đáp:
Tạm thời bất tất phải ăn chay, chỉ nên
kiêng sát sanh th́ cũng có công đức lớn. Có thể
tập ăn ba thứ tịnh nhục, tức là không v́
ḿnh mà giết, chẳng thấy con vật bị giết,
chẳng nghe nó bị giết. Cá, thịt ngoài chợ làm
sẵn rất nhiều, đủ để cho quư vị
ăn rồi.
* NIỆM
PHẬT TAM ĐẠI LỢI ÍCH
(BA ĐIỀU LỢI ÍCH LỚN CỦA NIỆM PHẬT)
1)
Một câu Phật hiệu tiêu diệt trọng tội trong
tám mươi ức kiếp sanh tử (thuộc về quá
khứ)
2)
Một câu Phật hiệu tiêu diệt phiền năo của
nhân sanh, tiêu tai, diên thọ, hưởng phước
huệ (thuộc về hiện tại)
3)
Một câu Phật hiệu khiến ta thoát khỏi lục
đạo luân hồi, văng sanh thế giới Cực
Lạc, vĩnh viễn trường sanh bất diệt
(thuộc về tương lai)
*
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT
Hỏi: Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm mà phải chú tâm đúng không?
Đáp: Có
nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng
chẳng để tâm vào đó, trong ḷng toàn là suy xằng
nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng vô dụng.
Miệng niệm Phật th́ tâm phải tưởng
Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ một
câu niệm Phật ra không c̣n nghĩ đến ǵ khác
nữa, không c̣n có ư niệm nào khác khởi lên. Có vậy
mới gọi là Nhất Tâm Bất Loạn, từ đó
mới dễ thành công.
Hỏi:
Như vậy chẳng phải là khó lắm ư?
Đáp: Xem
ḱa! Một mặt quư vị chê niệm Phật quá dễ
dàng, một mặt lại sợ nó quá khó. Thật sự
ra, một pháp Niệm Phật đây, bảo là dễ th́ nó
cực dễ, bảo là khó th́ nó cũng cực khó.
Chẳng qua là chẳng cần biết là khó hay dễ,
chỉ đáng kể ḿnh có thể bền ḷng niệm
được nhiều hay không. Lâu ngày chầy tháng, tự
nhiên tâm chẳng loạn nữa. Lời tục
thường nói: “Trên
đời không có việc ǵ khó, chỉ sợ tâm chẳng
chuyên”, chính là ư này.
Lại có một cách
niệm Phật như sau: Mỗi lúc niệm Phật,
mỗi chữ phải phát xuất từ trong tâm. Trong tâm
tưởng thật rơ ràng, miệng niệm cho thật rơ
ràng, tai nghe thật rơ ràng. Mỗi một chữ phát
xuất từ trong tâm, thấu qua tai lọt vào tâm, một
chữ cũng chẳng để lọt mất. Tu tập
lâu dài như vậy, tâm tự nhiên chẳng c̣n tán loạn.
Đấy chính là một phương pháp khẩn yếu
bậc nhất, ngàn vạn phần chớ quên.
Hỏi:
Nên niệm Phật vào lúc nào?
Đáp: Nên
niệm Phật vào hai thời sáng tối, lập một
công khóa nhất định, hạn định số câu
niệm Phật nhiều ít: hoặc là mấy trăm câu,
mấy ngàn câu, tùy theo hoàn cảnh mỗi người mà
định số. Chẳng cần biết là rảnh hay
bận, không niệm đủ số đó không
được. C̣n ngoài ra th́ chẳng cần biết là lúc
nào, đang ở chỗ nào đều niệm
được cả. Càng niệm nhiều càng tốt.
Thời gian niệm càng lâu càng hay.
Hỏi:
Vừa làm việc vừa niệm Phật được
không?
Đáp: Lúc
đang vác củi, gánh nước cũng niệm Phật
được. Lúc đang cọ nồi, rửa chén
cũng niệm Phật được. Lúc cày bừa,
cuốc xới, cắt cứa cũng niệm Phật
được. Chẳng luận là đi, ngồi, ngủ
nghê, thậm chí lúc đang đại tiểu tiện
cũng đều có thể niệm Phật. Nói chung,
trừ lúc phải dùng trí óc làm việc, ngoài ra th́ dù đang
làm ǵ cũng chẳng trở ngại việc niệm
Phật cả.
Hỏi:
Nên niệm Phật lớn tiếng hay là niệm nhỏ
tiếng?
Đáp:
Niệm lớn tiếng cũng tốt, niệm nhỏ
tiếng cũng hay. Miệng không niệm nhưng tâm
thầm niệm cũng tốt. Chỉ trừ lúc đang
nằm trên giường hay đang ở chỗ không
sạch sẽ th́ nên thầm niệm trong tâm, chẳng
được niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là
không cung kính. Nhưng lúc gặp chuyện nguy cấp,
chẳng cần biết là đang ở chỗ nào, cứ
việc niệm ra tiếng.
Hỏi:
Học Phật th́ nên thờ h́nh Phật nào?
Đáp:
Thờ một ḿnh đức A Di Đà Phật hoặc
tượng Tây Phương Tam Thánh đều
được (A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát Quán
Thế Âm, Đại Thế Chí gọi là Tây Phương Tam
Thánh).
Hỏi:
Nên thờ tượng Phật ở chỗ nào?
Đáp:
Nếu có pḥng trống, dành riêng một pḥng thờ Phật
là tốt nhất. Nếu không có, thờ Phật ngay trong
pḥng ḿnh ở cũng được. Nói chung là phải
chọn nơi sạch sẽ. Trước tượng treo
màn vải vàng, lúc không niệm Phật, buông màn xuống. Làm
vậy để khỏi đến nỗi khinh nhờn.
Tốt nhất là để tượng Phật
hướng mặt về Đông, người niệm
Phật đối trước tượng Phật,
hướng mặt về Tây. Nếu chẳng thể làm
vậy được th́ thờ tượng ở
phương nào thuận tiện cũng được.
Hỏi:
Nếu không có chỗ nào thuận tiện, không thờ
Phật có được không?
Đáp:
Nếu thực sự không có chỗ nào thuận tiện,
miễn sao tâm thành th́ không thờ tượng Phật
cũng được. Lúc niệm Phật hướng
về Tây là ổn.
Hỏi:
Nên dùng những thứ ǵ để cúng dường
Phật?
Đáp:
Thông thường dùng hương, hoa, đèn, nước
trong, trái cây v.v... Nếu không lo liệu được,
thiếu một vài thứ hoặc không có thứ ǵ hết
cũng xong; nhưng tuyệt đối chẳng
được cúng rượu hoặc đồ mặn
cũng như đốt giấy tiền, vàng mă
trước Phật.
Hỏi:
Nên hành lễ trước Phật như thế nào?
Đáp: Tùy
ư. Hoặc là dập đầu lạy, hoặc là vái,
hoặc khom ḿnh, hoặc chắp tay; nhưng dập
đầu lễ bái là cung kính nhất, có thể tiêu
tội, tăng phước.
Hỏi:
Lúc niệm Phật có nên quỳ trước mặt
Phật không?
Đáp:
Chẳng nhất định. Quỳ niệm, đứng
niệm, vừa đi vừa niệm đều
được. Cốt yếu là phải thành tâm. Quỳ
niệm rất tốt mà ngồi niệm cũng hay.
Hỏi:
Cụ nói hai thời niệm Phật sáng tối, phải
lập một khóa tŕnh, phiền cụ lập cho tôi
một khóa tŕnh có phải là hay hơn không?
Đáp: Khóa
tŕnh vốn là dựa theo thời gian, sức lực
của chính mỗi người mà quy định. Ngài đă
cầu tôi th́ tốt nhất là tôi soạn ra một nghi
thức thật đơn giản cho ngài vậy.
Nếu như ngài có sức th́ có thể hành tŕ thêm nhiều hơn, có thể thêm vào kinh Di Đà, chú Văng Sanh, kệ Tán Phật, văn Đại Phát Nguyện. Những bài kinh ấy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có chép đủ cả, những chỗ lưu thông kinh Phật đều có. Khóa sáng th́ lúc vừa ngủ dậy, khóa tối th́ trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng, đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau:
- Nam mô
Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
(niệm một lần, lễ một lạy).
- Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần,
lễ một lạy).
- Nam mô Tây
Phương Cực Lạc thế giới đại
từ đại bi A Di Đà Phật (niệm một lần,
lễ một lạy).
- Nam mô A Di Đà Phật
(trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều càng hay. Tùy
mỗi người rảnh hay bận mà định
số, nhưng phải từ ít tăng lên nhiều,
chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Bất
luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần phải
lạy).
- Nam mô Quán Thế Âm
Bồ Tát (niệm một tiếng, lễ một lạy,
hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).
- Nam mô Đại Thế
Chí Bồ Tát (như trên).
- Nam mô Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát (như trên).
- Nguyện đem công
đức này
Trang nghiêm Phật
Tịnh Độ.
Trên đền bốn ân nặng.
Dưới cứu
khổ tam đồ
Nếu có ai thấy
nghe.
Đều phát ḷng Bồ
Đề,
Hết một báo thân
này,
Cùng sanh cơi Cực
Lạc.
(lễ ba lạy)
Hỏi:
Khóa tŕnh này rất hay, xin giảng thêm về chữ
“thập phương Tam Bảo”.
Đáp: Tám
phương, phương trên và phương dưới
gọi là mười phương. Phật, Pháp, Tăng là
Tam Bảo. Phật là Giáo Chủ. Pháp là kinh điển
để tu nhân chứng quả do Đức Phật giảng.
Tăng là những pháp tử chiếu theo lời Phật
dạy tu hành, đă chứng thánh quả Bồ Tát, Duyên
Giác, Thanh Văn, và các cao tăng đạo cao, đức
trọng, hoằng pháp lợi sanh.
Phật, Pháp, Tăng
đều gọi là Bảo (quư báu) v́ có thể phát sanh,
tăng trưởng Pháp Thân, huệ mạng của hết
thảy chúng sanh, giống như của báu trong thế gian
có khả năng nuôi sống thân mạng của con
người. Phải hiểu rằng khi niệm Tam Bảo
chính là biểu thị ta hoàn toàn lấy Phật, kinh
điển do đức Phật đă nói và các vị
Bồ Tát, cao tăng tu hành đúng theo lời Phật làm
thầy của ḿnh. Ta từ những vị đó quy
hướng trở thành tín đồ Phật giáo.
Hỏi:
Xin hỏi v́ sao phải niệm Phật Thích Ca?
Đáp: Là
v́ pháp môn Niệm Phật do chính Ngài dạy cho chúng ta.
Niệm Phật lạy Ngài chính là chẳng dám quên bỏ
nguồn gốc vậy.
Hỏi:
Tại sao lại c̣n phải niệm Quán Thế Âm và
Đại Thế Chí Bồ Tát?
Đáp: V́
người niệm Phật lúc lâm chung, hai vị Bồ Tát
này cùng với đức A Di Đà Phật đồng thời
đến tiếp dẫn về Tây Phương. V́ thế
niệm Phật xong phải niệm danh hiệu và lễ
bái hai vị Bồ Tát này.
Hỏi:
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát là những vị
Bồ Tát nào?
Đáp:
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát là tất cả
những vị Bồ Tát trong thế giới Cực
Lạc đều rất thanh tịnh. Ba chữ Đại
Hải Chúng ngụ ư các vị Bồ Tát ấy nhiều
như nước biển. Sớm muộn ǵ ta cũng
sẽ làm bầu bạn với các vị Bồ Tát ấy; v́
thế, cần phải niệm niệm lễ bái họ.
Hỏi:
Kệ Hồi Hướng có tác dụng ǵ?
Đáp: Công
dụng của bài kệ Hồi Hướng rất
lớn. Người tu hành bất luận là niệm
Phật, hay niệm kinh, niệm xong, nhất định
phải niệm kệ Hồi Hướng một
lượt. Hồi Hướng có nghĩa là gom về,
tức là một phương pháp đem công đức
niệm Phật, niệm kinh gom về một nơi. Gom về
nơi nào? Gom về việc cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới!
Chẳng riêng ǵ
niệm Phật, niệm kinh mới hồi hướng
về Cực Lạc thế giới, mà bất luận làm
việc lành nào cũng đều phải hồi
hướng về Cực Lạc thế giới. Càng tích
thêm được một phần công đức th́ hy
vọng được văng sanh càng tăng thêm một
phần. Nếu làm công đức nhưng chẳng hồi
hướng cầu sanh về thế giới Cực
Lạc th́ chỉ sợ đời sau chỉ
được hưởng báo ứng trong cơi trời, cơi
người, vẫn cứ luân hồi trong lục
đạo, chẳng được giải thoát.
Phước báo càng lớn, càng dễ tạo tội, nên
kiếp kế tiếp đó càng đáng sợ hơn.
V́ thế,
người học Phật phải nên đem hết
thảy công đức hồi hướng văng sanh Tây
Phương th́ lúc lâm chung mới có hy vọng
được sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi
Hướng cũng giống như niệm Phật,
phải từng chữ, từng câu phát xuất từ
nội tâm, chẳng thể niệm suông nơi cửa
miệng được.
Hỏi:
Xin cụ giảng qua ư nghĩa từng câu trong bài kệ
Hồi Hướng.
Đáp: Câu
thứ nhất và câu thứ hai nghĩa là ta đem công
đức niệm Phật hỗ trợ cơi Tịnh Độ
của Đức Phật A Di Đà khiến cho nó càng thêm tốt
đẹp phi thường. Câu thứ ba nghĩa là lại
đem công đức ấy trên là báo đáp bốn tầng
ân đức: cha, mẹ, sư trưởng và đức
Phật. Câu thứ bốn nghĩa là dưới th́ dùng công
đức cứu vớt những chúng sanh khổ năo trong
ba đường ác: súc sanh, địa ngục, ngạ
quỷ. Câu thứ năm và thứ sáu nghĩa là nếu có
ai thấy, nghe người đang niệm Phật,
niệm kinh sẽ đều phát khởi tấm ḷng trên
cầu Phật Quả, dưới độ chúng sanh. Câu
thứ bảy và thứ tám nghĩa là sau khi cái thân báo
ứng này đă hoàn toàn chấm dứt th́ mọi người
sẽ cùng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Giải thích theo từng câu văn th́ ư nghĩa
của bài kệ Hồi Hướng là như vậy.
Nói chung, tám câu kệ
này lại có hai tầng ư nghĩa lớn.
Tầng thứ
nhất là: Chúng ta niệm Phật là để cầu sanh
về Tây Phương, chứ chẳng phải v́ cầu
công danh, phú quư hay hết thảy những điều
tốt đẹp của thế gian.
Tầng thứ hai là:
Chúng ta niệm Phật là để cứu độ
hết thảy chúng sanh thoát ly khổ hải, chứ
chẳng phải v́ riêng bản thân ḿnh. Đă hiểu rơ
tầng ư nghĩa thứ hai này rồi th́ bất luận là
niệm Phật, niệm kinh hay làm bất cứ
điều lành ǵ đều luôn giữ tấm ḷng như
thế, hồi hướng như thế. Có như vậy
mới là người học Phật phát Bồ Đề tâm
chân chánh.
Hỏi:
Khóa tŕnh cụ vừa lập ở trên cố nhiên rất
đơn giản, nhưng có người quá đỗi
bận rộn, không lúc nào rảnh th́ làm sao thực hiện
được?
Đáp:
Vẫn có biện pháp. Bất luận là đang
ở đâu hay bất cứ lúc nào (niệm vào lúc sáng
sớm tốt nhất), hướng mặt về Tây,
lễ ba lạy, liền niệm sáu chữ “nam-mô A Di Đà
Phật” cho đến hết một hơi. Hơi dài th́
niệm một hơi mươi câu càng hay. Hơi ngắn
th́ một hơi niệm vài câu cũng được.
Tổng cộng niệm đủ mười hơi rồi
niệm kệ Hồi Hướng. Niệm xong,
hướng về Tây lạy ba lạy là xong. Đây gọi là
pháp Thập Niệm. Người rất bận mỗi ngày
thành tâm chiếu theo phương pháp này mà niệm th́
tương lai cũng có thể được sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, là v́ đức
Phật A Di Đà đă từng phát nguyện nên tự nhiên
được văng sanh không sai!
* CHƯA CHỨNG CHÂN NHƯ TH̀ ĐỐI VỚI LƯ NHÂN DUYÊN PHẢI RẤT CẨN TRỌNG
Học
Phật chú trọng “hạnh
giải tương ứng”. Hiểu (giải) nhưng
không hành giống như kể tên thức ăn, đếm
của cải. Hành mà không hiểu dễ lạc ngơ rẽ.
Cả hai đều mắc lỗi. Nay người tu
Tịnh Độ chỉ nói là niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương, chỉ biết bám víu theo quả, đến
nỗi chẳng biết những điều ḿnh niệm
đó là đúng pháp hay không, cứ coi nhẹ, chẳng gia
công xem xét. Bởi vậy thành ra mất cả nhân lực lẫn
duyên lực, há chẳng phải là chẳng biết chăm
lo cái gốc đó ư? Kinh dạy: “Nhân địa chẳng chân sẽ cảm quả cong
vạy”. Kinh c̣n dạy: “Duyên
là hết thảy công đức thiện căn, hỗ
trợ liễu nhân, khai phát chánh nhân”. Ôi! Há có nên chẳng
suy nghĩ kỹ càng chăng?
Nói
đến Tịnh Độ là nói đến quả thanh
tịnh, không phiền năo nghịch ác. Niệm Phật là
lấy cái tâm không nghịch ác, phiền năo, thanh tịnh làm
nhân. Thêm nữa, hành các điều thiện, vạn
đức chính là trợ duyên cho nhân ấy. Nhân và duyên ví
như hai cánh chim; phải cùng nâng cả hai cánh mới có
thể bay cao, bay xa, đạt tới chỗ ḿnh
hướng đến. Phải cùng tu cả nhân lẫn
duyên th́ mới thành tựu được quả.
Cổ
đức biết rơ như thế nên khi dạy
người không vị nào chẳng đề cao nhân, nào là
“thanh tịnh ư ḿnh”, nào là “tâm tịnh cơi nước
tịnh” để hiển thị rằng: Muốn
chứng tịnh quả, phải gieo tịnh nhân. Tuy
bảo là “đới nghiệp văng sanh”, nhưng nghiệp
nói đó chỉ là nghiệp quá khứ vẫn c̣n ẩn
tàng, chứ chẳng phải cứ tạo tội
nghiệt mà vẫn được văng sanh. Đủ thấy,
[chư cổ đức] chẳng chấp nhận [hành nhân
gây tạo] lỗi mới. Hiểu rơ lẽ này th́ vạn
người tu, vạn người về. Hễ lầm
lạc th́ nhân lẫn lực chẳng đủ, mong
chứng quả sao được?
Ba kinh
Tịnh Độ đều trọng trợ duyên, cực
lực khen ngợi phước đức. Kinh Tiểu
Bổn (kinh A Di Đà) dạy: “Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân
duyên mà được sanh về cơi ấy”. Kinh Đại
Bổn (kinh Vô Lượng Thọ) dạy: “Khiến cho bỏ ngũ ác, trừ năm sự
đau đớn, ĺa khỏi năm sự thiêu
đốt”. Quán Kinh dạy: “Muốn
sanh về cơi ấy nên tu ba thứ phước”. Kinh
dạy rành rành, dù có nhân nhưng thiếu duyên, dễ đâu
thành tựu!
Có
kẻ bảo: “Niệm
Phật một câu có thể tiêu trừ trọng tội
trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Nghiệp
đă tiêu rồi th́ cần ǵ phải nhọc công giảng
giải, suy xét nhân duyên nữa cơ chứ?
Tôi bảo: “Một niệm sân tâm dấy, mở ra tám vạn chướng môn” (ư nói phiền năo chướng). Chướng môn đă mở th́ nghiệp lại chẳng sanh khởi hay sao? Phần lớn những học nhân hiện thời, một mặt niệm Phật, một mặt tạo nghiệt, khác nào tay phải quét dọn, tay trái vẩy bụi. Hăy thử tự vấn chính ḿnh siêng năng, lười nhác thế nào; nếu chẳng tự dối ḿnh th́ ắt sẽ câm lặng, hết c̣n cười được nữa! Bởi thế, người thật thà niệm Phật th́ không một ai là chẳng kinh sợ nhân duyên. Nhân duyên bất tịnh, lại chẳng thật thà th́ đối với Hạnh và Giải, có được thứ ǵ hay không? Cầu được văng sanh kiểu đó chỉ là chuyện mơ tưởng, cầu may mà thôi”.
* CHẲNG HIỂU GIÁO TƯỚNG TH̀ KHÓ THỂ BÀN CHUYỆN CÓ - KHÔNG
Nhà
Phật nói Không, nói Có, giống như bàn tay và nắm tay,
vốn chỉ là một sự. Kinh dạy: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Truy
đến cội nguồn, giáo thuyết này phát xuất
từ Bát Nhă. Pháp môn này từ lúc Phật đản sanh măi
cho đến thời thuyết giáo thứ tư, Phật
mới phu diễn; bởi lẽ giáo thuyết này chẳng
dành cho kẻ sơ cơ, phải hiểu rơ như thế.
Người không khéo học cứ khăng khăng chấp
chặt một bề đến nỗi đường
rộng thênh thang, nhưng vẫn đi lạc. Rườm
lời loạn xị, càng tăng tranh căi, lợi sanh ở
chỗ nào?
Hữu
là Diệu Hữu, tức là luận về Tướng.
Không là Chân Không, tức là bàn về Thể. Do Thể là Không
nên Hữu bất biến. Do Tướng là Có nên Hữu tùy
duyên; nhưng thực ra, Tướng lại
nương vào Thể mà khởi, Thể cũng nhờ vào
Tướng để hiển lộ. Chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật, là hai, là một. Nếu
hiểu trọn vẹn, lănh hội được ư
chỉ viên tu ấy th́ chắc chắn sẽ chẳng
tự ḿnh mâu thuẫn, bảo là có hai con đường
nữa!
Nay
người tin vào Tịnh Độ là tin vào những thứ
trang nghiêm được nói trong ba kinh Tịnh Độ.
Đấy là nói về Tướng, hoàn toàn chẳng phải là
chuyện ngụ ngôn của Trang Tử. Kẻ ngờ
Tịnh Độ, chỉ nói là “duy
tâm tự tánh”, đấy là nói về Thể, há phải
là xem thường tam thân của Như Lai. Nếu phỉ
báng lẫn nhau th́ khác ǵ gần lửa toan không chịu nóng,
gần nước toan không chịu bị ướt, sao
c̣n có nghĩa “Sắc tức
Không”, sao c̣n có nghĩa Bất Biến Tùy Duyên
được nữa?
Phàm
những ai nghiên cứu Tịnh Độ đôi chút đều
biết Tịnh Độ có bốn phần: Cơi Thật Báo là nói
về Tướng, cơi Tịch Quang chẳng phải là
luận về Thể hay sao? Lấy Thể bỏ
Tướng th́ cố nhiên Lư chẳng viên dung, mà
Sự cũng chẳng chân thật vậy! Nếu như
đối với Tây Phương đă chỉ chấp nhận
duy tâm tự tánh làm Thể, chẳng chấp nhận các
tướng Cực Lạc, Di Đà, ba chỗ trang nghiêm th́
lẽ ra đối với Đông Độ cũng chỉ nên chấp
nhận “duy tâm tự tánh” là Thể, chẳng
chấp nhận có tướng Sa Bà, Thích Ca, tám khổ, tam
đồ chứ!
Nếu như đă
chấp nhận các tướng cơi Sa Bà là có th́ cũng
phải chấp nhận các tướng của cơi Cực
Lạc chẳng phải là Không. Có như
vậy th́
Sự và Lư mới chẳng mâu thuẫn. Nếu không th́ có
khác ǵ nói tay người bên Tây Phương chỉ có
nắm tay, tay người Đông Độ chỉ có bàn tay cơ
chứ? Hoặc cũng giống như nói: Tôi chỉ
chấp nhận những ǵ trong tâm, chẳng chấp
nhận những ǵ ở ngoài tâm. Thử nghĩ xem: Có pháp
nào ở ngoài tâm, ngoài tâm là chỗ nào vậy?
* TÔNG PHÁI
Phật giáo chia thành các tông phái là v́ các
học giả Trung Quốc thấy Phật pháp nhiều
như biển cả, muốn cho dễ tu tập nên
mỗi vị chọn lấy một đường ḥng
cầu chuyên tinh, chứ nào phải là tạo dựng môn
hộ để chấp nhận điều này là đúng,
chê điều kia là sai! Các tông lập danh dựa theo nơi
chốn, tên người, hoặc pháp môn sai khác. Dưới
đây tuy liệt kê danh mục mười tông, nhưng trên
thực tế, có vài tông được rất ít
người nghiên cứu.
1. Thành Thật Tông (c̣n gọi là Không Tông)
Pháp Sư Ha Lê Bạt
Ma soạn luận Thành Thật rất giống với giáo
nghĩa Đại Thừa. Đại khái là “thành lập ư
nghĩa chân thực của kinh điển”. Vào thời
đại Diêu Tần, khi bộ luận này được
đại sư Cưu Ma La Thập dịch ra th́ tông này
mới được sáng lập.
2. Câu Xá Tông (c̣n gọi là
Hữu Tông)
Chữ Câu-xá (Kosa)
được dịch là Tàng (chứa đựng) hoặc
Kiển (kén tằm), ngụ ư “bao hàm”. Ở Ấn Độ,
các bộ luận Tiểu Thừa rất nhiều, sau
được kết tập thành Đại Tỳ Bà Sa
Luận. Bồ Tát Thế Thân dựa theo luận này
chiết trung, soạn thành luận Câu Xá, dịch nghĩa là
“giải thích phát trí”
(cởi mở, đả thông vướng mắc khiến
cho trí huệ phát sanh). Tông này được thành lập
từ khi hai vị pháp sư Chân Đế đời Trần
và Huyền Trang đời Đường dịch luận này
ra tiếng Hán.
3. Thiền Tông (c̣n gọi là
Tâm Tông)
Thiền là gọi
tắt của chữ Thiền-na (Dhyāna), dịch nghĩa là Tịnh Lự. Tông này do tổ
sư Đạt Ma vào đời Lương từ Tây Trúc qua Trung
Hoa lập ra, chủ trương “chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật”. Đại khái là
đă ngộ rồi mới khởi tu. Tuy nói là “chẳng
lập văn tự” nhưng lại là tông có nhiều sách
vở nghiên cứu về Bát Nhă nhất.
4. Luật Tông (c̣n gọi là
Nam Sơn Tông)
Tông phái này dùng
phương pháp y theo những cấm chế của
Phật để tịnh trừ những ác nghiệp
nơi thân, khẩu, ư. Sáng tổ là ngài luật sư Nam
Sơn Đạo Tuyên đời Đường, lấy luật
Tứ Phần làm kinh điển chủ yếu.
5. Thiên Thai Tông (c̣n gọi là
Pháp Hoa Tông)
Đời Tùy, Trí Giả
đại sư ở núi Thiên Thai lấy kinh Pháp Hoa làm kinh
điển căn bản, sáng lập ra tông này. Ngài phát minh
diệu lư “nhất tâm tam quán”.
Đối với học thuyết phán giáo giải nghĩa,
Ngài đă hệ thống hóa rất tinh xác. Các tông mỗi
khi diễn giảng giáo nghĩa, đa phần dựa theo
phương thức phán giáo của Ngài.
6. Hiền Thủ Tông (c̣n gọi là Hoa Nghiêm Tông)
Ḥa Thượng
Đỗ Thuận đời Đường lấy kinh Hoa Nghiêm
làm kinh điển căn bản, sáng lập ra tông này.
Đến đời tổ thứ ba là Hiền Thủ đại
sư lại gia công chỉnh lư khiến cho giáo nghĩa minh
xác, tinh vi phi thường. Ngài phát minh giáo thuyết “nhất chân pháp giới”;
đây chính là giáo nghĩa uyên áo nhất của tông này.
7. Từ Ân Tông (c̣n gọi là Pháp Tướng Tông,
cận đại gọi là Duy Thức Tông)
Kinh điển
chủ yếu để y cứ của tông này là các kinh
Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v... và Thành Duy Thức
Luận, chủ trương “chuyển
Thức thành Trí”. Đời Đường, do pháp sư
Huyền Trang ở chùa Từ Ân phiên dịch, hoằng
dương [luận Thành Duy Thức] nên tông này mới được
thành lập.
8. Tam Luận Tông (c̣n gọi Tánh Tông)
Bồ Tát Long Thọ
soạn ra Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận, Đề
Bà Bồ Tát soạn Bách Luận. Ba bộ luận này
đại khái thuyết minh “nghĩa lư chân thực trong
Đại Thừa và phá chấp, phá chướng”. Từ khi
ngài Cưu Ma La Thập dịch các bộ luận này vào
đời Diêu Tần, tông này mới được thành
lập.
9. Mật Tông (c̣n gọi là Chân Ngôn Tông)
Mật có nghĩa là “bí áo” (kín đáo, sâu thẳm).
Ư nói cảnh giới rất sâu của Phật, nếu
chẳng phải là hàng Đẳng Giác Bồ Tát th́ chẳng
thể hiểu rơ, đề ra phương pháp “tam mật tương ứng,
tức thân thành Phật” (thân, khẩu, ư đều
mật, thành Phật ngay trong thân này). Kinh điển căn
bản là kinh Kim Cang Đảnh, kinh Đại Nhật v.v... Tông
này do hai vị đại sư Kim Cang Trí và Bất Không
lập ra vào đời Đường; nhưng hiện
tại được lưu hành ở Trung Quốc chính là
Mật Giáo Tây Tạng và Mông Cổ, họ lại chia ra các
phái Hồng, Hoàng, Bạch v.v...
10. Tịnh Độ Tông (c̣n gọi là Liên Tông)
Do đại sư Huệ
Viễn đời Tấn sáng lập, lấy ba kinh Di Đà, Vô
Lượng Thọ và Quán Kinh làm kinh điển chủ
yếu. Chủ trương “bốn
pháp niệm Phật, đới nghiệp văng sanh Cực
Lạc”. Phương pháp của tông này là độ
khắp ba căn, thâu trọn lợi độn. V́ thế,
người tại gia tu tập càng thật tiện
lợi.
Thứ tự của
mười tông này là căn cứ theo cuốn Thích Giáo Tam
Tự Kinh của lăo nhân Lư Xuy Vạn đời Minh.
Cuốn này từng được Ấn Quang đại
sư trùng đính vào đời Thanh, sau lại
được cư sĩ Dương Nhân Sơn san
định, nhuận sắc. Thứ tự này có lẽ là
có dụng ư. Dùng ư kiến thô thiển của ḿnh để
suy xét, tôi xin thử tŕnh bày như sau:
1) Nếu căn
cứ vào Thừa th́ chia ra hai tông thuộc Tiểu Thừa,
bảy tông Đại Thừa. Luật Tông gồm cả
Tiểu lẫn Đại. Lẽ tự nhiên là nêu Tiểu trước
rồi mới nêu Đại, nên Thành Thật và Câu Xá
được nêu trước, Luật Tông nêu trung gian,
kế tiếp nêu tên các tông khác.
2) Nếu luận theo
giáo nghĩa th́ Thiền Tông là “truyền Phật tâm ấn”,
là pháp tối cao, nên nêu tên trước tiên trong các tông
Đại Thừa. Tịnh Tông độ khắp ba căn, là
pháp rộng nhất nên liệt kê sau cùng; giống như xe
có hai bánh. Các tông khác được kể ở trung gian
khác như thùng xe, gọng xe... Xe có công năng chuyên chở,
bánh xe có sức mạnh vận chuyển.
3) Nếu luận về mặt
hành tŕ th́ Giới Luật là căn bản của các
hạnh nên ngay sau khi biết Thiền, hiểu Tông th́
trước hết phải lấy ngay Luật làm căn
bản chánh. Học quư cầu hiểu, tánh - tướng
của hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ đều là kim
chỉ nam cho giáo lư nên phải được nêu ngay
tiếp sau đó để người học hiểu rơ
giáo tướng. Hiểu rồi th́ quư ở chỗ
thực hành nên Mật, Tịnh chính là các phương pháp
chuyên tu tŕ được nêu sau rốt, khiến cho
người học biết chỗ quy túc.
Trong mười tông,
hai tông Luật và Tịnh đều mang đặc tánh
phổ thông. Chẳng cần biết là tông nào, đều
phải thọ tŕ giới luật, đều có thể
kiêm tu niệm Phật. Bởi lẽ, không giới hạnh
th́ vạn đức chẳng lập, có niệm Phật
th́ sẽ thành tựu ổn thỏa nhất.
PHẦN
THỨ HAI:
PHẬT
THẤT KHAI THỊ
I. KHAI
THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM NHÂM TƯ
(đệ tử Ngô Thông Long kính
ghi)
1. KHAI THỊ LẦN THỨ NHẤT
Niệm Phật
kết thất tính đến nay đă là hai mươi ba
năm rồi, những liên hữu đă mất tính ra có
đến một ngàn sáu trăm vị. Có vị
được văng sanh, có vị chẳng văng sanh. Số
văng sanh chiếm thiểu số, phần nhiều là
thuộc vào thời gian mười năm trước,
mười năm sau thật là ít ỏi. Sa sút như
thế, chẳng buốt ḷng sao! Chuyện cũ lỡ
rồi, tương lai phải gắng, xin hăy bắt
đầu từ hôm nay!
Niệm Phật
để được văng sanh, để
được giải thoát thực sự. Kết thất
là “khắc kỳ cầu
chứng”, tức là trong thời gian định kỳ
cầu đạt được chứng cứ chứng
tỏ ḿnh sẽ văng sanh - chứng cứ ấy chính là Nhất
Tâm Bất Loạn. Nhất Tâm Bất Loạn chính là lẽ
bí mật của kinh. Kết thất chẳng
được Nhất Tâm chính là đă để lỡ
dịp. Làm thế nào để đạt được?
Có nhiều nhân để thành tựu, nhưng quan trọng
nhất chỉ có hai:
- Một là
người lập đạo tràng phải phụng hành
đúng với giáo pháp.
- Hai là người tu
hành phải tu đúng như pháp.
Kế đó, lại
phải chân thành. Mọi pháp thế gian c̣n phải chân tâm
thật ư th́ mới có hy vọng tựu về sau, huống
hồ là Phật pháp? V́ thế phải hết sức thành
khẩn tu tập. Nếu không th́ chẳng những vô ích mà
c̣n chiêu lấy tội lỗi.
Đả thất
giống như dựng ṭa lầu lớn cao trăm
thước. Muốn xây được th́ phải thực
hiện ba giai đoạn công tác:
- Dọn sạch
sẽ cuộc đất ḿnh định xây, dẹp bỏ
các chướng ngại vật.
- Bồi đất
đá lên trên ấy.
- Xây móng thật kiên
cố rồi mới có thể xây lên từng tầng.
Đả thất
cũng thế, đó chính là “kiến thiết tâm lư”,
cũng có ba tầng thi công:
- Đem hết thảy
những chuyện nhân, ngă, thị phi khắp toàn thân bỏ
xuống hết, chẳng được dùng ngàn vạn tâm
t́nh niệm Phật. Trong ṿng bảy ngày phải chú
trọng buông bỏ vạn duyên.
- Đối với
những người dự Phật Thất nhưng
vẫn ngủ ở nhà th́ phải gắng sao thân tuy ở
nhà, nhưng tâm thường ở chùa Linh Sơn. Trên đường
đi về, niệm niệm nghĩ đến Phật.
- Một khi
đến đạo tràng, đừng tṛ chuyện, hàn
huyên, “ít nói một câu
chuyện, niệm nhiều một câu Phật, đánh
chết mỗi ư niệm, để Pháp Thân được
sống”. Chỗ này đă là đạo tràng th́ hễ
ngồi xuống liền bắt đầu niệm
Phật, chớ đừng có lên lên xuống xuống,
ngồi đứng chẳng yên, tự gây những
chuyện phiền toái vặt vănh, phương hại
người khác, tạo thành tội vạ lớn.
Ba điều như
thế, hăy siêng phụng hành!
Lại nói đến
phương pháp niệm Phật th́ một câu Phật
hiệu từ tâm đề khởi, từ miệng
niệm ra, nghe suốt vào tai, cần phải phân minh.
Lại c̣n phải ghi nhớ số (bất tất dùng xâu
chuỗi) từ một đến mười. Chỉ
cần nghe được rơ ràng là đă đạt công phu,
tức là đă Nhất Tâm niệm Phật đó vậy!
2. KHAI THỊ LẦN THỨ HAI
Phật Thất khai thị là nhằm làm cho hành giả giác ngộ, ắt phải tự giác ngộ th́ sau mới có hy vọng thành công. Bởi thế điều thứ nhất là phải giác, giác như thế nào? Giác t́nh thế hiện tại. Ngày hôm nay chúng ta phải giác ngộ ḿnh đang ở trong t́nh thế nào? Là giống như con cá vậy. Có người nghe vậy liền bảo tôi biết rồi, “cá” là giống như chữ “cá” trong bài kệ đọc lúc chiều tối:
Thị nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm,
Như thiểu thủy ngư,
Tư hữu hà lạc?
(Ngày hôm nay đă qua,
Mạng theo đó
cũng giảm,
Khác nào cá thiếu
nước,
Điều ấy có vui
chi?)
Nhưng chữ
“ngư” tôi nói ở đây không phải chỉ có nghĩa
như vậy, mà “ngư” đây là con cá đang nằm trong
nồi, ở dưới để sẵn củi. Tuy trong
nồi có nước, tạm thời cá có thể bơi qua
bơi lại, tiêu dao tự tại, nhưng nguy hiểm
đến cùng cực, chỉ chờ lúc củi bén lửa
th́ phận cá sẽ ra sao? Các vị nghĩ xem! Hoàn cảnh
của chúng ta đây giống hệt như thế đó,
bị ác ma giam chặt trong chảo dầu do chúng tạo,
sớm tối sẽ bén lửa. Đây chính cái gọi là
thời đại bom nguyên tử! Tuy bom nguyên tử là do
Mỹ, Nga tấn công nhau, nhưng ai dám bảo đảm
Đài Loan chẳng bị lănh họa. Dù chẳng bị nạn
trực tiếp, nhưng bị bụi bom nguyên tử
nhiễm thân, chết nát ra là chuyện tất nhiên! Chúng ta
phải nên nhận biết hoàn cảnh này, vị trí này.
Điều thứ hai là
phải sợ. Điều vừa nói trên chưa đáng
sợ, điều đáng sợ là nghiệp chưa tiêu nên
phải lănh chịu chẳng ngừng. Thử hỏi: Thế
giới này là ngũ trược ác thế, v́ sao quư vị
sanh vào đây? Lại v́ sao sanh nhằm thời này? Đều
do nghiệp lực khiến thành như vậy; v́ cộng
nghiệp, cộng cảm, cộng thọ vậy.
Đă như vậy th́
đừng có oán trời, trách người. Người có
công phu tốt tự có biện pháp tốt. Do cộng
thọ nên không tránh khỏi chết, nhưng chết đi
sanh về những nơi khác nhau là do công phu sai khác, tức
là lúc chết chính là lúc văng sanh. Nếu chúng ta đạt được
Nhất Tâm th́ ngay hiện tại sẽ đạt
được “cộng trung
bất cộng” (dù cùng cộng nghiệp mà chẳng
phải cùng chịu khổ quả), tương lai văng sanh
cũng ổn đáng. Nhưng nếu nay chúng ta chưa làm
được như vậy th́ chết đi sẽ
lại hướng đến tam đồ, lục
đạo! Đấy chính là điều chúng ta phải nên kinh
sợ.
Điều thứ ba là
nên tiếc. Học Phật, niệm Phật đến nay
đă là hai mươi ba năm, nhưng trong số
những người cùng tu vẫn chưa có ai nắm
vững. Tiếc thay! Tiếc thay! Cơ duyên trước
mắt một phen mất đi, khó thể có lại
được. Đừng nói đời này chẳng tu
đợi kiếp sau, bởi lẽ “thân người khó
được”. Ví dù được làm thân người, nhưng
“Phật pháp khó nghe”, chưa chắc đă được
nghe Phật pháp. Ví dù được nghe Phật pháp,
chưa chắc được nghe pháp môn Tịnh Độ. Ví
dù được nghe pháp môn Tịnh Độ, chưa chắc
có thể kết thất như ngày hôm nay. Thử nghĩ
xem: đạo tràng của chúng ta giảng kinh như
thế, khai thị như thế, mỗi năm kết
thất mà vẫn chưa thành th́ huống hồ ǵ là
kiếp sau?
Vả lại,
người ta được thành tựu hay không là do
căn khí. Người đời có thể chia thành hai
loại là ngu si và thông minh.
- Kẻ ngu tuy
được khai thị, nhưng nghe rồi tâm chẳng
tiến triển, không hề giác ngộ. V́ sao đến
nỗi như thế? Do ba độc trong tâm đầy
dẫy, độc phát ra ngoài nên hiện tướng
như thế. Hạng người này ngă kiến rất
nặng, thường khởi phiền năo, khó độ
được! Nhưng bọn họ đời này
tạo ác hơi ít, đấy là điểm sở
trường của họ.
- Hạng thông minh
đời này tạo ác tuy lớn, nhưng dễ giác
ngộ, nếu gặp được thiện tri thức
uốn nắn sẽ mau biến chuyển, dễ độ!
Thứ hai là
đều do nghiệp lực đời trước
tạo thành như thế. Nghiệp lực vô biên nên ngay
trong thời đức Phật, vẫn có kẻ Ngài
chẳng độ được. V́ thế mới nói “phước chí tâm linh”, nghe
pháp rồi tấn tu quả là kẻ có phước
vậy!
Thế nhưng
Phật pháp vô biên, đối với mỗi căn khí
đều có phương tiện. Tổ sư Ngẫu Ích
đă dạy cho kẻ ngu pháp “sám hối hồi
hướng”. Đối với hết thảy những
sự nơi thân, khẩu, ư, hễ lành th́ hồi
hướng Tây Phương, hễ ác bèn sám hối ngay lập
tức. Ngay cả việc lành sám hối đó cũng
đem hồi hướng Tây Phương. Kẻ si
chẳng thể phân biệt thiện ác th́ cứ nhất
loạt sám hối, nhất loạt hồi hướng. Tâm
quyết định như thế th́ niệm niệm
tại Tây Phương, lực dụng rất lớn. Cách
thực hiện như sau:
1) Sau hai khóa lễ
sáng tối liền sám hối, hồi hướng.
2) Thường ngày
hễ gặp cảnh trái ngang, lăng nhục, khốn
khổ liền lập tức sám hối, hồi
hướng. Bởi đấy là do túc nghiệp tạo
thành như thế cho nên phải sám hối nghiệp
nặng.
3) Lúc tâm khởi ác
niệm, phiền năo bèn lập tức sám hối. Do
nghiệp lực nên phiền năo thường khởi,
đừng đổ lên người khác. Nếu không,
hậu báo vô cùng vậy. Bởi lẽ, những chuyện
ngang trái v.v... là do nghiệp lực, chịu xong liền
hết. Nếu lại khởi phiền năo gieo vạ cho
người khác th́ sẽ xoay vần báo trả nhau, chính là
ḿnh tự hại ḿnh vậy!
Ba thứ sám hối
hồi hướng như thế chính là pháp môn mất
nhiều năm tôi mới cầu được, nay
tặng cho quư vị. Quư vị hăy thực hành, đừng
khinh là tầm thường. Tổ Ngẫu Ích bảo sám
hối, hồi hướng lại thêm niệm Phật th́
không ai là chẳng thành cả!
Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một câu
tiêu trừ được trọng tội trong tám
mươi ức kiếp sanh tử”. Trong hai mươi
năm qua, quư vị không một ai niệm được
như vậy. Chí tâm là lúc niệm Phật trước
hết phải dọn tâm cho thật sạch sẽ,
rỗng rỗng rang rang th́ ngay khi ấy, một câu Phật
hiệu thông trên suốt dưới, không c̣n ǵ khác cả.
Niệm chí tâm như thế th́ mới ḥng đạt
được Nhất Tâm Bất Loạn. Quư vị
niệm Phật hăy nên theo nguyên tắc này, nhưng làm
thế nào để chí tâm? Xin đáp: “Tội từ tâm khởi dùng tâm sám”. Do c̣n tội
nghiệp nên tâm khởi phiền năo. Lúc tâm khởi phiền
năo th́ sẽ tạo tội nghiệp. Ngay lúc ấy phải
sám hối cho nó tiêu mất. “Tâm
đă diệt rồi tội cũng không”. Do c̣n tội
nghiệp nên chẳng thể chí tâm. Tội nghiệp đă
diệt sẽ tự nhiên chí tâm. Bởi thế bảo: “Tội diệt, tâm mất
thảy đều không, thế mới gọi là chân sám
hối”. Niệm Phật như thế th́ đạt
được chí tâm, diệt được trọng
tội, dù bom nguyên tử có rơi xuống cũng chẳng
ngại ǵ. Kệ rằng:
Tâm nhất phân minh đoạn hoặc th́,
Văng sanh chứng quả thượng hà nghi,
Tuy nhiên thường thuyết Hoặc nan
đoạn,
Sám hối huyền môn tích bất tri.
(Tâm đă phân minh
đoạn Hoặc rồi,
Văng sanh chứng
quả há c̣n nghi,
Tuy thường hay
bảo Hoặc khó đoạn,
Sám hối huyền
môn tiếc chẳng hay)
Nếu niệm
đến Nhất Tâm Bất Loạn th́ chính là lúc
đoạn Hoặc. Như vậy ắt được
văng sanh, văng sanh rồi ắt mau chứng Phật quả.
Lư thật phân minh, c̣n nghi ngờ ǵ nữa? Tuy nói là
đoạn Hoặc rất khó, đoạn một phẩm Kiến
Tư Hoặc như cắt đứt ḍng sông chảy
mạnh rộng đến bốn mươi dặm,
nhưng vẫn có pháp môn mầu nhiệm chính là sám hối
hồi hướng. Đấy chính là huyền môn. Tiếc
rằng người đời chẳng biết. Niệm
Phật mà biết phối hợp với pháp môn này th́
sẽ thành tựu dễ dàng!
(đệ tử Hà Mỹ Tuyết kính ghi)
1.
KHAI THỊ LẦN THỨ NHẤT
Thưa các vị lăo
sư, các vị đồng tu,
Từ khi Linh Sơn Tự có
Phật Thất đến nay đă là hai mươi lăm
năm, có thể duy tŕ lâu dài liên tục, chẳng gián đoạn
như thế thật chẳng phải là chuyện dễ.
Phật Thất mỗi năm, học nhân (lời cụ Lư
Bỉnh Nam tự xưng) đều đến tham gia,
chẳng dám bảo là khai thị, mà chỉ là đem
phương pháp niệm Phật và yếu nghĩa của
nó sách tấn, khuyên lơn các vị mà thôi.
Trong hai mươi
lăm năm, những điều cần nói đă nói qua
cả rồi. Gần đây học nhân bận rộn
lắm việc, trong thời gian tổ chức Phật
Thất, chỉ có thể đến hai lần. Những
điều nói ra đều là những câu lấy trong kinh,
hoặc từ ngữ lục của chư Tổ Sư.
Học nhân vô học vô đức, ngoài những lời
kinh, lời Tổ dạy th́ không c̣n ǵ để nói,
những điều muốn nói cũng phát xuất từ
khuôn phép của tiền nhân. Những điều tôi nói trong
quá khứ, chưa chắc quư vị đă nhớ hết,
hoặc đă quên sạch, nên hôm nay nhắc lại th́
cũng như mới nói.
Lần này học nhân
thay đổi phương thức, in dàn bài tặng quư
vị tham khảo. Bởi v́ xem dàn bài nghe giảng, ấn
tượng càng khắc sâu, dễ hiểu rơ trọn
vẹn, nghe xong có thể đem về nghiên cứu kỹ
càng. Nếu như quư vị nhờ đó mà đạt
được cảnh giới tốt th́ cố nhiên là
rất tốt. Nếu như thấy không tiến bộ ǵ
th́ xem đọc lại nhiều lần, cốt sao đúng
pháp thực hành, lâu ngày chầy tháng nhất định
sẽ được lợi ích.
Chúng ta tu pháp môn
Tịnh Độ mục đích là tương lai chứng
đắc Phật quả. Tu các pháp môn khác mà muốn
chứng Phật quả th́ phải trải qua ba
đại A Tăng Kỳ kiếp; trong trăm vạn
người khó có một người thành tựu. Phật
Quả tuy tốt, nhưng ai có thể chứng
được? Trong pháp môn Tịnh Độ th́ chỉ
cần tại thế giới Sa Bà này, trong ṿng mấy
mươi năm ngắn ngủi, một câu A Di Đà Phật
niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn th́ liền
được văng sanh. Sau khi văng sanh, trong một thời
gian ngắn thành địa vị bổ xứ Bồ Tát,
thành Phật rất dễ. V́ vậy, pháp môn này dễ tu,
đáng gọi là “độ
khắp ba căn, gồm thâu lợi, độn”.
Thượng căn được lợi mà bọn
độn căn chúng ta cũng có thể được
lợi. Ai ai cũng tu được, đều có thể
thành tựu.
Hễ ai tu Tịnh
Độ đều biết những câu “vạn nhân tu vạn nhân khứ” (vạn
người tu, vạn người văng sanh), “đới nghiệp văng sanh”,
“Nhất Tâm Bất Loạn”, nhưng mọi
người đều chẳng muốn hiểu kỹ ba
câu này. Tôi đă từng giảng qua, nhưng ai nấy
đều hiểu lầm ư nghĩa của chúng, vẫn
chưa thể hiểu sâu, hiểu đúng, hiểu tỉ
mỉ, cho nên chưa thể thành công được.
Mấy
năm gần đây, thấy công phu các vị thụt lùi
lớn. Nhớ năm năm đầu lúc mới mở
Phật Thất ở Đài Trung c̣n khá, chứ năm năm
sau đó đă kém hẳn, năm năm kế tiếp
đó càng tệ hơn nữa. Công phu đă chẳng
tiến, trái lại c̣n lui sụt. Đă thế niệm
Phật đều chẳng phấn khởi tinh thần.
Đây là lời thực, học nhân đến đây chỉ
mong quư vị đạt được lợi ích chân
thật. Bởi thế, chẳng thể khen ngợi quư
vị được. Tâng bốc quư vị th́ không chỉ
chẳng được văng sanh mà trái lại c̣n làm hại
mọi người. Nay đem ư nghĩa chân thật của
ba câu ấy nói ra, quư vị sẽ liền biết rơ công phu
của ḿnh như thế nào.
* “Vạn tu vạn nhân
khứ”
Đây chính là lời
của Tổ Sư, hoàn toàn chẳng sai lầm,
dưới đây tôi sẽ nêu bốn điều
để giảng pháp chân chánh, khiến cho quư vị
chẳng c̣n hiểu lầm ư nghĩa câu này nữa.
a. Tu phải nhận thức rơ
Chánh Trợ Song Tu
Tu tức là chiếu
theo pháp môn Tịnh Độ mà tu, phải nhận thức rơ Chánh
Trợ Song Tu. Chánh tức là công phu căn bản, chỉ
niệm sáu chữ hồng danh “nam mô A Di Đà Phật”. Đây là
công phu chánh, ai cũng biết niệm. Chẳng học
Phật cũng biết niệm, nhưng không hiểu
nghĩa. Nay tôi giải thích đại lược:
1)
Một câu “nam mô A Di Đà Phật” là Pháp Giới Tạng Thân,
bao gồm cả thập phương tam thế chư
Phật.
2) Một câu “nam mô A
Di Đà Phật” bao trùm cả mười hai bộ loại
kinh điển trong Tam Tạng, tức là chữ A đă bao
gồm toàn bộ giáo pháp của Tam Tạng.
3) Sáu chữ hồng
danh là vua của các chú, sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật” là
chữ bí mật, chẳng phiên dịch. Cả sáu chữ
đều chẳng phải là tiếng Hán. Pháp này cao tột,
thù thắng hơn tŕ tụng bất cứ chú ngữ nào
khác.
4) Học Phật
phải tu Định. “Hoa Nghiêm
đại định” chính là Di Đà đại
định. Nhất Tâm Bất Loạn chính là định,
đạt được Nhất Tâm là thành công. Đấy
chính là chỗ mầu nhiệm của pháp môn Tịnh
Độ.
Hai mươi năm
trước đây, ngoại trừ những lúc có Phật
Thất, mỗi Chủ Nhật, học nhân đều
đến đây giảng kinh, phần lớn các kinh đă
giảng qua, nhưng học nhân thường nói: Giảng
kinh chẳng thể liễu thoát sanh tử, chỉ là
để kết duyên nhằm khiến chúng sanh hiểu rơ ư
kinh, cải biến tâm lư, thực tiễn tu hành. Dù cho có
giảng kinh trăm năm, hằng ngày giảng kinh cũng
chẳng thể liễu sanh tử. Chẳng bằng kẻ
chẳng hiểu giáo lư nhưng biết niệm sáu chữ
hồng danh, niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn bèn
được lợi ích rất lớn.
Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển lộ bổn tánh Chân Như. Niệm đến Nhất Tâm th́ tâm minh, tánh hiển, đấy là thành công. Nếu chỉ đàm huyền luận diệu th́ tu bao nhiêu năm cũng chẳng thể giải ngộ tâm tánh. Xin quư vị nghe kỹ: Sáu chữ hồng danh “nam mô A Di Đà Phật” chính là bổn tánh của quư vị, bổn tánh chính là tâm của quư vị.
Thiền Tông chê Tịnh Tông rằng: “Ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm, trí nhân cầu tâm bất cầu Phật” (kẻ ngu cầu Phật chẳng cầu tâm, người trí cầu tâm chẳng cầu Phật). Quư vị cầu tâm hay cầu Phật? Nếu cầu Phật th́ là người ngu v́ chẳng biết tâm quư vị chính là Phật, Phật chính là tâm quư vị. Tâm và Phật vốn là một, v́ vô minh ngăn che nên Phật là Phật, tâm là tâm, tâm và Phật bị chia thành hai, đều là do quư vị tạo ra. Nay quư vị niệm Phật chính là hiển lộ bổn tánh của ḿnh: “Mười phương tam thế Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Phật quá khứ có Pháp Thân, Phật vị lai cũng có Pháp Thân. Phật vị lai chính là chúng ta. Pháp Thân của chúng ta với Pháp Thân của Phật Thích Ca, Phật Di Đà là một không phải hai. Niệm Phật là khai hiển bổn tánh, là công phu chánh. Quư vị tu không thành công pháp môn này th́ có thể nói đoan chắc là quư vị tu các pháp môn khác cũng không thể thành tựu được. Nếu bỏ pháp môn này mà quư vị có thể thành tựu được th́ tôi chính là kẻ đại vọng ngữ, sẽ đọa địa ngục.
Tu chính là v́ tâm tánh của chúng ta bị vô minh ngăn che. Vô minh chẳng dễ nhận biết. Nói cách khác, vô minh chính là những hành vi giết, trộm, dâm, tham, sân, si v.v... hằng ngày của chúng ta. Tu chính là trừ khử những vô minh ấy, chẳng tạo nghiệp giết, trộm, dâm, chẳng khởi tham, sân, si, khiến cho bổn tánh tỏ lộ quang minh, đó tức là Tu.
Nhưng ai có thể biết được đạo lư này? Ai chịu thực hành? Mọi người vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh th́ làm sao minh tâm kiến tánh cho được? V́ thế phải dùng trợ lực để tiêu trừ giết, trộm, dâm, tham, sân, si. Trợ tu như thế nào? Tuy chẳng hiểu rơ Phật lư, nhưng cốt sao có thể phân biệt thiện ác, hiểu rơ hai câu sau đây là được: Hễ là điều ǵ bại hoại th́ đừng làm, đó chính là “chư ác mạc tác”. Nhẫn chưa được th́ cắn chặt răng đừng làm. Làm việc lành, dù lúc ban đầu chỉ miễn cưỡng làm. Đấy chính là “chúng thiện phụng hành”. Hành thiện dứt ác, giữ tâm lành, nói lời hay, làm việc tốt, đấy chính là phương pháp hỗ trợ công phu chánh, trừ khử vô minh. V́ thế gọi là “trợ hạnh”.
Nói rộng ra,
trợ hạnh là tu sáu Ba La Mật, nhưng khó hiểu, nên
chẳng cần phải nói đến. Phàm là điều ác
th́ dù có tặng quư vị khối kim cương nặng
mười vạn bảng (pounds), quư vị cũng
chẳng chịu làm. Đối với việc lành th́ dù
phải chịu trở ngại nào cũng cứ làm. Hai
điều này chính là “tùy duyên
tiêu cựu nghiệp, cánh bất tạo tân ương”
(tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng tạo họa mới
nữa). Lúc b́nh thường gặp thiện th́ làm, gặp
ác th́ bỏ. Khi niệm Phật th́ buông bỏ vạn duyên,
một ác niệm vừa khởi lên th́ liền dùng ngay
một câu “nam mô A Di Đà Phật” để áp chế nó. Thâu
tóm ba nghiệp thân, khẩu, ư, theo đó mà hành lâu ngày sẽ
được thành công. V́ thế bảo là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”.
b. “Bất chiếu tu bất năng khứ” (chẳng tu đúng theo đó th́ chẳng được văng sanh)
Tuy là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”, nhưng nếu chẳng tu đúng th́ chẳng thể văng sanh được. Ai cũng biết có Phật, có Ma. Ma chính là tham, sân, si, giết, trộm, dâm. Niệm một câu A Di Đà Phật là Phật lực khởi. Khởi tham, sân, si, giết, trộm dâm là Ma lực khởi. Ma lực và Phật lực ngang nhau. Phật, ma đấu nhau gọi là “đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Phật hay Ma đều là tâm của quư vị. Niệm Phật vẫn tạo nghiệp, khởi tham, sân, si, Phật và Ma hỗn tạp, tâm làm sao thanh tịnh được, làm sao sanh Tịnh Độ được? Sao có thể minh tâm kiến tánh cho được? Đă niệm Phật lại c̣n niệm Ma th́ chẳng phải là tu vậy. Nếu chẳng mau sửa đổi cơi ḷng, chẳng trừ khử tham, sân, si, th́ dù có niệm đến tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng chẳng được văng sanh. Đây là lời chân thật. V́ thế, quư vị phải mau thay đổi tâm ḿnh.
c. Thiểu tu công bất thành tựu (công tu ít th́ chẳng thành tựu)
Ngay lúc này đây, quư vị
chẳng khởi tham, sân, si, không giết, trộm, dâm v.v...
rất tốt, nhưng một khi bước ra khỏi
cửa này, xong Phật Thất là quên ngay. Ở đây
niệm Phật dăm ba ngày là chuyện hay, tiếc là quá
ít. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân
duyên mà được sanh về cơi ấy”. Thiện
căn tức là công phu chánh, phước đức chính là
trợ duyên. Tu ít th́ chẳng thể thành tựu, v́ vậy
cần phải tu nhiều.
d. Đa tu thị
thường bất đoạn (tu nhiều là
thường tu chẳng gián đoạn)
“Tu nhiều” là tu
thường, luôn luôn tu chẳng gián đoạn.
“Thường” là vĩnh viễn như thế, “bất
đoạn” là thời thời, khắc khắc nghĩ
đến chẳng gián đoạn. Xong Phật Thất
rồi, tâm vẫn chẳng biến đổi, chẳng
khởi những tâm giết, trộm, dâm, tham, sân, si,
hại người... Dù là nông, công, thương, công chức,
bác sĩ ai nấy cứ giữ nghề ḿnh, chẳng
trở ngại chi đến tâm quư vị cả. Ngoài xă
hội, học nhân suốt ngày làm việc, trong hai
mươi lăm năm, lo liệu đạo tràng, tuy
bị nhạo báng cũng chẳng tranh biện với ai.
Đây chính là hành Nhẫn Độ trong Lục Độ.
Người ta mắng chửi cũng chẳng sanh ḷng
giận. Huống nữa, lửa vô minh nổi dậy,
rừng công đức sẽ cháy tiêu. Xin nghĩ xem: Sân tâm
nổi lên, người khác chẳng suy xuyển ǵ, trái
lại ḿnh lại bị hại. V́ thế, học nhẫn
nhục chính là để đạt đại tiện nghi
vậy.
Tổ sư nói: “Tu đạo chẳng ngại lo
liệu công việc, cốt sao chẳng tổn
người th́ làm nghề ǵ cũng được”,
đều là v́ tu hành nhưng phải lo kiếm sống,
nương vào Tục để tu Chân. Nếu không như
thế th́ công phu chẳng thành, chẳng thể văng sanh. Thân
người khó được, nay đă được thân
người, nay quư vị tu hành chính là cơ hội
để liễu sanh tử. Nếu không liễu sanh
tử th́ tu hành ích chi?
“Bất đoạn”
tức là trong từng thời, khắc chẳng quên. Ta
chưa đạt được “tịnh niệm liên
tục” nói trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông, nhưng cứ tiếp tục tu chẳng
gián đoạn. Tâm chẳng đoạn th́ sẽ làm
được chuyện ấy. Niệm chẳng phải
là miệng niệm xuông mà phải chú tâm vào đó, tức là
tâm đặt nơi Tây Phương, tâm hướng về
Phật. Phải có ư niệm bất đoạn như
thế mới được. Hết thảy hành
động đều v́ sanh về Tây mà làm, không ǵ là không
làm như thế. Cho nên ăn cơm, mặc áo là để
sanh về Tây, mưu sanh nuôi thân là để sanh về Tây,
đều v́ tu hành, biến cải tâm lư mới nên. Như
học nhân làm việc công, dạy học, lại v́
những học sinh sáng dạ tuyên dương Phật pháp.
V́ thế học nhân nhận tiền công, chẳng nhận
tiền của thương thiên hại lư, nên chẳng
trở ngại ǵ đến việc tu hành.
“Thường” là
bất biến, sống trăm năm cũng chẳng thay
đổi. “Bất đoạn” là thời thời,
khắc khắc nghĩ đến ǵ th́ chú tâm vào đó. Tâm đặt
nơi Phật th́ tâm chính là Phật. Nếu tâm chẳng
đặt nơi Phật th́ tâm liền biến thành Ma,
thành bại hoại vậy.
Hôm nay, học nhân
đến đây bàn về pháp môn Tịnh Độ là nói
chuyện ǵ? Nói chuyện Chánh Trợ Song Tu. Quư vị
niệm Phật chính là Chánh Công Phu. Học nhân đến
giảng là giúp quư vị hiểu đạo, đó là
Trợ Công Phu. V́ thế, với bất cứ việc ǵ
tâm cũng đặt tại Chánh Trợ Song Tu là
được.
Từ trên đến
đây toàn là nói về câu “vạn
nhân tu vạn nhân khứ, bất tu bất năng khứ”.
Những câu khác ngày mai sẽ bàn.
Này quư vị!
Buông xuống vạn
duyên, đề khởi chánh niệm.
Một câu Di Đà,
thẳng đường mà niệm.
2. KHAI THỊ LẦN THỨ HAI
Thưa các vị lăo
sư, các vị đồng tu,
Hôm nay là đă là ngày
thứ sáu của Phật Thất. Xin mọi người
tinh tấn, rạng ngày nghe giảng giải, chiều
tối càng dụng công khẩn mật.
Phật Thất là để
cầu Nhất Tâm. Theo đúng lệ, khi giảng khai
thị th́ chẳng giảng kinh, chẳng thuyết pháp,
chỉ xem trong đạo tràng có điều ǵ tu hành
chẳng đúng pháp th́ đối trị căn bệnh
đó, ứng cơ mà nói, chứ nếu không th́ thành ra làm rối
thêm.
Lần này đặc
biệt cải biến phương thức đă dùng
nhiều năm, in dàn bài giảng giải, chứ lần
sau chẳng làm vậy. “Vạn
nhân tu vạn nhân khứ”, “đới nghiệp văng sanh”,
“Nhất Tâm Bất Loạn” là ba điều mọi
người dễ hiểu lầm nhất. Trong quá khứ,
đối với những điều này, tôi chỉ
lược giảng dăm ba câu. Người chân chánh
dụng công để cầu Nhất Tâm phải nên
hiểu rơ một cách xác thực. Đài Trung học Phật
đă hai mươi lăm năm, bây giờ lười
nhác, đúng là:
Đầu nhất niên, Phật tại tiền,
Đệ nhị niên, Phật tại Tây Thiên,
Đệ tam niên, Phật hóa vi vân yên.
(Năm đầu,
Phật hiện diện trước mặt,
Năm kế,
Phật ở Tây Thiên,
Năm thứ ba,
Phật hóa thành mây, khói).
Kinh Phật cũng
nói Bồ Tát mới phát tâm khác nào bậc Đẳng Giác,
tiếc thay vài năm liền lui sụt. V́ thế,
người phát tâm tu th́ nhiều, kẻ thành tựu
lại ít. Phải đâu Phật pháp không linh, mà là v́
mọi người chẳng tin, chẳng thể kiên tŕ
triệt để. Cứ hễ kiên tŕ mà tu th́ đối
với bất cứ một câu Phật pháp nào cũng
đều thành tựu được hết, chẳng
cần phải đọc Tam Tạng. Do chúng sanh vô
lượng, tâm tư vô lượng, nên mới có Tam
Tạng kinh điển, để đối ứng
căn cơ của chúng sanh mà nói.
Ngày hôm qua đă nói
về câu đầu tiên là “vạn
nhân tu, vạn nhân khứ”. Hôm nay nói về câu thứ hai là
“đới nghiệp văng sanh”. Phàm ai tu Tịnh
Độ cũng biết nói câu này.
Tu các pháp môn khác,
cần phải đoạn Kiến Tư Hoặc mới có
thể liễu sanh tử, xuất tam giới; nhưng
đa số chẳng biết Kiến Tư Hoặc là cái ǵ.
Bởi thế, người thành công khá hiếm. Lại c̣n
có lối nói “nghiệp tận
t́nh không”. “T́nh không” chính là t́nh thức hoàn toàn biến
thành trí huệ, thấu rơ bổn tánh. Mức độ “nghiệp tận t́nh không”
thấp nhất là chứng quả A La Hán, hiện tại
có mấy ai làm được?
* Đới nghiệp văng sanh
Câu “đới nghiệp văng sanh” là nói về người
tu Tịnh Độ; đối với các pháp môn khác nếu
đới nghiệp th́ tuyệt đối chẳng
thể giải thoát, chẳng thể liễu sanh tử.
Nhưng đa phần người tu Tịnh Độ
hiểu lầm là dù c̣n tạo tội nghiệp vẫn có
thể văng sanh, vẫn có thể thành tựu. Do nói như
vậy nên trong mười người tu, tám chín
người chẳng thể thành công.
Trong hai mươi lăm năm
tại Đài Trung, có hơn hai ngàn vị đồng tu đă
qua đời, nhưng lúc mất có lưu lại
tướng văng sanh để chứng nghiệm th́
chẳng nhiều hơn mười người. Sao
lại đáng buồn đến thế ấy?
Ư nghĩa chân thực
của việc “đới
nghiệp văng sanh” là như sau:
a. Nghiệp là túc nghiệp thiện ác
Nghiệp là những
tội nghiệp đă tạo. Phải biết là ai cũng
do thân, khẩu, tạo mười ác nghiệp, nhưng
chẳng phải là gây tạo trong đời này, mà là
từ trong bao kiếp lâu xa luân hồi trong lục
đạo đă tạo vô lượng, vô biên tội
nghiệp. Kinh nói: “Nếu
tội nghiệp có h́nh thể sẽ sớm chật cả
hư không”. Tạo tội th́ phải đền trả
trong lục đạo. Tội cũ chưa xong, đă gây
nghiệp mới, làm sao giải thoát được? V́
thế trong ngàn vạn người, không một ai
được giải thoát.
Hoặc bảo: “Niệm Phật một tiếng
tiêu trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh
tử”. Ai ai cũng nghĩ là niệm Phật tiêu
tội. Điều này không sai, nhưng “Đạo cao một thước, Ma cao một
trượng”. Sức Ma lớn là v́ ma sự nhiều.
Chúng sanh từ bao kiếp lâu xa đến nay toàn làm ma
sự, bây giờ chỉ niệm Phật dăm ba năm
th́ làm sao tiêu được? “Ma
cao” là ma nghiệp nhiều. Niệm Phật tiêu
nghiệp là như lửa nung chảy băng. Ví như
khối băng to như cái bàn, đốt ngọn lửa
nhỏ như đầu nén hương th́ lửa ít,
băng nhiều, làm sao tan băng cho được? V́
thế người tu hành mới thấy sức ma lớn
lao, Phật lực không linh; bởi thế, lắm kẻ
thoái chuyển. Nhưng nếu chẳng tu hành th́ một phân
đạo cũng không có. Chúng ta có được một
phân, một tấc đạo là đă chẳng uổng rồi!
b. Đoạn Hoặc giải thoát theo cách thông
thường
Ngoại trừ
Phật pháp, không có biện pháp nào khác để thoát khỏi luân
hồi. Các tôn giáo khác đều cho rằng Thượng
Đế là chí cao vô thượng, nhưng Thượng Đế
vẫn c̣n ở trong luân hồi lục đạo. Mục
tiêu của nhà Phật là thoát luân hồi. Làm thế nào
để thoát? Phải “nghiệp
tận, t́nh không”, nghiệp trong nhiều kiếp lẫn nghiệp
hiện tại phải nhất loạt tiêu sạch.
Đời này không tiêu hết th́ gắng tiêu trong ngàn kiếp,
vạn kiếp. Thành bậc A La Hán c̣n phải sanh tử
trong nhân gian hay cơi trời bảy lần mới
đoạn hết Kiến Tư Hoặc, liễu sanh
tử, nhưng vẫn c̣n Trần Sa Hoặc chưa
đoạn. Đủ thấy đoạn Kiến Tư
Hoặc khó khăn. Ví như có vạn phẩm Hoặc, dù
đoạn được chín ngàn chín trăm chín
mươi chín phẩm, vẫn c̣n một phẩm chưa
đoạn th́ cũng chưa giải thoát. Học nhân
học Phật hơn năm mươi năm, một
phẩm c̣n chưa đoạn được, biết làm
sao đây?
c. Đới nghiệp là chế phục nghiệp
hoặc chẳng cho chúng khởi dậy
Học nhân tu hành,
giảng kinh năm mươi năm, gặp
được vài vị minh sư, đối với
học lư cũng biết được một hai
phần, nhưng một phẩm Hoặc cũng chưa
đoạn được. Quư vị tu hành chưa lâu,
Hoặc là thứ ǵ c̣n chưa biết rành th́ đoạn
Hoặc sao được? Khác nào mài đao mà chẳng
biết đao như thế nào th́ mài sao được?
Chúng ta chưa
đoạn được Hoặc th́ chẳng thể
giải thoát. V́ thế đức Thích Ca Mâu Ni đại
từ, đại bi nói ra pháp môn Tịnh Độ, dạy
chúng sanh niệm A Di Đà Phật, chẳng cần phải
đoạn Hoặc, chỉ cần chế ngự
được Hoặc liền có thể giải thoát.
Đoạn Hoặc và
Phục Hoặc (chế ngự Hoặc) khác nhau như
thế nào? Đoạn Hoặc giống như trong chén đă
thanh tịnh, vô nhiễm, dù có nghiêng đi cũng chẳng
đổ cát bụi ra. Phục Hoặc giống như
trong chén có cát bụi, dùng vật khác đậy lên, có nghiêng
chén cũng chẳng đổ bụi ra, nhưng cát bụi
vẫn c̣n chứa bên trong. Nghiệp tận chẳng bị
luân hồi, tu Tịnh phục Hoặc th́ cũng chẳng
lọt trong lục đạo.
Nhưng Hoặc
vẫn c̣n th́ phải làm sao? Luôn luôn dùng sáu chữ hồng
danh đè nén chúng, lâu ngày thuần thục, đến lúc
mạng chung, nếu khởi tâm niệm Phật th́ các tạp
niệm bị chế phục chẳng khởi lên nên có
thể mang theo nghiệp đi văng sanh (đới nghiệp
văng sanh). Sanh qua cơi kia rồi mới đoạn Hoặc,
chỉ mấy ngày là thành công. Đấy là Phục Hoặc.
d. Phục Hoặc th́ tâm và Phật giao cảm với
nhau
Chỉ cần
chế phục Hoặc sẽ chẳng tạo nghiệp
nữa, nên sẽ cảm ứng đạo giao cùng
Phật. Đấy chính là ư nghĩa chân thực của “đới nghiệp văng sanh”,
tuyệt đối chẳng phải là vừa niệm
Phật, vừa tạo tội vẫn được văng
sanh!
* NHẤT TÂM BẤT LOẠN
Đây là điều dùng
để chứng minh công phu, nay tôi sẽ giải thích
sơ lược.
1. Đắc Nhất Tâm th́ quyết định thành
tựu
Đắc Nhất Tâm
nhất định thành tựu, v́ chính là đắc
đại định.
2. Nhất định phải theo thứ tự
tấn tu
Nhất định
chẳng thể vừa tu liền thành ngay, phải tấn
tu từng bước một, như châu gieo xuống
nước, lần lượt ch́m dần.
3. Muốn thành công th́ phải tu tập dần
dần mới thành tựu trọn vẹn được
Muốn thành công th́
phải tu dần dần th́ mới có thể viên dung.
Hằng ngày ở nhà phải luyện Nhất Tâm th́
đến đây mới ḥng luyện được
Nhất Tâm. Nếu không th́ dù có nhập thất hơn ba
trăm ngày tâm vẫn loạn, dự một kỳ Phật
Thất ngắn ngủi này làm sao đạt
được Nhất Tâm? Đấy chẳng phải là
cầu may, may ra được Nhất Tâm hay sao? Hăy nên
tự hỏi ḿnh, đừng hỏi ai khác.
4. Thành tựu Nhất Tâm chính là ác niệm chẳng
khởi
Nếu đắc Nhất Tâm th́ giết, trộm, dâm, tham, sân, si chẳng khởi. Nên biết rằng ác khởi chính là ma. Tâm chúng ta dù khởi ác, nhưng nếu chế phục chúng chẳng cho phát tác th́ liền có thể thành công.
Kệ rằng:
“Nhất niệm độc tâm sanh”: “Độc” chính là ác niệm. Khởi ác niệm th́
làm việc hại người.
Nếu độc tâm
vừa sanh th́ hăy “gấp dùng
một câu Phật hiệu” đàn áp, mau mau dùng “nam mô A Di
Đà Phật” để trấn áp. Đấy chính là “phục Hoặc”.
“Ác ngôn bất xuất khẩu”: Lời hại
người, bốn nghiệp miệng chẳng để
xảy ra.
“Tổn nhân sự mạc tác” (việc hại
người đừng làm): phàm là những việc tổn
hại người hoàn toàn chẳng làm, cắn chặt
răng, bất luận là tự ḿnh phải chịu
khổ sở, thiếu hụt đến đâu, giữ
ḿnh chẳng tạo ác. Chẳng tạo chính là “phục”.
“Cửu cửu tự thành nhiên” (lâu ngày ắt sẽ
thành tự nhiên): Làm như vậy chẳng khó lắm ư?
Lúc ban đầu tuy khó, nhưng lâu dần quen đi sẽ
thành tự nhiên.
“Văng sanh khả đới nghiệp”: Do chế ngự
được Hoặc, lại có thể niệm Phật
nên liền có thể mang nghiệp đi văng sanh.
“Thị danh phục Hoặc pháp, chân thật bí
mật quyết” (Đây gọi là yếu quyết chân thật bí mật
của pháp chế phục phiền năo): Đây chính là yếu
quyết chân thật, bí mật. Nếu có thể thực
hành theo đó th́ nhất định được văng
sanh.
Này quư vị!
Hăy buông xuống
vạn duyên, đề khởi chánh niệm.
Một câu Di Đà,
thẳng thừng mà niệm.
* Bài kệ của
Tuyết Sư lăo nhân:
Nhất niệm tâm sanh độc,
Cấp áp nhất Phật thanh,
Ác ngôn bất xuất khẩu,
Tổn nhân sự mạc tác,
Cửu cửu tự thành nhiên,
Văng sanh khả đới nghiệp,
Thị danh phục Hoặc pháp,
Chân thật bí mật quyết
Tạm dịch:
Một niệm
độc tâm khởi,
Phật hiệu
đè gấp ngay,
Lời ác trọn
chẳng thốt,
Việc tổn
người chớ làm,
Lâu ngày trở thành
thói,
Được
đới nghiệp văng sanh,
Đây bí quyết chân
thật,
Bí mật để
phục Hoặc.
III. KHAI
THỊ TRONG DỊP KẾT THẤT NIỆM PHẬT ĐẦU
XUÂN GIÁP NGỌ
(đệ
tử Du Nhược Thu kính ghi)
Tại gia kết
thất niệm Phật chính là cách tiện lợi nhất
trong các phương tiện Phật Thất niệm
Phật. Nhưng muốn niệm Phật được
lợi ích lớn th́ lại cần phải hiểu rơ
đạo lư. Nếu chẳng hiểu rơ đạo ư th́ dù
có được lợi ích cũng chẳng lớn lao ǵ.
Bởi lẽ, đối với hai nghiệp thân khẩu
th́ miệng niệm Phật, thân ngồi trong đạo
tràng, ít ra cũng chẳng tạo nghiệp; nhưng v́ tâm
chẳng dễ nắm bắt nên vẫn khó tránh khỏi tạo
nghiệp.
Do v́ tâm là Lư. Lư
chẳng rơ th́ chính là phàm phu mê hoặc, điên đảo.
Phải hiểu Lư ấy như thế nào? Phàm học
Phật th́ bất luận là mười năm hay một
trăm năm cũng chẳng ngoài hai chữ “phước,
huệ”. Kinh dạy: “Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân
duyên để được sanh về cơi ấy”.
Kẻ mới học Phật quá nửa chú trọng tu
Phước, người tu lâu hay chú trọng tu Huệ.
Kỳ thật, Phước Huệ là một khối,
chẳng thể tách thành hai điều riêng rẽ. Nay tôi
giải thích lư này, chứ chẳng dám nói là Khai Thị,
lại xin quư vị nghe kỹ; nghe xong rồi nghiên cứu
kỹ càng.
Chư vị
đồng tu nghĩ xem niệm Phật là để làm ǵ?
Chẳng ngoài hiện tại tiêu trừ tai nạn,
tương lai được văng sanh Tây Phương. Tiêu
tai khỏi nạn chính là tu Phước. Văng sanh Tây
Phương chính là tu Huệ. Nếu hiện tại
chẳng thể tiêu tai, khỏi nạn th́ là chưa có
phước. Hiện tại đă chẳng thể tiêu tai
khỏi nạn th́ tương lai rất khó bảo
đảm được văng sanh. Chẳng thể văng sanh Tây
Phương chính là không có Huệ, là v́ chưa đắc
Nhất Tâm. Lẽ này quá b́nh thường, cũng rất
dễ hiểu rơ.
Chư vị
đồng tu nghĩ xem phải làm sao để hiện
tại tiêu tai khỏi nạn? Nói chung, xét ra là chẳng
thể làm được là v́ quá khứ đă tạo
nghiệp, ắt phải chịu báo, muốn khỏi
thọ báo th́ đừng tạo nghiệp. Nghiệp quá
khứ đă tạo vô phương cứu văn, chỉ c̣n
cách từ nay trở đi phải thay đổi tấm
ḷng, đem tâm biến thành “A Di Đà Phật”, nghĩ
tưởng thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp
nữa.
Trong số quư vị
đây, ắt có người nghĩ ḿnh niệm Phật
đă lâu nhưng sao chẳng đắc lực. Đấy là
v́ thời gian ta niệm Phật hiện tại rất
ngắn, mà nghiệp đă tạo từ vô thỉ
đến nay lại rất nhiều. Trong kinh dạy: “Nếu ác nghiệp có h́nh
tướng th́ trọn cơi hư không cũng chẳng
thể chứa hết nổi”. Ví như một gian nhà
lớn bốc cháy đùng đùng, toan cầm một chén
nước tạt vào mong dập tắt lửa th́
đấy là chuyện bất khả. Chỉ có cả xe
nước lớn của xe chữa lửa, lại liên
tục phun thêm nước vào, khiến cho lửa chẳng
lan rộng thêm th́ mới có thể dập được
lửa.
Lửa đó ví
như vô minh, phiền năo, nước như cam lồ
Phật pháp. Nước diệt được lửa là
ví cho Phật pháp có khả năng đối trị
phiền năo. Nhưng muốn diệt được
phiền năo nhiều đời, nhiều kiếp th́
chỉ có nhất tâm niệm Phật mới đắc
lực. Kinh dạy: “Chí thành
niệm Phật một tiếng diệt được
trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh
tử”. Quư vị đồng tu phải nghiến
răng quyết từ nay trở đi đừng làm các
điều ác, giống như chẳng đến bên
đống lửa lớn bỏ thêm các chất đốt
như củi, than, dầu hỏa v.v... Lại càng thêm
khẩn mật dụng công niệm Phật, giống
như đem từng xe, từng xe nước đến
dập lửa. Nhưng dập tắt lửa chẳng cần
phải dập hoàn toàn, chỉ cần dập tắt
chừng bảy phần, ba phần lửa sót lại do v́
có hơi nước hiện diện cũng dần dần
giảm yếu. Cuối cùng rồi cũng tắt hết.
Quư vị đồng tu cứ làm theo đúng như thế
th́ chẳng lâu sau, tự ḿnh cũng có thể niệm
Phật đến chỗ đắc lực
được.
Bây
giờ, tôi giảng v́ sao Phước và Huệ là một
khối chặt chẽ? Bổn tánh vốn thanh tịnh,
quang minh, nhưng do vô minh che lấp nên quang minh chẳng
xuất hiện được, khác nào tấm gương
bị bụi lấp nên chẳng soi tỏ được.
Hiện tại tu Phước giống như dùng khăn
lau chùi gương. Chỉ cần bụi rớt đi th́
ánh sáng sẽ tỏa ra. V́ thế, tu Phước chính là tu
Huệ. Các tông khác minh tâm kiến tánh, chứng quả A La
Hán rồi mới có thể liễu sanh thoát tử. Niệm
Phật th́ niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn
bèn thoát khỏi tam đồ lục đạo.
Hôm nay, tôi toàn
giảng về Niệm Phật, toàn là những chuyện
b́nh thường, rất dễ thực hành, c̣n việc
đàm huyền luận diệu th́ hăy tạm chẳng nói
đến bởi các vị đồng tu khi nghe giảng
kinh đă từng nghe qua rồi. Hiện tại, tôi chuyên
giảng phương pháp dụng công tu tập. Phật pháp
có mười tông phái lớn, nhưng chỉ có pháp Niệm
Phật của Tịnh Độ Tông là hữu dụng. Pháp
Niệm Phật của các tông khác chưa rốt ráo nên
vẫn chưa hữu dụng. Như có ba cách cứu
hỏa, chẳng dùng nước cũng có thể diệt
được lửa. Nếu lúc cứu hỏa không có
nước th́ có thể dùng một cái móc lớn kéo sập
cả căn nhà. Nóc đổ, tường đổ
cũng diệt được lửa. Điều này ví như
các tông khác chẳng nhờ vào Phật lực cũng có
thể liễu sanh tử. C̣n cách chữa lửa của Tịnh
Độ Tông là trước hết khiến cho thế lửa
chẳng mạnh thêm, rồi mới đem từng xe
nước dập lửa. Đây chính là ngoài Tự Lực c̣n
có thêm Phật lực. Trong các pháp môn, pháp môn Nhị Lực
này đặc biệt nhất.
Pháp môn này đă trọng yếu như thế th́ phải niệm cách nào? Có hai phương pháp niệm Phật: Một là niệm Phật, hai là nhớ Phật (ức Phật).
Niệm là niệm
ở đâu th́ chú tâm tại đó, tức là khi niệm
Phật th́ tâm đặt nơi Phật, tâm chính là Phật.
Chẳng hạn lúc chúng ta niệm Phật hai thời sáng
tối th́ niệm do tâm khởi, tiếng từ miệng
thoát ra lại lọt vào tai, tâm nhớ lấy. Ba nghiệp
thân, khẩu, ư cùng hợp lại niệm. Kinh dạy: “Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối”.
Lúc niệm cốt cho
tinh chứ không cầu nhiều. Tổ sư nói: “Chỉ cần niệm
được một trăm lẻ tám câu chẳng
loạn. Nếu có một câu niệm sai lạc liền
lần chuỗi niệm lại từ đầu”.
Niệm được một trăm lẻ tám câu Phật
hiệu từng câu phân minh, nhớ rơ chẳng lầm
lạc mới tốt. So với niệm cả ngàn câu,
vạn câu mà tâm tán loạn th́ lợi ích [của việc
niệm Phật chẳng tán loạn] phải lớn
hơn. Quư vị đồng tu đừng coi thường
một trăm lẻ tám câu đó. Nếu quả thực
quư vị có thể niệm được một trăm,
hai trăm câu chẳng loạn th́ công phu đă chẳng
uổng phí rồi. Chỉ e chẳng có mấy người
niệm được đến cả ngàn câu mà chẳng
loạn. Đây là lời chân thật!
Khi niệm Phật
phải buông xuống vạn duyên, chẳng luận là
niệm bốn chữ, sáu chữ, đều phải
đặt chắc toàn tâm toàn ư vào câu Phật hiệu.
Giả sử bốn bề cháy to, vẫn cứ niệm
Phật như thế chẳng gián đoạn, chẳng
loạn. Niệm Phật phải có sức mạnh như
thế, tâm luôn thường hằng như thế th́
mới thành tựu được.
Nhưng người
tại gia khác với hàng xuất gia. Từ sáng đến
tối đều phải làm lụng, bởi đối
với người xuất gia th́ củi, gạo, dầu,
muối... đều chẳng quản đến; nhưng
người tại gia có các nghề nghiệp sĩ, nông,
công thương, nghiệp để mưu cầu sự
sống. V́ thế, người tụng niệm một ngày
ba thời, năm thời không nhiều. Người
một ngày có thể niệm Phật đến ba tiếng
đồng hồ chẳng hiếm lắm, nhưng hai
mươi mốt giờ kia đều tán loạn, tạo
nghiệp. Đại đa số khóa sáng niệm nhiều, khóa
tối niệm ít, hoặc khóa sáng niệm ít, khóa tối
niệm nhiều. Công phu niệm Phật như vậy khác
ǵ nửa chén nước, làm sao cứu hỏa
được. Nhưng đức Phật có pháp
phương tiện, đó là “ức
Phật”.
Ức là nhớ rơ
chẳng quên. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo,
ăn cơm đều chẳng hề quên. Dẫu cho vào
chỗ nhà xí dơ bẩn nhất, trong tâm vẫn phải
có Phật, nhớ cho thật rơ ràng, rành rẽ. Quư vị
nghĩ xem có việc ǵ mà khiến ḿnh dính vào th́ đều
quên tuốt mọi thứ không? Đó là việc ǵ vậy? Chính
là “ăn”. Chim v́ tham ăn mà bị bắt nhốt vào
lồng, cũi. Cá do ham mồi nên mắc câu. Có thể nói
là hết thảy chúng sanh đang sống bị chết
đi đều là v́ cái ăn. Chúng ta mỗi ngày làm
lụng cực nhọc phi thường, chịu
đựng mọi thứ nhục nhằn, oan uổng,
khổ sở, gian nan cũng đều là v́ cái ăn. Có lúc
bụng ḿnh chẳng đói nhưng đến bữa
cứ ăn. Nếu niệm Phật cũng giống
như ăn vậy th́ tự nhiên sẽ thành công.
IV. KHAI
THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU
NGỌ
(đệ
tử Ngô Thông Mẫn kính ghi)
Hôm nay là ngày kết
thất thứ nhất. Việc đầu tiên là phải
hiểu ư nghĩa của việc kết thất chính là “khắc kỳ cầu chứng”.
Tu pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ th́ phải
đạt Nhất Tâm Bất Loạn mới có thành
tựu. Kết thất niệm Phật bảy ngày, nếu
khéo công phu th́ niệm một ngày liền đắc
Nhất Tâm. Muốn được vậy phải tu
nhiều năm, phải là người hiểu giáo lư
mới có thể làm được. Thứ đến là
hai, ba, bốn, năm, sáu ngày chẳng nhất định.
Tiếp đó là phải niệm đến ngày thứ
bảy mới chứng Nhất Tâm. Đấy là nói về
những người thanh tịnh cả bảy ngày, ngày
đêm niệm Phật không ngừng, trong bảy ngày
liền đoạn được Kiến Tư Hoặc.
Chỉ có người đoạn được Kiến
Tư Hoặc mới là người thực sự
đắc Nhất Tâm.
Nhưng đoạn
được Kiến Tư Hoặc rất khó, v́ thế, có
một phương pháp đặc biệt: Trước
hết, chỉ cầu chế ngự được
Hoặc mà thôi. Nghĩa là lúc Hoặc khởi dậy th́
liền dùng Phật hiệu chế phục nó. Công phu
luyện đến thuần thục th́ hễ Hoặc khởi
liền chế ngự được. Được vậy
th́ cũng gần giống như đắc Nhất Tâm,
cũng có thể đới nghiệp văng sanh.
Các tông tu hành chẳng
ngoài việc “chánh trợ song
tu”. Chánh công phu là trừ khử vọng niệm,
thấu triệt tâm tánh; trợ công phu là công phu giúp hiển
lộ tâm tánh, trừ khử những ma chướng phát
sanh bởi dụng công. Nay tôi theo thứ tự nói sơ
lược những pháp tu Chánh và Trợ của Tịnh
Độ.
Trước hết
nói về Chánh Công Phu. Trong ṿng bảy ngày, lúc nào cũng
phải giữ ḷng cung kính. Một phen bước vào
cửa chùa th́ cũng như vào gặp Phật. Pháp Thân
của Như Lai ở khắp mọi nơi, chẳng
phải chỉ ḿnh tượng Phật trên đại
điện mới xem là Phật, mà thật ra một
sắc, một hương không thứ nào chẳng phải
là diệu sắc, diệu tâm của Phật. Đối
với mỗi hoàn cảnh, nơi chốn như thế
đều xem như là Phật th́ ngôn hạnh tự nhiên
cung kính, chẳng c̣n lười nhác nữa. Cung kính chính là
bí quyết để hướng đến Bồ Đề.
Đây là tầng công phu thứ nhất.
Khi đă ngồi yên
rồi th́ phải buông xuống vạn duyên, quét sạch
mọi vọng niệm tạp sự thường ngày. Sau
đấy mới gom tâm về một chỗ, buộc tâm
nơi câu hồng danh. Giống như nơi ḍng
nước chảy xiết phải buộc chặt
thuyền bè vào cột th́ mới khỏi bị nước
cuốn. Đây là tầng công phu thứ hai.
Kế đó, trong khi
tŕ danh, phải giữ sao cho sáu chữ hồng danh từ
tâm tưởng khởi, từ miệng phát ra, nghe lọt
vào tai, ví như ba cái bánh xe xoay vần qua lại, cốt sao
tâm tưởng thật trong sáng, rơ ràng, miệng niệm
được rơ ràng, tách bạch, tai nghe rơ ràng, rành
mạch. Tự niệm, tự nghe như thế, từng
chữ dựa chặt vào nhau, trong khi niệm đừng
đánh mất một câu nào. Đây là tầng công phu thứ ba.
Thêm nữa, lúc chúng ta
niệm Phật, chẳng luận là miệng tụng hay ư
tŕ, hăy nên giữ cho không có tạp âm, chỉ c̣n mỗi ḿnh
tiếng niệm Phật. Do A Di Đà Pháp Thân ở khắp
mọi nơi, Phật quang cũng chiếu thấu
khắp nơi. V́ thế lúc niệm Phật, từ nơi
ta phát ra tâm thanh (âm thanh phát xuất từ tâm), tâm thanh ḥa
nhập vào Phật quang, Phật quang lại nhập vào tâm
thanh. Tâm thanh và Phật quang dung thông như thế th́ ta chính
là Di Đà, Di Đà chính là ta. Đây là tầng công phu thứ tư.
Theo
đúng những điều vừa nói ở trên, tinh
tấn tu tập từng tầng, khiến cho chỗ chín
biến thành chỗ sống, chỗ sống chuyển thành
chỗ chín. Đến khi đạt đến tầng
thứ tư th́ chính là ngày thành tựu Nhất Tâm vậy.
Tiếp
đến nói về Trợ Công Phu. Chánh Công Phu cố nhiên
là thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng, nhưng chúng
sanh từ vô thỉ kiếp đến nay quen thói phiền
năo đă sâu, vọng niệm tơi bời; nay muốn dùng
một câu Phật hiệu đè nén chúng cho khỏi tạo
nghiệp, không c̣n vọng tưởng, th́ tuyệt
đối chẳng thể thực hiện được
điều đó trong một thời gian ngắn. V́
thế, phải dùng Trợ Hạnh để giúp sức.
Nếu có thể
hằng ngày tự cảnh tỉnh, quan sát lỗi ác của
chính ḿnh, thành tâm sám hối, mong tiêu nghiệp chướng,
thấy người khác làm lành liền tùy hỷ, tán thán
để tăng phước đức; tùy hỷ, sám
hối như thế đều hồi hướng văng
sanh Tây Phương th́ đấy chính là Trợ Hạnh
thứ nhất.
Tiếp
đến là pháp Hân Yếm (ưa thích và nhàm chán). Trong các
sanh hoạt thường nhật, chẳng luận là
ăn, mặc, đi, đứng, đối với
mọi thứ trong cơi Sa Bà đều nhất loạt coi là
ô uế mà chán ĺa. Đối với các thứ trang nghiêm
được diễn tả trong ba kinh Tịnh Độ
đều tưởng là thanh tịnh, sanh ḷng ưa thích.
Chán ĺa th́ không tâm tham luyến. Vui mừng, hâm mộ th́
tự tăng thêm ư nguyện cầu sanh. Đến khi hân yếm
cùng cực th́ thân tuy ngụ Sa Bà, nhưng chẳng c̣n là
khách trọ lâu ngày trong cơi Sa Bà nữa; tuy chưa chứng
Cực Lạc, nhưng đă sớm là người
thường trú chốn Liên Bang. Đây chính là yếu quyết
mầu nhiệm của Tịnh Tông, chẳng thể nói là
giống như những lời lẽ “bất hân, bất yếm”
của các tông khác. Đây chính là Trợ Hạnh thứ hai.
Thêm
nữa, về pháp phương tiện để chế
ngự Hoặc, nên biết rằng niệm Phật
chẳng được Nhất Tâm là do vọng niệm làm
loạn. Nhưng vọng niệm chính là Hoặc, mà cũng
chính là Ma. Kinh Niết Bàn dạy: “Tu
Đà Hoàn đoạn Kiến Hoặc như cắt đứt
ḍng sông chảy mạnh rộng bốn mươi dặm”.
V́ thế muốn đoạn ngay được Hoặc
thật chẳng dễ dàng. Nay có cách tạm cầu chế
ngự Hoặc. Cổ đức bảo: “Bất phạ niệm khởi, đản khủng
giác tŕ” (chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ
biết chậm). Nếu cứ hễ ư niệm khởi
liền có thể nhận biết, biết rồi liền
dùng Phật hiệu chế ngự nó. Ma đến,
Phật chế ngự như thế, ví như dùng đá
đè cỏ. Đè lâu ngày, Hoặc chẳng thể tự
khởi, cũng được “phương tiện
Nhất Tâm”, đợi đến khi sanh về Tây
Phương rồi sẽ lại đoạn Hoặc. Đây
chính là pháp đặc biệt của Tịnh Độ,
chẳng thể dùng lư lẽ của các tông khác để
cật vấn được. Đây chính là Trợ Hạnh thứ
ba.
Hy
vọng mọi người bảy ngày sau đây, bất
luận là đang ở trong đạo tràng hoặc đang
trên đường về nhà đều tu như thế.
Tiếp theo đây tôi dùng một bài kệ để
kết luận:
Tịnh Độ nan tín khước
dị hành,
Toàn do nhị lực chánh
trợ công
Tất đắc Nhất Tâm phương
hữu hiệu,
Phương tiện phục Hoặc tức cảm
thông
(Tịnh Độ khó tin
nhưng dễ hành,
Toàn do hai lực Chánh
và Trợ,
Phải đắc
Nhất Tâm mới hữu hiệu,
Phương tiện
chế Hoặc liền cảm thông)
Sau cùng xin mọi
người buông xuống vạn duyên, thẳng thét mà
niệm một câu A Di Đà Phật!
V. KHAI
THỊ PHẬT THẤT TẠI CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU
NGỌ (lần thứ nhất)
(Tư
Thục Điền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích
Hà giảo chánh)
Thưa chư vị
lăo sư, chư vị đồng tu,
Hôm nay là ngày kết
thất thứ nhất. Riêng tại Đài Trung, sau khi quang
phục[1],
bắt đầu kết thất tại chùa Linh Sơn,
tính đến nay kết thất cũng gần
được ba mươi năm rồi. Nói đến
việc mở Phật Thất suốt ba mươi năm
chưa hề gián đoạn th́ thật là điều
rất khó có được, hoàn toàn là do nhân duyên. Hôm nay, tôi xem
thấy những bạn đồng tu trong đạo tràng
này, đồng tu cũ cũng có, đồng tu mới
cũng có, giảng nói càng khó hơn, biết làm sao đây?
Nếu giảng sâu th́ bạn đồng tu mới nghe
sẽ chẳng hiểu. Nói sơ lược ư? Lại
sợ bạn cựu tu đă nghe qua nhiều lần
rồi. V́ thế, tôi chọn lấy những điều
trọng yếu mà tŕnh bày.
Trước hết
luận về kết thất. Kết thất chú trọng
nơi thực hành niệm Phật, hoàn toàn chẳng
phải là để giảng kinh, giảng giáo lư. Trước
hết, phải hiểu rơ như thế! Đă là để
nghiên cứu thực tu th́ nói càng ít càng tốt, nên tôi bèn chuyên
giảng “làm thế nào để đạt
được Nhất Tâm”. Ngoại trừ điều này
ra, chỉ nói in ít, nói nhiều càng thêm phiền. Gây phiền
thêm để làm ǵ? Mọi người đến đây
để cầu Nhất Tâm, nghe tôi thuyết pháp nhiều
th́ tâm càng loạn. Xin quư vị hiểu cho điều này.
Trước hết,
dùng mấy lời như vậy để minh định
rơ ràng. Hôm nay là ngày đầu tiên, trước hết,
cần phải tu hành đúng như pháp. Tu hành pháp môn nào
cũng phải có biện pháp của pháp môn đó, phải
dựa vào những biện pháp do Phật, Tổ đă
dạy chúng ta. Nếu như tự ḿnh suy diễn những
cách tu không dựa vào Phật pháp, hoặc dùng những
phương pháp tu của các pháp môn khác để tu th́ là
sai lầm vậy. Mỗi pháp môn có cách tu riêng của nó.
“Trở về nguồn không hai đường”, thế nào là không hai
đường? Nói chung là để minh tâm kiến tánh,
pháp nào chẳng thể minh tâm kiến tánh th́ chẳng tu. Do
có nhiều môn phương tiện nên phương pháp
cũng chẳng đồng nhất. Chẳng hạn
như trong nhà Phật có rất nhiều tông phái, nhưng
trong hai phái tối trọng yếu th́ một là Thiền.
Thiền chú trọng vào Không, thường quán Không, hễ
ngộ được một chữ Không th́ rất
tốt, nhưng Tịnh Độ Tông chẳng giống
vậy. Tịnh Độ Tông chú trọng quán Hữu. Có
phải là hai tông này mâu thuẫn nhau không? Kỳ thật
chẳng hề mâu thuẫn nhau dù chỉ một
điểm. Điều này có giáo lư đấy, nhưng hôm nay
tôi chẳng giảng giáo lư, chỉ giảng những ǵ quư
vị có thể dựa theo đó mà tu cho tốt. Nếu
muốn hiểu kỹ về mặt giáo lư th́ chúng tôi có
giảng kinh tại thư viện hoặc liên xă, chứ
chẳng phải chỉ giảng kinh ở một chỗ,
quư vị có thể đến đó nghe.
Ở đây tôi chỉ chuyên
giảng sao cho quư vị đạt được Nhất
Tâm, để bảy ngày kết thất này của quư
vị không bị uổng phí. Trong kỳ kết thất
này, nếu chẳng đắc Nhất Tâm th́ uổng công
rồi. Quư vị phải biết là trước tiên
phải nhớ kỹ những lời giảng trong ngày
thứ nhất, mấy ngày sau đó quư vị nghe
người khai thị nói ǵ cứ thực hành theo đó là
ổn.
Ở đây chúng ta tu
Tịnh Độ, kết thất niệm Phật bảy ngày.
Niệm Phật bảy ngày để làm ǵ? Người
khéo công phu niệm một ngày liền đạt Nhất
Tâm. Chẳng phải là người hằng ngày luôn niệm
Phật th́ hôm nay đến đây niệm Phật một
ngày không cách chi đắc Nhất Tâm được!
Phải là người đă tu hành ít nhiều năm,
hiểu rơ giáo lư rồi, chỉ v́ một ḿnh người
ấy tu tŕ chẳng thể đắc Nhất Tâm,
đến đây tham dự Phật Thất mới có
thể đắc Nhất Tâm. Nếu công phu chưa khéo th́
từ một ngày đến bảy ngày chi đó bèn
đắc Nhất Tâm. Đây là nói về hạng người
nào? Là hạng người tinh tấn suốt bảy ngày,
chứ chẳng giống như bọn ḿnh, mỗi ngày
niệm vài cây hương là thôi. Họ niệm ngày đêm
không nghỉ nên bảy ngày liền đắc Nhất Tâm.
Nói cho quư vị nghe
điều thật tuyệt diệu này: Đạt Nhất Tâm
chính là đă đoạn được Kiến Tư
Hoặc trong ṿng bảy ngày. Điều này trong kinh không giảng
rơ v́ sợ quư vị tự tổn hại ḿnh. Đoạn
hết Kiến Tư Hoặc th́ đạt được
Nhất Tâm, chẳng đoạn được Kiến
Tư Hoặc th́ không thể đắc Nhất Tâm. Là v́
nếu Hoặc chưa đoạn th́ chúng vẫn c̣n
khuấy loạn trong tâm, quư vị đạt Nhất Tâm
sao được? Bởi vậy mới bảo: Nếu
công phu chẳng tận sức th́ dù có niệm cả
trăm năm cũng chẳng được Nhất Tâm!
Nếu thế th́ biết làm cách nào đây?
Tịnh Độ Tông có
một phương pháp đặc biệt là chế
phục Hoặc. “Chế phục Hoặc” nghĩa là
mỗi khi vọng niệm khởi lên, bèn dùng A Di Đà Phật
đè nén vọng niệm, hễ vọng niệm khởi
bèn dùng niệm Phật đối trị. Cách này rất
đơn giản, chỉ cần niệm thuần thục
là làm được. Nhưng trong cả ngàn người,
khó kiếm được một người niệm
thuần thục. Đại đa số, hễ một
vọng niệm khởi th́ vọng niệm khác liền
tiếp nối, rong ruổi theo vọng niệm, chẳng
biết đè nén vọng niệm, dùng A Di Đà Phật
để đè nén chúng. Đây là một công phu đơn
giản nhưng lắm người chưa làm
được là v́ duyên cớ nào? Là v́ nhiều
đời, nhiều kiếp đến nay, họ nghĩ
đến vọng niệm quá thuần thục rồi nên
tuyệt đối chẳng thể dùng A Di Đà Phật
để đàn áp vọng niệm được, có nói
cũng chẳng nghe. Nếu như vậy th́ chẳng c̣n biện
pháp nào cả. Quư vị phải hiểu rơ điều này.
Trên đây, tôi thưa chuyện cùng
quư vị mấy câu như vậy là nhằm tŕnh bày
những việc quư vị cần phải hiểu rơ
trước khi đả thất, chứ chưa khuyên quư
vị phải nên thực hành cách nào; giờ đây tôi
sẽ thưa. Sau này quư vị sẽ thấy những
lời ấy cũng rất b́nh thường. Quư vị
đừng phân biệt là b́nh thường hay không, cả
sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật” kể ra rất b́nh thường,
nhưng v́ sao nhiều đời, nhiều kiếp vẫn
không niệm được?
Chúng ta tu hành thực
tiễn, chẳng cần biết là tu theo tông nào, nói chung
tông nào cũng đều có hai phương diện:
- Một là Chánh Công Phu.
Thế nào là Chánh Công Phu? Thực hành Chánh Công Phu chẳng
ngoài mục đích để Tu Hành. Khai trừ, khử
sạch những Kiến Tư Hoặc, những thứ
loạn tạp rối bời trong tâm quư vị th́ gọi
là Tu Hành. Chúng sanh ai nấy đều có Phật Tánh.
Bổn tánh của quư vị chính là Phật Tánh, nhưng
đáng tiếc là tánh ấy bị các thứ bại
hoại che đậy. Biện pháp để trừ
khử hết sạch những thứ bại hoại
ấy th́ gọi là Chánh Công Phu.
- Ta hiểu
được những ǵ bại hoại cần phải
đào thải khỏi tâm này là một chuyện, nhưng
trừ bệnh đâu phải là chuyện dễ, v́ thế, cần
phải có công phu hỗ trợ (Trợ Công Phu). Mỗi tông
có công phu hỗ trợ riêng. Hôm nay tôi sẽ v́ quư vị phân
biệt rơ phải thực hiện Chánh Công Phu và Trợ Công
Phu như thế nào.
Quư vị đến
dự Phật Thất là v́ muốn đạt Nhất Tâm.
Đoạn Hoặc là Nhất Tâm, chế ngự
được Hoặc cũng là Nhất Tâm. Đạt
được Nhất Tâm th́ lúc lâm chung mới có thể
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không
được Nhất Tâm th́ không văng sanh. Đấy chính là
điều kinh A Di Đà đă dạy. Lấy lời kinh
dạy làm chuẩn. Lắm người cứ mơ hồ
cho rằng lúc ḿnh lâm chung, A Di Đà
Phật liền đến đón ḿnh. Thật ra th́
phải Nhất Tâm mới được Phật đón
tiếp. A, v́ sao vậy? Do tâm ḿnh phát lộ quang minh, quang
minh của A Di Đà Phật liền dơi theo đó, tiếp
dẫn ḿnh sanh về cơi kia. Nếu Kiến Tư Hoặc,
các thứ bại hoại phủ lấp quư vị, che
lấp quư vị th́ A Di Đà Phật cũng không có biện
pháp ǵ. Quư vị phải hiểu rơ điều này.
Mỗi khi chúng ta
bước chân vào cửa chùa Linh Sơn th́ liền thấy
Phật. Phật có Pháp Thân, Pháp Thân chẳng phải chỉ
hiện diện nơi tượng Phật đúc, mà
chỗ nào cũng có Pháp Thân, chỉ tiếc là bọn phàm
phu chúng ta chẳng thấy được. Bây giờ
mỗi khi ḿnh đến chùa Linh Sơn, thấy
tượng Phật phải coi như là Phật, coi như
là Phật đang ở ngay trước mắt. Tôi xin
hỏi quư vị một câu: Quư vị gặp Tổng
Thống th́ thái độ ra sao? Tổng Thống
đến đây th́ chẳng dám nói lời nào, ngồi ngay
ngắn, chỉnh tề, lưu tâm cẩn thận, hết
sức quy củ. Tổng Thống cũng chỉ là phàm phu
giống hệt như ḿnh. Gặp ông ta th́ ai nấy
đều có thái độ như thế đó, nhưng
gặp Phật lại chẳng được như
vậy, dù thấy Phật cũng xem như Phật
chẳng hiện diện, sao mà lầm loạn đến
thế? Quư vị ơi, quư vị làm như vậy là khinh
thường Phật quá đấy. Đừng nói chi
đến Tổng Thống, cục trưởng cảnh
sát đi tới, quư vị có sợ hay chăng? Coi Phật
không bằng viên cảnh sát trưởng như thế th́
quư vị [có tu hành] thành công được chăng? Tổ
Sư dạy như thế này: Điều đầu tiên là
phải cung kính. Mỗi khi đến đây, phải coi
như Phật đang ở ngay trước mắt, nói
năng, động tác hết thảy đều cung kính,
muôn phần cung kính. Nếu như trong tâm c̣n một
phần lười nhác, một phần chẳng cung kính th́
chẳng chứng được Nhất Tâm. Đây là
bước thứ nhất.
Đă cung kính rồi,
mỗi khi ngồi xuống niệm Phật hay lúc chẳng
niệm cũng đều như nhau, tiến lên nữa là
buông vạn duyên xuống. Thế nào là vạn duyên? Chính là
vọng tưởng khởi lên thời thời, khắc
khắc chẳng đoạn. Mỗi một vọng
tưởng là một hạt giống của một
lần luân hồi, một lần sanh tử, nguy hiểm
lớn lắm. Vọng tưởng là ǵ? Mỗi một
vọng tưởng là một Kiến Tư Hoặc, là
vật bại hoại, là bụi bậm. Khởi vọng
tưởng là tâm chạy theo bên ngoài. Chạy theo những
pháp nào bên ngoài? Nghĩ cái bàn, nghĩ cái ghế, nghĩ
đến cái ǵ tâm liền đặt nơi đó, tâm quư
vị hoàn toàn chẳng đặt yên nơi A Di Đà Phật.
Đây là chứng bệnh lớn gọi là Loạn. Nếu tâm
quư vị chạy lung tung th́ chẳng phải là loạn hay
sao? Làm thế nào đây? Trong tâm chỉ có Phật, đem
tâm đặt yên nơi Phật. Phật giống như
một cái cọc thuyền trên sông, tâm là chiếc
thuyền. Cột chặt thuyền vào cọc th́ c̣n trôi
đâu được nữa! Miệng không niệm
Phật nhưng trong tâm có Phật, giữ ḷng cung kính th́
Phật hiện diện ngay trong chúng ta. Chẳng dám
loạn tưởng th́ dù miệng không niệm cũng
được Nhất Tâm. Đây là tầng thứ hai.
Điều thứ ba là
lúc niệm Phật, niệm sáu chữ hay bốn chữ, dù
sáu chữ hay bốn chữ đều cùng một cách
niệm. Trước hết trong tâm phải tưởng.
Nếu trong tâm chẳng niệm, chỉ gào xuông ngoài
miệng th́ đấy chỉ là xướng ca, không nên!
Đồng thời trong tâm chẳng khởi hai ư niệm,
hễ nghĩ đến Phật th́ không c̣n có ư niệm nào
khác. Có ư niệm khác th́ ư niệm về Phật cũng không
c̣n. Điều này bọn chúng ta phàm phu thiếu công phu chưa
thấy rơ. Niệm Phật trong tâm tưởng, trong tâm rơ
ràng, trong trẻo. Miệng lại niệm ra, công phu
niệm ra cũng rơ ràng, tách bạch. Sau đó, chính ḿnh nghe,
nghe chính tiếng ḿnh niệm, nghe sáu chữ ấy cũng
rơ ràng, minh bạch, chẳng để sót chữ nào. Tâm
tưởng, miệng niệm ra, tai lại lắng nghe vào,
giáp ṿng như vậy th́ tâm không chạy đi đâu
được. Đó là một cách.
Niệm đến
mức nào? Quư vị khỏi cần phải hỏi ai là
ḿnh niệm đến mức nào cả. Quư vị như
thế nào người khác làm sao hiểu được.
Quư vị đă không hiểu ḿnh như thế nào th́
người khác làm sao hiểu được? Tôi chỉ
cho quư vị hiểu nhé! Quư vị niệm Phật cứ
tự ḿnh nghe, nghe chính ḿnh niệm Phật, chính miệng
ḿnh niệm Phật, chính ḿnh tự nghe. Bất cứ
thứ nào khác đều chẳng nghe thấy th́ công phu
của quư vị đă thuần, tự ḿnh niệm
Phật, tự niệm, tự nghe. Điều này khó làm
được. V́ sao? Ở nhà th́ không hề ǵ, ḿnh ở
trong nhà ḿnh, ḿnh niệm như vậy được,
nhưng đến đây dự Phật Thất, mọi
người đều niệm Phật, làm sao ḿnh không nghe
thấy được? Không nghe thấy là tốt, nhưng
nếu nghe thấy th́ làm cách nào? Nghe thấy cũng
tốt. V́ sao nghe thấy cũng tốt? Trong Tịnh Tông có
Trợ Niệm Đoàn để hỗ trợ lúc lâm chung. V́
sao gọi là Trợ Niệm Đoàn? Vong giả lúc lâm chung
bị hôn trầm, phong đao chia cắt thân, trong tâm
rối loạn. Vừa loạn vừa hôn trầm th́
Phật chẳng hiện hữu. Người trợ
niệm ở bên cạnh niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật” để lay tỉnh tâm niệm
người đó v́ sợ người sắp chết quên
khuấy chẳng đề khởi tâm niệm Phật.
Người chết nghe th́ cũng giống như chính ḿnh
niệm, chính ḿnh tự niệm, tự nghe. Quư vị nghe
người khác niệm cũng như chính ḿnh đang
niệm. Quư vị đến đây niệm Phật là
tự ḿnh nghe, người khác niệm Phật giúp cho quư
vị, sợ quư vị quên đi. Quư vị có thể
nghỉ niệm một chút, nghe người khác niệm rơ
ràng, tách bạch, trong tâm vẫn có Phật, không chạy
đi đâu hết. Đây là bước công phu thứ ba.
Điều thứ
tư, tự tu rất trọng yếu. Quư vị niệm
Phật có tạo thành tiếng hay không? Mọi người
có hiểu rơ điều này chăng? Có tiếng đấy.
Niệm Phật dù nhỏ cách mấy vẫn có âm thanh. Dù
miệng không niệm, chỉ niệm trong tâm vẫn có âm
thanh. Quư vị cứ nghĩ lại lúc ḿnh học bài
sẽ hiểu điều này. Gọi là “tâm huyền” (dây đàn tâm) là ngụ ư: Tâm
giống hệt như dây đàn, tâm cũng có âm thanh. Quư
vị tưởng A Di Đà Phật th́ ngay ư niệm ấy
phát ra âm thanh. Quư vị có âm thanh, âm thanh ấy chẳng
tạp loạn th́ chính là A Di Đà Phật.
Pháp Thân của
Phật A Di Đà không chỗ nào chẳng hiện diện.
Phật hiện diện ở đâu nơi đó
đều có quang minh: “Quang
trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ Tát chúng diệc vô
biên” (trong quang minh hóa hiện vô số ức đức
Phật, và cũng hóa ra vô biên các vị Bồ Tát). Trong quang
minh của Phật, Phật A Di Đà và các vị Bồ Tát
hiện diện trong đó lại đều là quang minh. Âm
thanh của quư vị phát ra đó sẽ đi về
đâu? Đi đến quang minh của Phật. Quang minh của
Phật lại đi đến đâu? Ḥa nhập vào âm
thanh của quư vị. Khi âm thanh ḥa lẫn vào quang minh, quư
vị chính là A Di Đà Phật. Khi quang minh ḥa nhập vào âm
thanh th́ A Di Đà Phật chính là quư vị. Khi âm thanh và quang minh
ḥa hợp nhau, nếu quư vị không văng sanh th́ sẽ tới
đâu nữa đây? Đây là điều thứ tư. Có
vậy mới kể là đă đạt công phu. Đấy
chính là biện pháp tu hành Chánh Công Phu vậy.
Lại c̣n có công phu
để hỗ trợ. Sức của công phu hỗ
trợ rất lớn. V́ sao vậy? Thưa cùng quư vị,
giờ đây quư vị thực hành theo biện pháp tôi vừa
nêu đến mức (chánh công phu) rất khá rồi,
một khi quư vị bước chân ra khỏi cổng chùa,
liền nghĩ: “Ái chà! Bây giờ ḿnh có thể nói
sướng miệng đây!” Hỏng rồi! Ngay lúc tâm
khởi ư niệm buông lung khẩu nghiệp th́ tâm quư vị
liền chạy theo bên ngoài. Mới gom tâm để
đạt được Nhất Tâm, vừa bước
ra ngoài liền để tâm chạy theo bên ngoài th́ công
niệm Phật tại đây (chùa Linh Sơn) đành
mất trắng. Ra ngoài thấy, nghe sự ǵ đó tâm
lại loạn th́ uổng mất công niệm Phật
tại đây. Ở trong này, đàn áp được
Kiến Tư Hoặc, nhưng vừa ra ngoài là lại
chồng chất thêm, quư vị nghĩ nên trách ai?
Công phu tu hành xét
đến cùng cực th́ chính là ngày chầy tháng rộng,
thời thời khắc khắc chẳng biến
đổi. Chẳng những chỉ ở chùa Linh Sơn
mới tu như vậy mà khi ra khỏi cổng chùa cho
đến khi về đến nhà vĩnh viễn tu hành
như vậy th́ mới là tu hành, chứ chẳng phải
ngoài dịp Phật Thất th́ chẳng tu hành. Nếu
như chùa Linh Sơn không mở Phật Thất, quư vị
không tu th́ chính là quư vị tự hại ḿnh, chẳng
cần biết là có mở Phật Thất hay không vẫn
thực hành như vậy. Vậy th́ xét ra biện pháp này có
khó thực hiện hay chăng?
Nếu chẳng
giữ vững được một câu Phật hiệu
th́ phải luôn sám hối. Điều này rất khẩn
yếu. Sám hối là tự xét những điều ḿnh làm
chẳng đúng, tạo bao tội lỗi. Xét ra dù xuất
gia hay tại gia, người tu hành chắc thật th́
thấy ḿnh làm ǵ cũng đều là tội lỗi.
Hễ nhắc đến tội liền sám hối. Ḿnh
đă làm sai, nhưng làm sai rồi lại làm ǵ nữa? Đă
làm sai nhưng vẫn c̣n tái phạm. Mỗi ngày thời
thời, khắc khắc từ sáng đến tối sám
hối. Như vậy th́ ngoài việc sám hối ra c̣n có ǵ
làm loạn ḿnh nữa ư? Dù có loạn ở chỗ nào
đi nữa, vẫn chú tâm nơi Phật, th́ c̣n có ǵ
nữa đâu?
Thấy người
khác làm điều tốt bèn sanh ḷng hoan hỷ. Thật ra,
phát tâm hoan hỷ cũng là loạn, chẳng thể văng
sanh; cho nên hễ thấy ai làm điều lành ǵ bèn nghĩ:
“Tốt quá! Người ấy có thể văng sanh”. Ai làm
điều ǵ tốt ḿnh cũng mừng rằng
người ấy sẽ được văng sanh. Vừa
sám hối, vừa tùy hỷ như thế th́ ngày chầy
tháng đọng, dù loạn nhưng thật sự chẳng
loạn. Đây chính là công phu hỗ trợ thứ nhất.
Hơn nữa,
mỗi tông có cách tu hành riêng. Dùng cách tu hành của tông khác
để tu Tịnh Độ sẽ chẳng thành công. Dùng cách
tu của Tịnh Tông để tu các tông khác cũng
chẳng thể thành công. Tịnh Độ Tông có hai chữ
“hân, yếm”. Hân là thấy sự t́nh ǵ ḿnh bèn hy vọng
được như vậy. Nói theo ngôn ngữ hiện tại
th́ Hân là “tâm hy vọng”. Yếm là nhàm ĺa, chán ghét. Hai chữ
Hân - Yếm được coi là căn bệnh lớn trong
nhà Thiền. Quư vị tu Tịnh Độ nghe các tông khác
giảng giáo lư, họ sẽ nói hai chữ Hân - Yếm là
bại hoại, chẳng nên giữ lấy; nhưng trong nhà
Tịnh, hai chữ xấu xa ấy đối với chúng
ta lại là điều cực hảo v́ cách sử dụng
hoàn toàn khác nhau. Bí quyết huyền diệu của Tịnh
Tông nằm ngay tại hai chữ đó!
Đối với
hết thảy mọi sự trong thế giới này, quư
vị đều nên chẳng tham luyến v́ chúng
đều là giả cả, chẳng có chút ǵ chân thật.
Thế giới Sa Bà là thế giới ô uế, giống
như hầm phân, như cái giỏ bẩn thỉu, có ǵ
tốt đâu! Chúng ta thấy cái giỏ bẩn thỉu bèn
chẳng chịu chạm vào những thứ dơ dáy. Họa
may là ruồi nhặng, gịi tửa thấy cái giỏ
bẩn thỉu ấy mới cao hứng được
thôi. Chúng nó thấy là tốt v́ cùng là một phường,
ta đừng bắt chước chúng. Thế giới Sa Bà
này không có một điểm nào tốt cả nên ḿnh chán
ngán chốn này, chẳng mong ở măi nơi đây, mong
sớm được xa ĺa nó. Ḷng luôn nghĩ như
vậy th́ tham luyến c̣n trụ vào đâu được
nữa.
Đă thế, xem kinh Di Đà
mấy lượt, mọi sự nói trong đó không
điều ǵ là không tốt; bởi thế nên bèn ưa
thích cơi kia. Đây là Hân. Quư vị nh́n ra ngoài thấy cao ốc
lố nhố, đi đâu phải ngồi xe hơi, so
với thế giới Cực Lạc khác nhiều lắm,
ta chẳng ưa. Đây là Yếm.
Chán nhàm cơi này, lại
nghĩ trong cơi kia chẳng dùng đến xe, cứ ngồi
trong nhà nghĩ muốn đến đâu th́ nhà liền bay
đến đó mang ḿnh theo. Nếu không thích nhà cửa che
tầm mắt ḿnh th́ tường vách cũng không c̣n
nữa. Mỗi đóa sen ánh sáng thiên biến vạn hóa,
chưa hề được thấy qua.
Quư vị thấy
phủ Tổng Thống cơi này như thế nào? Là Kim Loan
điện. Nói cho quư vị nghe, may là cơi Cực Lạc
không có đại tiểu tiện. Nếu có đại
tiểu tiện, hầm phân th́ có hơn ǵ Kim Loan
điện cơi này. A! Quư vị luôn nghĩ như sau: Nhàm chán
cơi này, ưa thích cơi kia. Hân - Yếm rất khẩn yếu,
là biện pháp hỗ trợ rất lớn. Ba mươi
bảy Đạo Phẩm vốn là Trợ Công Phu khẩn
yếu của Tịnh tông, nhưng có ai trong chúng ta nhớ
hoài được. Cứ luôn nhớ kỹ hai chữ Hân -
Yếm này là được. Đây là Trợ Công Phu thứ hai.
Điều thứ ba,
chỉ cần tâm quư vị khởi một vọng
tưởng th́ đó chính là Ma. Quư vị hay nói người
nào đó bị ma dựa, nhưng có thấy con ma đó
chưa? Thật ra, ai cũng có ma theo bén gót. Ma trong tâm
chẳng lo, lại toan dẹp Ma bên ngoài! Vậy th́ Ma là ǵ?
Vọng niệm khởi chính là Ma, đó là Nội Ma.
Vọng niệm khởi lên th́ dù quư vị có đi qua Tây
Phương Cực Lạc thế giới nó vẫn dùng móc
lôi kéo quư vị đi theo, quư vị không làm ǵ
được. Sức lực của ma thật là lớn
vậy. Làm sao bây giờ?
Dù thế nào đi
nữa, sức Ma lớn đến đâu vẫn chẳng
thể lớn hơn sức Phật. Một câu A Di Đà
Phật chiếu đến Ma, Ma liền bỏ chạy,
Phật hiệu áp chế được Ma. Vọng
tưởng là Ma, niệm một câu Phật hiệu là
Phật, dùng Phật hiệu để áp chế Ma. Khi
vọng tưởng khởi động là nghĩ tới
Ma th́ nó đến, ta trị không được, chỉ có
ḿnh Phật hiệu thắng được nó, quư vị
liền gấp rút niệm Phật. Niệm thuần
thục rồi th́ dù ḿnh có muốn gọi Ma tới, nó
cũng chẳng tới v́ khắp trong tâm toàn là Phật. Có
Phật th́ không có Ma. Có Ma th́ không có Phật. V́ thế,
đây là cách chế ngự Hoặc chứ không đoạn
Hoặc, không trừ gốc của Hoặc. Văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới rồi th́
tự nhiên đoạn sạch Hoặc.
Chẳng cần
phải nói nhiều nữa, ba điều trên là đủ.
Trong bảy ngày này, kính xin quư vị thực hành đúng theo
những điều ấy, về đến nhà cũng
vẫn tu như vậy th́ kỳ Phật Thất này
chẳng uổng phí. Tiếp đây, tôi dùng một bài
kệ để kết thúc:
a. “Tịnh Độ nan tín
khước dị hành” (Tịnh Độ khó tin, nhưng dễ
hành):
Chỉ ḿnh đức
Phật là có thể giảng minh bạch Tịnh Độ Tông,
trừ đức Phật ra, không c̣n một ai khác có
thể giảng minh bạch được. V́ thế,
Tịnh Độ là “nan tín”. Học Phật nhiều năm,
kinh sách mười phần coi hết chín, vẫn chẳng
tin nổi Tịnh Tông. V́ thế bảo là pháp Nan Tín.
Nhưng đối với ai tu được pháp này th́ nó
rất đơn giản. Những lời tôi nói đây
đều là lời của Tổ Sư, của Phật
giảng, chứ chẳng phải là lời tôi giảng. Tôi
chỉ là cái máy cassette phát lại cho quư vị nghe mà thôi.
Pháp tu dễ dàng nhưng phải có rèn luyện lâu dài,
chứ chẳng phải là vừa tu là thành tựu
được ngay, vừa tu là chứng ngay. Đó là câu kệ
thứ nhất.
b. “Toàn do nhị lực
chánh trợ công” (hoàn toàn do hai lực và Chánh Công Phu, Trợ Công Phu):
Nhị lực
tức là công phu của chính ḿnh (tự lực). Ḿnh không
dụng công không xong. Ngoài ra c̣n có Phật lực, Phật
đến tiếp dẫn ḿnh. Quư vị xem, phần
nhiều tượng Phật A Di Đà là tượng
đứng, là dạng tiếp dẫn. Thật ra, vị
Phật nào cũng đều có Tịnh Độ riêng,
nhưng các đức Phật khác chẳng đến
tiếp dẫn ḿnh. Chỉ ḿnh đức Phật A Di Đà
đến tiếp dẫn ta. Quư vị không biết
đường cũng chẳng sao, A Di Đà Phật cầm
hoa sen đến đón quư vị, cứ ngự lên hoa sen,
cứ ngự lên hoa sen! Ngài đưa quư vị đi!
Nếu sanh về cơi khác sẽ chẳng có phương
tiện này đâu, quư vị phải tự nhận biết
đường.
c. “Tất đắc
Nhất Tâm phương hữu hiệu” (phải đạt
được Nhất Tâm th́ mới hữu hiệu):
Quư vị phải niệm
đến Nhất Tâm mới hữu hiệu. Niệm không
Nhất Tâm th́ vô dụng. Điều này ai nấy hăy nghe cho rơ.
Thế nào là Nhất Tâm? Đoạn Hoặc là Nhất Tâm
thuần túy. Chế ngự Hoặc cũng là Nhất Tâm,
cũng được văng sanh.
d. “Phương tiện
phục Hoặc tức cảm thông” (dùng phương
tiện chế ngự Hoặc liền cảm thông):
Đoạn Hoặc
chẳng dễ. Thành A La Hán là pháp Tiểu Thừa,
đoạn sạch Kiến Hoặc rồi c̣n phải sanh
vào nhân gian hay cơi trời bảy lần, tu tập cả
vạn năm mới thành tựu, mới đoạn
sạch Tư Hoặc. Quư vị niệm A Di Đà Phật
bảy ngày thành công, thật là thuận tiện quá. Quư
vị chẳng dùng công phu trên đây không thể
đoạn Hoặc, làm thế nào đây? Th́ lại có pháp
phương tiện là chế phục Hoặc. C̣n
đối với các tông khác th́ sao? Trong các tông khác, chế
phục Hoặc là điều hoàn toàn vô dụng. Tu các tông
khác th́ dù có chế phục Hoặc vẫn c̣n trong luân
hồi, hoàn toàn vô dụng. Chế phục Hoặc chỉ
hữu dụng đối với Tịnh Độ Tông, trong
các tông khác chẳng thể áp dụng cách này
được.
Do chế phục
Hoặc, quư vị được sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới th́ sẽ
đoạn Hoặc ở nơi đó, tự nhiên A Di Đà
Phật sẽ giúp quư vị đoạn Hoặc. Cốt sao
cảm ứng th́ quang minh dung thông lẫn nhau mới có
thể thành công.
Nói tóm lại,
đến ngày thứ tư tôi sẽ giảng nữa. Nay
giảng đôi điều về công phu, mọi
người nên nhớ kỹ. Hôm nay là ngày đầu,
từ đây đến suốt bảy ngày sau quư vị
cứ thực hành theo đó, tận dụng thời gian này
khẩn thiết niệm Phật. Xin lăo sư sắp sẵn
kiền chùy[2], ai
nấy buông xuống vạn duyên, cứ một câu A Di Đà mà
niệm măi.
VII. KHAI
THỊ PHẬT THẤT TẠI CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU
NGỌ (lần thứ hai)
(Tư
Thục Điền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích
Hà giảo đính)
Tạp niệm giai thị b́nh tố tội,
Nhược bất tạo nghiệp niệm bất
sanh,
Tùng kim thiết mạc tái tạo nghiệp
Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành
(Tạp niệm là
tội ngày thường
Nghiệp như
chẳng tạo, niệm đường nào sanh?
Từ nay chẳng
tạo nghiệp trần
Nhất Tâm Bất
Loạn quả thành tự nhiên)
Phật Thất đă đến
ngày thứ năm, tôi đă nói chỉ cần chiếu theo
phương pháp đă giảng trong ngày thứ nhất mà tu
tập, nh́n chung ít nhiều có tiến bộ dần
dần. Tính từ hôm nay chỉ c̣n có hai ngày nữa thôi,
chúng ta chỉ cầu Nhất Tâm, không cầu ǵ khác.
Đa số mọi
người chẳng hiểu Tâm là cái ǵ, học Phật
chỉ cần hiểu được chữ Tâm này th́ công
phu mới chẳng uổng lầm. Có thể nói là mọi
người tu hành nhiều năm nhưng vẫn chưa
hiểu rơ chữ Tâm này, nên hôm nay tôi nói cho quư vị nghe ư
nghĩa của chữ Tâm để quư vị dụng công
nơi Tâm.
Tâm ở đây hoàn
toàn chẳng phải là “nhục
đoàn tâm” (quả tim thịt), chẳng phải là
vật ǵ, chẳng phải là trái tim thuộc trong ngũ
tạng, lục phủ. Như vậy, nói tới cùng, Tâm là
ǵ? Từ xưa đến nay ai cũng chẳng thấy,
ai cũng chẳng t́m được nó. Chỉ
người chứng quả mới hiểu rơ mà thôi,
hễ hiểu được Tâm th́ chứng quả.
Người đến giảng khai thị hôm nay cũng
chỉ nói những điều tạm diễn tả Tâm
để mọi người tự suy nghĩ lấy.
Một khi tôi đă nói ra, mọi người nên tin
tưởng. Nếu chẳng tin th́ đành chẳng có cách
nào. Những điều tôi sắp nói rất b́nh
thường, nhưng rất khó thực hiện bởi nó
là pháp khó tin dễ hành vậy.
Tâm chính là ư niệm
của mỗi người tự phát khởi. Tâm nghĩ
đến điều ǵ th́ liền khởi ư niệm
về điều đó. Nếu bảo kẻ này tâm
tốt, kẻ kia tâm xấu th́ cũng là nói về ư niệm
của người đó. Ư niệm đó gọi là Tâm. Câu
nói này, đối với người đă học Phật
mấy năm th́ khó mà nói là chẳng hiểu
được! Tâm ấy chẳng thấy được,
chẳng sờ được, nhưng tự ḿnh chẳng
lẽ không hay biết hay sao? Bởi thế, người ta
tu hành chính là tu ngay nơi ư niệm này. Quư vị nên nhớ
kỹ. Làm thế nào để tu nơi ư niệm?
Muốn hiểu rơ
cách tu th́ trước hết phải hiểu rơ ư niệm
đă. Trong những ư niệm của con người, không
có được một ư niệm tốt mà toàn là vọng
niệm, tạp niệm. Vọng niệm không có ǵ là chân
thực, đều là giả dối cả. Tạp
niệm là ư niệm chẳng sạch sẽ, tịnh
rồi lại tạp ư? Nói khái quát, ư niệm của
chúng ta toàn là tạp loạn, hư vọng, toàn là chẳng
đúng. Quư vị có biết trong một ngày chúng ta khởi
bao nhiêu ư niệm không? Xin nói cho quư vị hay: Quư vị xem
đây (cụ Lư búng ngón tay), trong khoảng
thời gian búng ngón tay thật ngắn ngủi này đây,
nói không sai cho lắm là quư vị có gần cả trăm
mấy mươi ư niệm, nhanh như vậy đó! Mà
một ngày từ sáng đến tối chẳng ngừng,
nói cho quư vị hay là quư vị chẳng có ư niệm nào
cầu thành Phật cả.
Quư vị nghe vậy
tin hay chẳng tin? Có vị nghe tôi nói lời này liền tin
ngay, ai chẳng tin lời tôi, người đó chẳng
tin Phật pháp. V́ sao vậy? Lời tôi vừa nói đó
đâu phải do tôi đặt ra, mà đều là những
điều được nói trong kinh. Ai không tin Phật
pháp th́ học Phật cách nào? Làm sao thành tựu
được? Học Phật phải thờ ai làm
thầy? Phật chính là thầy. Làm theo đúng lời Phật
dạy ắt sẽ thành công; chẳng tuân theo th́ chẳng
cách nào thành công được.
Từ sáng đến
tối ư niệm phát khởi chẳng ngừng, nhiều
như thế đó, chẳng ai nắm giữ
được những ư niệm này, mà những ư niệm
được phát khởi đó đều là những ư
niệm xấu xa cả. Dù có ư niệm xấu như
vậy nhưng có thể là chúng ta chẳng nói lời
xấu, cũng như không làm điều ǵ xấu.
Hừm! Rơ ràng trong tâm nổi lên chủ ư xấu, chẳng
nói lời xấu, chẳng làm điều ǵ, nhưng
chủ ư xấu vẫn có ảnh hưởng, nhà Phật
gọi là “chủng tử”.
Đây là cách nói thí dụ, chứ chẳng phải thực
sự là gieo hạt giống xuống.
Một khi ư niệm
khởi lên, nó sẽ in bóng vào tâm. H́nh bóng của ư niệm
được in vào tâm đó gọi là “chủng tử”. Quư vị nghĩ xem, có những
sự việc đă lâu năm, chợt nghĩ đến
th́ những điều ḿnh nghĩ đến đó
liền tái hiện. Những điều ḿnh nghĩ
đến đó chẳng hề giảm mất, chúng
đều được chứa trọn trong tám thức
điền, cả vạn vạn năm chẳng bị
tiêu diệt mất. Dù cho ḿnh có bận tâm hoặc chẳng
quan tâm ǵ đến chúng, h́nh ảnh của chúng vẫn
tồn tại trong tâm ḿnh. Những ǵ ḿnh mơ thấy
trong giấc ngủ chính là những h́nh ảnh này. Đến
lúc chúng ta lâm chung, những h́nh ảnh trong tâm sẽ
hiện ra ngoài, tạo thành ư niệm. Khi lâm chung vào lúc
tối hậu, khi ư tưởng ḿnh chấp vào đâu, nó
sẽ dẫn ḿnh theo đi đầu thai nơi đó,
lại trở vào trong lục đạo luân hồi.
Nói là lục
đạo luân hồi, nhưng thật ra chỉ có ba
đường dưới. Chúng ta khởi tâm, tâm
người không có, tâm trời cũng không th́
đương nhiên là khởi tâm tam đồ. Tâm này phát
khởi ra sao? Chúng tôi chẳng đề cập đến
chuyện từng làm điều xấu, mà chỉ luận
về tâm. Dạy mọi người giữ giới,
mọi người không giữ, hoặc giữ giới
nhưng toàn phát khởi ư niệm phạm giới. Do
phạm giới, tâm này phải đọa trong tam
đồ: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ.
Nếu tạo thành hành động (tạo nghiệp) th́
thời gian thọ khổ dài thêm một phần, tội
lớn thêm một phần. Chẳng tạo thành hành
động (chỉ khởi vọng niệm, c̣n chưa
tạo nghiệp) th́ tội ít hơn một phần,
thời gian thọ khổ ngắn hơn một phần.
Trước hết, phải phân biệt hiểu rơ
điểm này.
Học Phật tu
hành, tu hành những ǵ? Tu hành chính là tu ư niệm này. Có
người nói tôi chẳng khởi ư niệm lớn,
chẳng nói ǵ, c̣n chẳng thấy ḿnh đang giác ngộ
những ư niệm của chính ḿnh khởi lên th́ c̣n cái ǵ
để tu nữa đây?
Chẳng có một ai
không hề khởi lên một ư niệm nào cả! Đến
ngay bậc Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n khởi niệm
nữa kia! “Vô niệm” chính là không vọng niệm, không tà
niệm, chứ hoàn toàn chẳng phải là không có ư niệm
nào! Điều này vị nào xem kinh nhiều cũng đă
thấy rơ rồi. Nếu không có ư niệm th́ trở thành
gỗ, đá. Quư vị tu thành gỗ, đá để làm
ǵ?
Chẳng qua [tu
học] là để biến đổi ư niệm. Biến
đổi như thế nào? “Chẳng
khiến người khác khởi vọng niệm, chẳng
khiến người khác tạp loạn”. Chẳng
khiến người khác khởi vọng niệm nghĩa
là chỉ có ư niệm thanh tịnh, trong sạch. Điều này
trong kinh có nói đến. Ai đọc chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông [trong kinh
Lăng Nghiêm], ắt sẽ hiểu câu “tịnh
niệm tiếp nối” nghĩa là khiến cho ư niệm
thanh tịnh được liên tục chẳng gián
đoạn. Người khác “loạn niệm tiếp
nối”, ta tu hành sao cho “tịnh niệm tiếp nối”.
Thế nào là
“tịnh”? Tịnh là thuần một ư niệm, không tạp
loạn, chẳng có bảy thứ t́nh cảm: mừng,
giận, buồn, vui, yêu, ghét, sợ, chẳng có giết,
dâm, trộm, chẳng có tham, sân, si. Chẳng có những
điều ấy th́ ư niệm thanh tịnh. Quư vị
thử nghĩ xem, nếu ư niệm chẳng tạp
loạn th́ chẳng phải là thanh tịnh hay sao? Không
kể bọn ta ra, ngay cả hàng Địa Thượng
Bồ Tát c̣n chưa đạt được ư niệm
thanh tịnh, nói chi là bọn ta! Chúng ta không có ư niệm thanh
tịnh th́ phải làm thế nào đây? Ai có thể
triệt để thực hiện được
điều này? Chỉ có ḿnh đức Phật! Ư niệm
của đức Phật hoàn toàn thanh tịnh. Chỗ nào
mà mọi bất tịnh đă hoàn toàn trừ khử th́
chỗ đó chính là thế giới trang nghiêm của
Phật, tức là Tịnh Độ. Kinh Nhân Vương
Hộ Quốc chép: “Tam
Hiền, Thập Thánh c̣n trụ trong quả báo, chỉ ḿnh
đức Phật ngự trong Tịnh Độ”. Tam
Hiền, Thập Thánh ư niệm c̣n chưa thuần thanh
tịnh. Quư vị cứ lấy kinh Hộ Quốc Nhân
Vương ḍ kỹ từng ḍng sẽ thấy chỉ có ḿnh đức
Phật thanh tịnh ư niệm triệt để. Chúng ta
chưa thành Phật, ngay cả La Hán c̣n chưa chứng,
chưa đoạn được bất cứ thứ
Hoặc nào, th́ làm thế nào để tịnh ư niệm
đây?
Trước hết,
hăy hỏi quư vị một câu: Lúc quư vị ở đây
niệm Phật th́ chuyện niệm đó cũng là
khởi ư niệm, vậy th́ niệm đó là Phật hay không
phải là Phật? Là Phật. Đúng như vậy! Phật là
thanh tịnh nhất, ngoại trừ Phật ra, tất
cả đều chẳng thanh tịnh, đều hư
giả. Niệm đó chính là A Di Đà Phật. Phật A Di Đà
là bậc nhất trong các Đức Phật. Niệm nằm
trong tâm quư vị, tâm chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật
chính là tâm niệm của quư vị. Trừ điều này
ra, không c̣n ǵ khác nữa, ắt sẽ thành công. Ngoài
phương pháp này, không có phương pháp nào đơn
giản hơn nữa. Bởi thế, chẳng cần
vận dụng đến phương tiện nào khác
nữa mà tâm tự khai ngộ. Ở đây niệm chú này,
nơi kia niệm chú kia đều uổng công. Dù có
nhiều phương tiện, nhưng chẳng cần
phải tu phương tiện nào khác. Chẳng cần
vận dụng phương tiện mà tâm tự khai ngộ
chính là điều tối khẩn yếu. Quư vị tu hành
như thế đó, biến ư niệm của chính ḿnh thành
Phật A Di Đà, ngoài đức A Di Đà Phật không c̣n có tâm
nào khác nữa, th́ gọi là Nhất Tâm.
Điều vừa bàn
trên đây chẳng phải là chỉ dùng mấy câu bèn có
thể giảng minh bạch được, mà nó cũng
rất khó giảng. Tôi chỉ nói điều khẩn
yếu nhưng vẫn e mọi người dù nghe rồi
vẫn chưa hiểu rơ. Tôi nói câu sau đây nhiều
lần: “Từ sáng đến tối, trong tâm chẳng
khởi vọng tưởng, chẳng khởi tạp
niệm”, làm thế nào để đạt được
như vậy mới khỏi uổng công nói như thế!
Trong hàng Bồ Tát chưa chứng được Thất
Địa c̣n nhiều vị chưa làm được
điều này.
Nếu quư vị
lại hỏi người khai thị làm được
điều này chăng? Tôi cũng chưa làm
được! [Chắc quư vị sẽ bắt bẻ] “ông
chưa làm được lại bảo tôi làm”, có hợp
lư không? Chẳng hợp lư! Tôi có phương pháp: vọng
niệm khởi th́ tạp niệm cũng khởi. Khởi
rồi th́ làm sao? Kinh dạy: “Đừng
sợ niệm khởi, chỉ sợ chậm hay”.
Vọng niệm khởi quư vị mặc kệ, chẳng
thèm biết đến th́ không được; v́ là bị
ma dựa, là chứa chấp giặc mà ḿnh vẫn không hay
th́ chúng sẽ làm loạn trong tâm liền. Quư vị biết
là có ma, có giặc th́ phải pḥng bị. Đó là điều nên
làm vậy!
Khi khởi ư niệm
xấu, quư vị bèn không tu Tịnh Độ nữa hay sao? Quư
vị tu Tịnh Độ nhưng không dùng phương pháp
của Tịnh Độ, lại dùng phương pháp khác, há
chẳng phải là phiền toái sao? Quư vị dùng ngay
bốn chữ A Di Đà Phật, vọng niệm vừa
khởi, chẳng lư ǵ đến hết thảy, cứ A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật.... Vọng niệm vừa
khởi liền niệm mấy mươi câu A Di Đà
Phật đè nó xuống. Đây gọi là Chế Phục
Hoặc. Đè nén được nó th́ ma đó, giặc đó
chẳng nổi dậy được! Đè nén phía
dưới, những thứ bất tịnh chất
chứa cũng bị đè xuống dưới th́ trên
mặt sẽ thanh tịnh, giống như một chén
nước, nếu cát bụi bị lắng xuống
dưới, phần nước bên trên sẽ trong veo.
Đấy chính là Chế Phục Hoặc!
Giống như
vậy, khi lâm chung, mới vừa giao cảm th́ phần
trên sẽ xuất hiện trước, phần dưới
chẳng xuất hiện. Phần trên là A Di Đà Phật nên
bèn được A Di Đà Phật tiếp dẫn đi. C̣n
nếu như phần dưới hiện ra th́ không văng sanh
được, A Di Đà Phật cũng chẳng biết làm
sao. Trên đây là nói về phương pháp “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ
chậm hay” vậy.
Chúng ta không phải là
người xuất gia. Người xuất gia sống
trong chùa nên không bị xă hội tạp loạn gây
chướng ngại. V́ họ ít việc nên chẳng
khởi tạp loạn. Chúng ta tại gia rất khó làm
được vậy, toàn là lo những việc thế
tục. Chẳng hạn như nói đến những
vật thường thấy thuộc về thất t́nh, ai
nấy đều tính toán tiền bạc. Hễ tính toán
tiền bạc th́ nghĩ: Ai phải đưa cho ḿnh
chừng đó tiền, ḿnh trao cho ai chừng đó
tiền, như vậy sẽ được mấy phân
lời? Do mấy phân lời bèn suy tính cái này, hoạch
định cái kia. Đấy là tâm tham! Vậy th́ phải làm sao? Hăy nghe
tôi nói mấy câu: Lúc tính tiền, đừng khởi
chủ ư xấu, đừng toan nghĩ cách làm thiệt
hại đến người khác. Ḿnh phải đưa tiền
cho ai th́ cứ đếm một, hai, ba, bốn tờ...
bao nhiêu đó, đếm xong đừng chấp vào đó.
Một, hai, ba, bốn chỉ là những con số
để tính đếm, chẳng thiện, chẳng ác.
Tính đếm xong th́ thôi, buông hết xuống, xong việc
rồi thôi, buông bỏ, tâm không nghĩ đến nó
nữa. “Buông bỏ” rất khẩn yếu, ở đây
tôi chỉ lấy việc tính tiền làm thí dụ.
Lại như tại
gia tu hành, ḿnh tu hành, người nhà không tu, ra chợ mua
thịt về kêu ḿnh thái thịt hoặc sát hại con ǵ
đó th́ ḿnh làm sao? Lúc đó cũng đừng có căng thẳng.
Nếu không bảo kẻ kia làm được th́ ḿnh
đành phải làm; nhưng lúc đang làm, muôn phần
chớ quên niệm A Di Đà Phật. Thịt đó, do chúng nó
không học Phật nên tạo ác nghiệp, mới bị
biến thành heo, thành dê, thành thịt, bị người
khác ngàn cắt, vạn xẻ. Lúc quư vị cắt xẻ,
cứ mỗi nhát dao là một câu A Di Đà Phật th́ con dao
ấy sẽ thành A Di Đà Phật tiêu tội cho quư vị.
Dùng cách quán tưởng ấy để biến cải tâm
ḿnh là được.
Thậm chí ở
nơi nhà xí, chỗ bất tịnh, dù miệng chẳng
niệm Phật nhưng tâm tưởng: “Tây Phương
Cực Lạc thế giới không có việc này, không có
đại tiểu tiện. Thế giới Sa Bà bẩn
thỉu như vậy, chúng ta tạo các thứ tội
nghiệp mới phải sinh vào đây, tâm chẳng thanh
tịnh mới sống nơi chẳng sạch sẽ”. Lúc
đó, giữ tấm ḷng sám hối, trong ḷng cầu A Di Đà
Phật sớm cho ḿnh được ôm chân Ngài. Dù làm
bất cứ việc ǵ cũng chẳng được
quên A Di Đà Phật, chẳng cần phải niệm ra tiếng.
Trong tâm tưởng Phật để hoán chuyển
cảnh giới. Đấy chính là “ức
Phật”.
Quư vị tập sao
cho trong tâm chẳng hề quên Phật là được, dù
gặp phải t́nh huống thế nào, cứ đơn
giản làm theo biện pháp ấy. Tôi nói đi nói lại:
Quư vị lấy trộm tiền của người khác
th́ là ăn cắp vặt; vừa niệm Phật vừa
trộm lấy th́ không c̣n cách nào để giảng cho quư
vị được nữa. Quư vị chớ có thiếu
khai ngộ như thế.
Nói tóm lại là
phải giữ ǵn giới luật. Phật tại thế
thờ Phật làm thầy, Phật chẳng tại thế
lấy Giới làm thầy. Học Phật th́ chẳng
được phạm giới luật. Đă nói là chẳng
được phạm giới mà c̣n trộm cắp
vặt ư? Chẳng giữ giới luật làm sao học
Phật được?
Hôm nay tôi chỉ nói
như vậy, chẳng thể nói nhiều. Hoàn toàn là
thường ngày trong lúc ăn uống, đứng ngồi
phải luôn luyện tập, lâu ngày chầy tháng quư vị
thường luôn luyện tập th́ tự nhiên tạo thành
thói quen nên sẽ thành công. Thời gian kết Phật
Thất này chính là lúc để kiểm nghiệm công phu
ở nhà của quư vị như thế nào. Đến đây
thí nghiệm xem quư vị có đắc Nhất Tâm trong ṿng
bảy ngày này hay không? Nếu ở nhà đă chẳng
hề luyện tập th́ đến đây làm sao
đắc Nhất Tâm được? Làm ǵ dễ dàng
như thế được? Quư vị phải nhớ
đây là chuyện thực tế.
Thường ngày
luyện tập sẽ tập thành thói quen tự nhiên. [Khi
đó] chẳng cần đến chùa Linh Sơn dự Phật
Thất, ở ngay ngoài đường cũng là
đạo tràng v́ đă quen rồi! Dù cho đến đây
dự Phật Thất chẳng đạt Nhất Tâm th́
cũng có được tăng thượng duyên hỗ
trợ cho ḿnh. Dù công phu của ḿnh tệ bạc
đến đâu, đến đây thấy ai nấy
đều niệm Phật, dù một ḿnh ta không niệm,
nhưng lắng tai nghe th́ cũng có h́nh bóng đức
Phật in vô tâm ḿnh. Công đức ấy chẳng phải
nhỏ. Chúng ta chưa nhận thức được
rằng: Dù chỉ là tăng thượng duyên cũng có
đại lợi ích vậy.
Nói tóm lại, công phu
hoàn toàn cậy vào sự luyện tập thường ngày,
tập quen sẽ tự nhiên thành tựu, tự nhiên làm
được thôi! Trong kinh Di Đà nói các loài chim thuyết
pháp, quư vị vẫn chưa thấu hiểu sao? Cho
đến khi nghe gió thổi qua những cây báu cũng
tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng, đấy đều là tự nhiên cả. Đă quy
về tự nhiên th́ tự nhiên chẳng sợ ǵ hết,
làm bất cứ điều ǵ cũng là để lợi
ích chúng sanh. Tâm trên v́ Phật pháp, dưới v́ chúng sanh th́
là đă thành công rồi. Một mảy riêng tư trong tâm
cũng không có. Hăy nhớ kỹ điều này!
Hơn nữa, từ
ngày hôm nay trở đi, bao nhiêu tội nghiệp
trước kia hăy để cho chúng bị tiêu hóa hết
trong tâm đi. Làm thế nào để tiêu hóa? Chẳng
tạo họa mới nữa. Chẳng tạo họa
mới tức là chẳng vun bồi những chủng
tử cũ. Những chủng tử ấy chẳng
được tăng trưởng ra ngoài th́ lâu ngày chúng
sẽ tự nhiên diệt đi. “Tùy
duyên tiêu cựu nghiệp” nghĩa là gặp phải
sự việc bất hảo liền gắng thay
đổi hoàn cảnh. Như phần trên đă nói, quư
vị bắt buộc phải sát sanh không c̣n cách nào khác, th́
quư vị nên niệm Phật thay cho chúng nó. Tâm quư vị
chẳng có những việc xấu ấy, tùy theo những
sự việc xấu ấy mà biến cải tâm lư. “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, cánh
bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp,
chẳng tạo thêm vạ mới) như vậy th́ sẽ
thành công.
Tiếp đây, tôi
sẽ đọc qua bài kệ một lượt cho quư
vị nghe. Ai thấy được th́ nh́n, không thấy
th́ nghe cũng vậy thôi.
“Tạp niệm giai thị b́nh tố tội”: Tạp niệm chính
là vọng niệm khởi động. Chẳng phải là
quư vị muốn như vậy, nhưng vọng niệm
chính là chủng tử của tội nghiệp hiển
hiện. Khi vọng niệm khuấy động bên trong th́
gọi là Ma. Thường ngày, khi nào quư vị gây tạo
tội nghiệp th́ khi ấy vọng niệm phát khởi .
“Nhược bất tạo nghiệp niệm bất
sanh”: Quư
vị chẳng tạo tội nghiệp th́ vọng niệm
chẳng sanh. Vọng niệm chẳng sanh th́ ư niệm nào
khởi lên cũng là tịnh niệm, “tịnh niệm
tiếp nối”.
“Tùng kim mạc thiết tái tạo nghiệp”: Từ nay, lúc nào
cũng là lúc ḿnh niệm Phật. Từ nay về sau đă
chẳng tạo hết thảy nghiệp th́ tại sao c̣n
nhiều phen tổn hại chúng sanh? Độ chúng sanh chẳng
phải là tổn hại chúng sanh. Ḿnh tổn hại chúng
sanh trong xă hội th́ c̣n học Phật cái nỗi ǵ?
Tạo nghiệp đều là làm hại người khác,
ta chẳng nên tạo nghiệp.
“Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành”: Có vậy th́ mới
đắc Nhất Tâm Bất Loạn, tự nhiên thành công.
Nếu c̣n tạo nghiệp th́ đạt Nhất Tâm sao
nổi!
Nói đă nhiều
rồi, mỗi câu đều có đạo lư sâu xa. Trong
thời gian này, mọi người nên gắng đạt
Nhất Tâm Bất Loạn. Niệm Phật cầu Nhất
Tâm Bất Loạn rất khẩn yếu. Tính đến
mai vẫn c̣n hai ngày, mọi người hăy suy nghĩ
những điều đó, về đến nhà cũng
vẫn thực hành theo đó. Chư vị đồng tu
hăy buông xuống vạn duyên, niệm mỗi một câu A Di
Đà Phật!
VIII. KHAI
THỊ TRONG PHẬT THẤT NĂM TÂN DẬU
(đệ
tử Liên Thục Mỹ kính ghi)
Tính đến nay
đă là ba mươi năm mở Phật Thất ở
đây, mỗi lần đều phải có người
giảng nói. Theo quy củ, phải thỉnh thiện tri
thức trong Tịnh Độ Tông đến khai thị. Khai
thị chẳng phải là giảng kinh, thuyết pháp, mà là
nói về những điểm thật trọng yếu,
phải thuyết minh điều quan trọng là làm thế
nào để đạt Nhất Tâm. Chẳng đạt
được Nhất Tâm th́ dù có niệm Phật vạn
năm cũng chẳng thành công.
Nay tôi chỉ là
một gă bạch y, công phu cũng chẳng giỏi, tuy
từng gặp được các bậc đại
đức trong Tịnh Tông, gặp minh sư chỉ
điểm, nhưng v́ ngu độn, chỉ có thể
dựa theo lời tổ sư giảng, dựa dẫm các
ngài để giảng giải, chẳng dám xưng là
giảng khai thị.
Ba mươi năm
qua, ai giảng trong mỗi kỳ Phật Thất? Toàn là tôi
giảng. Mỗi năm, đồng tu tham gia cũ mới
đều có, lời giảng cũng khác. Trong số
đó, có người đă từng nghe giảng suốt ba
mươi năm qua, nay lại giảng cái ǵ đây? Giảng
nữa cũng vẫn là những lời đó. Nghe qua
rồi, bạn đồng tu chẳng muốn nghe lại
v́ đều đă hiểu cả rồi. Thử hỏi có
ai làm được chưa? Nếu chưa làm
được th́ có giảng vẫn là vô dụng.
Nay tôi dựa theo khai
thị của tổ sư để giảng. Tổ
sư dựa theo kinh điển mà kinh là từ miệng
Phật nói, pháp môn đều do Phật truyền,
điều ǵ kinh không nói th́ tổ sư cũng chẳng
dám tùy tiện đặt ra. Nhưng Tam Tạng kinh
điển quá nhiều, phàm phu chẳng tiếp nhận
hết nổi, chỉ có thể chuyên tu theo một pháp môn.
Chúng ta đều tu Tịnh Độ nên tôi dựa theo pháp môn
Tịnh Độ mà nói.
Có lẽ quư vị
nghi hoặc: V́ sao tôi không nói thẳng vào phương
pháp chứng đắc Nhất Tâm? Đó là v́ hiện tại
mọi việc đều chẳng b́nh thường,
chẳng đúng lẽ, đều suy thoái cả. Có
người bảo bây giờ náo nhiệt hơn
trước, sao lại bảo là suy thoái? Nói đến
Nhiệt th́ toàn thân mướt mồ hôi, ḷng đầy
phiền muộn, Náo là lộn xộn bảy tám tầng.
Nói đến tu Tịnh Độ th́ phải đắc
Nhất Tâm Bất Loạn mới có thể văng sanh, nếu
náo nhiệt th́ làm sao đạt Nhất Tâm được?
V́ vậy mới bảo là suy thoái.
Mọi người
là bạn già của tôi, đă niệm Phật ba mươi
năm rồi, sau này nếu như mọi người
chẳng đạt được kết quả tốt
là tôi có lỗi đối với mọi người.
Cổ nhân nói: “Thiên nhân ngật
phạn, nhất nhân hoàn tiền” (ngàn người ăn
cơm, một người trả tiền). Kết
thất niệm Phật, đông người tham gia, phí
tổn cũng nhiều. Nếu như chẳng có kết
quả ǵ lại là tạo tội nghiệp, hết
thảy tội lỗi người giảng khai thị
phải gánh. Nếu như trong đây có một ai phát chân
tâm, đạt được Nhất Tâm, sau này văng sanh th́
coi như là người ấy đă bồi hoàn phí tổn
cho đạo tràng này rồi. Ngày hôm nay khác với năm
ngoái, xin quư vị phải chú ư tột bực, nghĩ
đến văng sanh th́ ắt sẽ niệm đến
mức Nhất Tâm, đừng có ồn náo vô ích.
Chư vị tu hành
hơn ba mươi năm. Cổ nhân nói: “Thuyết đắc nhất trượng, bất
như hành nhất xích” (nói một trượng không
bằng làm được một thước). Nói
nhiều vô dụng, cần phải thật tu mới nên.
Kinh điển rất nhiều, nhưng hiểu được
vạn pháp chẳng bằng hiểu kỹ một pháp,
bởi lẽ bất luận như thế nào cũng
đều phải y theo một môn tu hành mới ḥng thành
công được. Dùng bất cứ câu nào trong kinh cũng
đều chứng quả được, nhưng vạn
câu kinh chẳng bằng một câu Phật!
Có lẽ mọi
người không tin điều này, v́ thường có
bạn đồng tu đến hỏi tôi cần phải
niệm thêm bộ kinh nào? Bộ kinh nào cũng tốt v́ đều
là lời Phật dạy cả. Nếu như khóa sáng
mỗi ngày tụng hết cả Tam Tạng mười hai
bộ kinh th́ công đức rất lớn, nhưng xưa
nay, ngay cả các vị tổ sư cũng chưa ai có
thể niệm hết trong một buổi sáng được.
Sáu chữ trong một câu Phật hiệu, tôi chỉ
hiểu nổi ba chữ, hiểu biết mới
được một nửa như vậy mà đă có
thể giảng suốt ba mươi năm. Quư vị
lợi căn nếu hiểu được bốn
chữ th́ ắt sẽ thành tựu.
V́ sao một câu
Phật hiệu lại có hiệu quả lớn
đến thế? V́ kinh do Phật nói ra, Tăng do dựa
vào kinh mà có. Đă văng sanh rồi vẫn phải niệm Tam
Bảo. Phật đứng đầu Tam Bảo. V́
vậy, hiểu được một câu Phật hiệu
là thành công. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân
duyên để được sanh về cơi kia”. Niệm
Phật là trồng thiện căn. Cây có gốc mới có
thể sanh trưởng; có thiện căn th́ mới có
thể khai hoa, kết quả. Những điều này
trước đây tôi đă giảng qua, nhưng chỉ là
diễn giảng cách khác.
Ai cũng niệm kinh
Di Đà, nhưng vẫn không hiểu. V́ lẽ ǵ không hiểu?
Là v́ chưa có duyên khai ngộ. Trong Tịnh Tông cũng
cần phải khai ngộ. Không khai ngộ th́ là mê hoặc,
điên đảo, nhưng muốn khai ngộ phải là
người có phước khí. V́ thế kinh Di Đà nói: “Chẳng thể dùng chút thiện
căn, phước đức nhân duyên,”.
Muốn khai ngộ th́ phải tu phước.
Phước
đức là ǵ? Kinh Di Đà nêu ra ba mươi bảy Trợ
Đạo Phẩm, điều này khá rắc rối, không
phải ai cũng làm được. Sau này, các tổ sư
nói gọn lại là mười thiện nghiệp, nhưng
mọi người vẫn không hiểu, nên lại phải
nói pháp phương tiện là “tin
sâu nhân quả”; cốt yếu là “đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều thiện”. Thiện ác chủng loại
rất nhiều. Nếu như giữ được
năm giới cấm căn bản, khởi tâm làm
điều ǵ th́ hết thảy đều là v́ công (chẳng
tư tâm), đó là Thiện. Tâm riêng tư cuồn cuộn
th́ là Ác. Trừ khử ba sự ác căn bản là Tham, Sân,
Si, làm ǵ cũng v́ mọi người th́ là có phước
đức.
Có phước sẽ
khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phước
chí tâm linh”, nghĩa là: Phước đến, tự
nhiên tâm nhanh nhạy, vừa nói hiểu liền, giảng
một câu hiểu đến tám, mười câu. Vô
phước th́ tâm chẳng linh lợi, giảng cả
trăm câu c̣n chưa nghe hiểu được nổi
một câu. Học Phật cầu cảm ứng
đạo giao, cảm ứng được Phật th́
gọi là “linh cảm”. Tâm hôn mê, trầm trệ làm sao
cảm ứng được Phật? Dù Phật có
đến tiếp dẫn vẫn chẳng chịu đi.
Công phu phải tu tập hằng ngày. Tu hành chẳng trở
ngại đến nghề nghiệp dù là nông, công,
thương, công chức, y sĩ. Chỉ cốt sao dùng tâm
Bồ Đề làm việc th́ là Thiện, phước chí tâm
linh tự nhiên khai ngộ.
Ngày hôm nay kết
thất là đi dự thi, lúc b́nh thường khéo công phu
th́ lúc kết thất khả dĩ đắc Nhất Tâm,
chứ chẳng phải là cứ rêu rao rằng bảy ngày
liền được Nhất Tâm, liễu sanh tử. Trong
ṿng trời đất làm ǵ có chuyện thuận tiện
đến thế? Uống cạn một hơi chén trà c̣n
chẳng dễ, huống là đại sự liễu sanh
tử! Hoàn toàn là do thường ngày luyện tập. Tâm,
Phật và chúng sanh là cùng một sự. Trọn tấm ḷng
đều nghĩ đến mọi người, khởi
ư niệm nào cũng đều là Phật th́ tâm chính là
Phật. Tâm chẳng niệm Phật, tơ tưởng
toàn là những điều xấu xa tạp nhạp,
lộn xộn trong thế gian th́ tâm là phàm phu. Thành Phật
hoặc làm phàm phu đều là do tâm tạo. Tiếp theo
đây, tôi sẽ giảng một bài kệ để
kết thúc:
“Phật tại tâm trung mạc ngoại cầu” (Phật ở trong
tâm chớ ngoại cầu): Phật ở ngay trong tâm quư
vị, thành Phật hay thành chúng sanh đều là do chính quư
vị mà thôi. T́m cầu đức Phật bên ngoài là lầm
lẫn. Câu này nói về thiện căn, câu tiếp theo nói
về phước đức.
“Tham sân phóng hạ thị chân tu” (tham, sân buông bỏ
ấy chân tu): Tham, Sân, Si là ba phiền năo căn bản.
Chẳng buông bỏ được chúng để tu hành
đúng như lời dạy th́ chính là nói dối người.
Nếu như buông bỏ được chúng th́ mới là
chân chánh tu hành.
“Niên quang tam thập năi như cựu” (Ba mươi năm
rồi vẫn như cũ): Phật Thất tổ
chức ở đây đă ba mươi năm rồi, tôi
cũng đă đến giảng cả ba mươi năm.
Mười năm đầu, người thành tựu
chẳng ít. Mười năm kế giảm bớt.
Mười năm sau chẳng được như
trước. Năm nay tuy có ba người hiện
tướng lành văng sanh, nhưng nói chung là mỗi năm
lại kém hơn năm trước, vẫn là y như
cũ chẳng tiến bộ ǵ. Sau này ai lại đến
giảng trong ba mươi năm nữa đây?
“Thế Chí, Quán Âm đại phát sầu” (Thế Chí, Quan Âm
cũng phát rầu): Chúng ta
niệm Phật tệ hại như vậy, chẳng
phải chỉ ḿnh Phật A Di Đà không cao hứng mà cả
Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí cũng phải buồn giùm quư
vị. Mỗi cá nhân quư vị tu tập sao đây? Nếu
chẳng khéo tu tập th́ thuyền từ phổ độ
của Quán Âm Bồ Tát cũng chẳng độ
được quư vị. Thế Chí Bồ Tát dạy quư
vị nhớ Phật, niệm Phật, tịnh niệm
tiếp nối, quư vị cũng chẳng nghe. Hai vị
Bồ Tát phải buồn thay cho quư vị. Các Ngài buồn
chuyện ǵ? Các Ngài thấy ḿnh có lỗi đối với
A Di Đà Phật, dạy học sinh thế nào mà chẳng thành
công chi hết? Hôm nay là thánh đản đức A Di Đà, các
Ngài không có cách nào bái thọ A Di Đà Phật, hoàn toàn là do lỗi
của bọn ta.
IX. LỜI
TRẦN T̀NH CỦA CỤ TUYẾT TĂNG[3] NHÂN DỊP PHẬT THẤT NĂM NHÂM TUẤT
Kết Phật
Thất tại đây đă hơn ba mươi năm.
Mỗi lần kết thất, học nhân đều
đến đây giảng. Thoạt đầu, mỗi ngày
giảng một lượt, đem những sở học
về phương pháp Niệm Phật của chính ḿnh
cống hiến cho mọi người, c̣n hai chữ “khai
thị” chẳng đảm đương nổi. Ba
mươi năm qua, tôi đă nói rất nhiều về
pháp môn này cũng như cách niệm Phật, đều là
bàn về những kinh nghiệm của cổ nhân, chỉ
cần chọn lấy một điều để
thực hành th́ sẽ có thể thành công.
Hiện tại chính
là thời kỳ Mạt Pháp. Tu các pháp môn khác đều
phải cậy vào tự lực để đoạn
Hoặc, chứng chân. Muốn đắc tiểu quả A
La Hán cũng phải cả ngàn năm, vạn năm,
thật chẳng dễ thực hiện được.
Chỉ có mỗi Tịnh Độ là pháp môn Nhị Lực,
tự lực chẳng đủ th́ Phật lực
đến gia bị. Điểm đặc biệt nhất là
chẳng cần đoạn Hoặc, vẫn có thể
cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung Phật liền
đến tiếp dẫn, được văng sanh là thành
tựu. Pháp môn này thành tựu ngay trong đời này,
nhưng điều khẩn yếu là “cảm ứng đạo
giao”.
Nếu chẳng
cảm ứng đạo giao th́ chẳng thể
thành tựu. V́ sao chẳng cảm ứng? A Di Đà như
vầng trăng rạng ngời trên không, tâm người
niệm Phật giống như nước. Nước
phải trong lặng th́ vầng nguyệt mới soi bóng
được. Đấy là cảm ứng; có vậy th́
mới có thể tiếp dẫn văng sanh. Nếu tâm
chẳng thanh tịnh giống như nước
đục ngầu, vầng trăng chẳng hiện bóng
được. Đấy chính là chẳng cảm ứng, dù A
Di Đà Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng
văng sanh được.
Làm thế nào
để cảm ứng? Đấy chính là điểm khác nhau
giữa kết thất niệm Phật và niệm Phật
ở nhà. Đến đây rồi th́ tâm ǵ cũng buông xuống
hết, một ḷng niệm Phật, ở nhà đâu có làm
như vậy được. Kinh Di Đà chuyên giảng về
chấp tŕ danh hiệu, sáu chữ hay bốn chữ
Phật hiệu, một ngày, hai ngày hoặc là bảy ngày,
chỉ mong sao có ngày niệm đến Nhất Tâm, tâm
thủy lặng trong, cùng Phật cảm ứng,
đấy mới kể là thành tựu, lúc lâm chung mới bảo
đảm. Nếu chẳng làm được như
vậy th́ kết thất cũng uổng công, khác ǵ
niệm Phật tại nhà đâu.
Nói đến
Nhất Tâm th́ trong ngàn vạn người khó có
được một ai hiểu rơ. Chẳng hiểu th́ sao
mà làm được? Dù có làm được cũng sợ
là chẳng biết [ḿnh có thể làm được].
Vậy th́ làm sao đây? Đạo lư này, tôi là kẻ phàm phu hoàn
toàn chẳng biết ǵ. Tuy nhiên, trong Phật Thất
chẳng thể giảng kinh nên tôi chỉ dựa theo
nghĩa kinh và lời giảng giải của chư tổ
sư để tŕnh bày cùng quư vị.
Kinh Di Đà nói: “Nhất Tâm Bất Loạn”, thế
nào là Nhất Tâm? Lời tục nói: “Tâm vô nhị dụng”. Dụng tâm là khởi ư
niệm tính làm chuyện ǵ đó. “Vô nhị” nghĩa là khi ư
niệm phát ra ngoài th́ giống như vết kim đâm
rất nhỏ, chỉ có thể lọt qua một sự,
chứ hai sự chẳng lọt được. Khi ư
niệm đi vào trong tâm cũng giống hệt vậy.
Chỉ có một ư niệm lọt vào được
nhưng rất nhanh, rất nhỏ. Trong khoảng khảy
ngón tay, có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có một trăm
mười ư niệm, toàn là do nơi ḿnh giác ngộ. Hễ
giác ngộ th́ sẽ khéo làm được. Các tông khác
chẳng cho phép khởi ư niệm, mà phải đạt
đến vô niệm, rất là khó. Tịnh tông chẳng
sợ khởi niệm, chỉ sợ hay biết chậm.
Càng khởi càng niệm. Niệm ǵ? Niệm A Di Đà Phật.
A Di Đà mà ngừng một chút th́ ư niệm xấu bèn hiện
lên ngay. Nếu “tâm vô nhị
dụng” (tâm không khởi lên ư niệm nào khác) th́ mỗi
niệm khởi lên đều là A Di Đà Phật, cũng không
niệm điều ǵ khác. Đó chính là Nhất Tâm.
Lâm chung Phật
đến tiếp dẫn. Tiếp dẫn cái ǵ? Chẳng
phải tiếp dẫn cái túi da thối tha này, cũng
chẳng tiếp dẫn vọng niệm, mà là tiếp
dẫn cái tâm niệm Phật. Vừa mới khởi
vọng niệm liền tạo thành chướng ngại,
dù Phật ở ngay trước mắt cũng vẫn có
chướng ngại. Tâm ḿnh cùng Phật quang chẳng
chiếu rọi lẫn nhau được nên chẳng
thể cảm ứng đạo giao, nên chẳng phát sanh
hiệu lực. V́ vậy phải niệm cho đến Nhất
Tâm. Lâm chung “tâm chẳng điên đảo” th́ liền
được văng sanh thế giới Cực Lạc
của Phật A Di Đà.
Đến đây kết
thất niệm Phật mà chẳng hiểu rơ đạo lư
này th́ có khác ǵ niệm Phật ở nhà. Nếu như
ở nơi đây, tuy miệng niệm Phật, nhưng
tâm vẫn nghĩ đến chuyện khác th́ hỏng
rồi. Ngay trong lúc niệm Phật, tâm vừa nghĩ
tưởng đến phú quư liền chẳng thể ra
khỏi lục đạo, luân hồi, thân sau sẽ sanh lên
trời. Hễ nghĩ đến gia đ́nh th́ gia đ́nh
chẳng phải là Tây Phương, tương lai sẽ
lại làm người. Vừa nghĩ đến ḿnh hay hơn
người khác, ôm ḷng ngă mạn, thân sau chỉ e vào trong
đường Tu La. Nếu một mặt niệm
Phật, một mặt vẫn sanh khởi ba độc
Tham, Sân, Si th́ tương lai sẽ đọa làm hung
thần. Nếu lại tham đắm thức ăn th́ thân
sau đọa làm loài quỷ đa tài[4].
Nếu lúc niệm hôn trầm mà chẳng hay biết th́
tương lai sẽ đọa vào súc sanh. Nói chung
đều là tương ứng với lục đạo,
chẳng đến được Tây Phương.
Nhưng người
niệm Phật do công đức niệm Phật chẳng
đọa địa ngục, chẳng biến thành
ngạ quỷ, chẳng làm thân súc sanh hạ đẳng. Dù
sanh trong bất cứ loài nào cũng đều
hưởng phước, nhưng đến đời
thứ ba, do lúc chuyển thân, thần thức bị mê, công
đức niệm Phật chẳng thể hiện hành,
chỉ e lại bị đọa lạc rồi thọ
tội.
V́ thế, ở
nơi này niệm Phật, phải nên buông xuống hết
thảy, khi niệm sáu chữ hoặc bốn chữ
hồng danh phải từ trong tâm phát khởi, tai nghe cho rơ
ràng, minh bạch, lại in vào trong tâm, đi ra, trở vào,
niệm sao cho thành một mối, nhưng chỉ có
loạn tâm là chưa buông xuống được. Đến
khi Phật Thất kết thúc, chẳng phải là về
đến nhà liền được văng sanh đâu nhé!
Ở nhà lâu ngày, sáng tối niệm Phật chừng hai
tiếng đồng hồ, loạn tâm lại xuất
hiện th́ cũng vô dụng. V́ thế phải ǵn giữ
“tịnh niệm tiếp nối”. Ở đây làm như
thế nào th́ về đến nhà cũng phải làm
giống hệt vậy, tiếp tục chẳng gián
đoạn th́ mới thành công được.
Tôi chỉ giảng
đến đây, phải nhớ kỹ mới bảo
đảm được. Tiếp đây, tôi nói một bài
kệ để kết thúc:
“Ưng tri tán loạn niệm Di Đà”: Mọi người
phải biết: Nếu tâm tán loạn chẳng làm ǵ
được nổi, cứ niệm Phật như
thế th́ sẽ ra sao?
“Không phí công phu nan giải thoát”: Công phu uổng phí,
chỉ được phước báo, chẳng thể văng
sanh, vẫn ở trong lục đạo luân hồi,
rất khó giải thoát.
“Nhân sanh thọ mạng hô hấp gian”: A, cứ tà tà mà
niệm th́ sao? Tà tà không được. Kinh dạy: “Mạng người trong hơi
thở”. Một hơi thở ra không trở lại th́
liền thành đời sau, chớ tu hành lơ là.
“Nhất thất cơ duyên khổ vạn kiếp”: Hiện tại,
cơ duyên rất hiếm. Hễ bỏ lỡ cơ
hội, nhân duyên ắt sẽ thọ khổ. Thọ
khổ như thế nào? Luân chuyển trong lục
đạo, khó ra được nổi. Ngàn kiếp,
vạn kiếp mới có lại được thân
người. Tám ngàn năm sau là thời kỳ pháp diệt,
chẳng c̣n có Phật pháp, khác nào Bắc Câu Lô Châu, khó
được giải thoát. Tám ngàn năm là c̣n sớm
đấy. Người thọ trăm tuổi, khi thọ
báo hết chẳng văng sanh Tây Phương, sẽ sanh
về chỗ tốt đẹp trên trời. Tầng
trời thứ nhất là Tứ Vương Thiên, thọ
mạng năm trăm năm. Một ngày đêm trên trời
đó bằng năm mươi năm dưới thế.
Ở trên trời hưởng mấy vạn năm
phước trời, khi đọa xuống nhằm
thời kỳ Pháp Diệt, chẳng có Phật pháp, sống
sống chết chết chẳng hề được nghe
Phật Pháp, chẳng ra khỏi tam ác đạo nổi,
thọ khổ vạn kiếp.
(Đệ
tử Hoàng Khiết Di kính ghi)
Người trong cơi
đời, từ xưa không ai tránh khỏi một lần
chết. Dù là bậc thế gian thánh nhân, đến lúc
vẫn cứ phải chết như thế. Chỉ có
bậc thánh nhân xuất ly thế gian mới giải
quyết được vấn đề sanh tử.
Nhưng Đức Phật cũng chẳng thể ngay trong
một đời liền thành Phật, mà phải do tu hành
từng bước mới chứng được
Phật Quả. Cho nên nói: “Ông tu
ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng
đắc”. V́ thế, quư vị phải tin là ai cũng
phải chết, chỉ sợ “chết không
được thôi!” v́ sau khi chết đi, ắt sẽ
luân hồi trong lục đạo, nhưng trong sáu
đường, khó đạt được cơi trời,
người, đọa lạc trong tam đồ th́
khổ chẳng thể nói xiết.
Duy Thức Tông
lập ra cái gọi là “Tam Lượng”. Chữ
Lượng (量) có
nghĩa là “phân thốn” (phân, tấc, ư nói đo
đạc), “đong” hoặc “cân”. Vật phẩm phải
dùng cái cân để cân lường th́ mới có tiêu chuẩn
làm cơ sở để xác định. C̣n như trong
việc phân biện giữa các giáo th́ lấy ǵ để
chiết trung (折衷: Chọn lọc
lấy những điểm hay, đúng)? Phải dùng Thánh
Ngôn Lượng, tức là phải dùng lời Phật
dạy làm tiêu chuẩn để đo lường. Có
đáp án chánh xác như thế th́ tu hành mới có cơ
sở để dựa vào. Bây giờ, hăy so sánh xem chuyện tu
Tịnh Độ của mọi người là đúng pháp hay
chẳng đúng pháp. Nếu tu đúng pháp th́ là Tịnh
Độ Tông, tu chẳng đúng pháp bèn là “loạn ty vô đầu” (tơ rối tung không
thấy đầu mối).
Chúng ta là đạo
tràng Tịnh Độ, phải nghĩ kỹ đến
tận cùng chữ Tịnh. Người tu hành chẳng
đến đạo tràng để cầu náo nhiệt, mà
là cầu công đức và thiện căn. Một câu A Di Đà
Phật là thiện căn lớn nhất. Chỉ cần
quư vị niệm đến tâm tịnh th́ là sống trong
Tịnh Độ. Nếu trong tâm chẳng tịnh, loạn
tạp lung tung th́ chính là “loạn
ty vô đầu” như trên đă nói. Tâm loạn như
vậy th́ lúc thế này, lúc thế khác, chẳng thể
đạt được lợi ích chân thật.
V́ thế, tham dự
Phật Thất cầu Nhất Tâm Bất Loạn th́
phải niệm niệm đặt nơi Phật hiệu,
có vậy mới có thể văng sanh. Nếu không, suốt ngày
niệm kinh này, niệm kinh kia, không có chút tŕnh tự tu
tập nào th́ chính là “loạn ty
vô đầu”. Nếu quư vị thật sự tin
tưởng vào sáu chữ hồng danh th́ mới chứng
được quả vị. Chẳng tin th́ dù có niệm
rách họng cũng uổng công!
Cầu Nhất Tâm
Bất Loạn chính là Thánh Ngôn Lượng từ kim
khẩu của Phật, là điểm trọng yếu
của Tịnh Tông, có vậy mới có thể đới
nghiệp văng sanh. Nghiệp là nghiệp lực, nghiệp do
ḿnh tạo th́ thân ḿnh phải mang lấy, đó chính là
phiền năo. Chỉ cần chế phục được
phiền năo th́ sẽ được văng sanh, đoạn
sạch sanh tử th́ mới gọi là Niết Bàn. Đấy
đều là những điều Phật dạy. Nếu
hoài nghi lời Phật dạy, cho là sai lầm th́ c̣n
học Phật để làm ǵ?
Tiếp đây, tôi
giảng một bài kệ để kết thúc:
Lục tự dĩ ngoại giai phi nhất,
Nan dữ Di Đà cảm ứng thời
Thánh lượng thị Phật thân khẩu
thuyết,
Nguyện nhữ khoái đao đoạn loạn ty!
(Tạm dịch theo
ư:
Chỉ danh hiệu
Phật là thuần nhất,
Niệm Phật tán
loạn khó cảm thông,
Thánh lượng chính
miệng đức Phật dạy,
Mau dùng dao bén chặt
tơ rối)
“Lục tự” là “nam mô A Di Đà Phật”. Ngoại
trừ niệm sáu chữ này ra, tất cả những
thứ khác đều chẳng thuần nhất. Nếu quư
vị niệm Phật nhưng tâm mơ tưởng chuyện
khác th́ sao? Tâm chẳng trụ vào sáu chữ hồng danh
sẽ khó cảm ứng Phật. Chữ “loạn ty vô đầu” là tiếng cổ, là Thánh
Ngôn Lượng. Một cục tơ rối, không hề có
đầu mối ǵ hết, gỡ bao giờ mới xong?
Xin quư vị cầm con dao bén chặt ngay cho nó đứt
đôi ra, tức là Nhất Tâm rồi, chẳng c̣n loạn
nữa.
Kinh Di Đà nói rơ thế
giới Cực Lạc được trang nghiêm bởi
vàng, bạc, lưu ly, xích châu, mă năo... Đấy đều là
lời Phật nói. Nếu quư vị không tin, chỉ thích nói
là đất phủ cỏ xanh th́ cứ việc tùy
tiện. Đă tin vào Tịnh Độ Tông rồi th́ phải
biết điều tối khẩn yếu hoàn toàn là sáu
chữ hồng danh. Đừng có nói sáu chữ này nông cạn.
Nếu thật sự là kẻ giải ngộ sâu xa, sẽ
thấy sáu chữ ấy sâu xa, giải ngộ nông cạn
sẽ thấy là nông cạn, hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi
người mà thôi! Các đồng tu hăy mau cầu
Nhất Tâm, dao bén chặt tơ rối, lời Phật
chẳng dối đâu!
XI. KHAI
THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM ẤT
SỬU
(Đệ tử
Ngô Bích Hà kính ghi)
* Dốc ḷng trừ mạn chướng, thiết tha
cầu Nhất Tâm
Thưa các vị lăo
sư, các vị đồng tu.
Hôm nay tôi đến
đây giảng, trước hết thanh minh một
điều: Tôi hoàn toàn không đến đây để
giảng khai thị. Hai chữ “khai thị” tôi đảm đương
chẳng nổi, tôi chỉ đem những kinh nghiệm
của chính ḿnh ra bàn bạc để người này,
người kia tham khảo mà thôi.
Tiếp đến,
thanh minh một câu nữa: trong lúc ngồi giảng ở
đây, xin miễn hết thảy những khách sáo thế
tục, chỉ nghiên cứu “Nhất Tâm Bất Loạn”.
Người giảng, người nghe đều lấy
“Nhất Tâm Bất Loạn” làm mục tiêu. Nếu không,
bị phân tâm một phần th́ chẳng phù hợp với
Phật Thất vậy. Xin quư vị nhiếp tâm, tâm không
nghĩ ǵ khác lắng nghe!
Luận về
“Nhất Tâm” th́ đây là một đạo tràng đă lâu,
hẳn quư vị hiểu rồi. Đă hiểu rồi th́ xin
hỏi một câu: “Quư vị đạt được hay
chưa?” Hơn ba mươi năm qua, có vị nào
đạt được Nhất Tâm Bất Loạn
chưa? Nếu như năm nào cũng dự Phật
Thất nhưng năm nào cũng tán loạn th́ có phải
là dự Phật Thất trở thành chuyện phù phiếm
hay sao? Thế nhưng, người học Phật làm ǵ
cũng phải chân thật. Bài kệ khai kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”. Việc hư dối th́ có làm cũng
vô ích. Đă vậy th́ quư vị ắt sẽ tự hỏi:
“Niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn trọn
chẳng hề có ư?”
Tôi chẳng rơ là trong số
quư vị, hoàn toàn không có một ai làm được
chăng? Ngược lại, tự hỏi ḿnh
trước. Với tôi th́ Nhất Tâm Bất Loạn có
thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian
ngắn sẽ đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Nói
như vậy ít nhiều đă có “cống cao, ngă mạn”,
tự ḿnh khoa trương. Tiếp đây, chúng ta sẽ bàn
về “cống cao, ngă mạn”. Trong ba mươi năm qua,
tại nơi đây, dự Phật Thất, tôi giảng
qua vấn đề này chẳng biết là đă bao nhiêu
lần, nhưng giảng rất nông cạn. Quư vị trong
tâm ngầm coi thường, nghĩ rằng: “Ông không
cần phải nói, những chuyện đó tôi từng nghe
qua rồi!” Quư vị ơi! Khó biết được
chuyện nào ḿnh đă thật sự nghe qua lắm
đấy! Nếu c̣n giữ tâm như vậy th́ chẳng
đắc Nhất Tâm, mà là được cống cao, ngă
mạn, vẫn c̣n là phiền năo. Nói như vậy nghĩa
là sao?
Quư vị nghe kinh
cũng nhiều, xem kinh chẳng ít, đáng coi là bậc
đa văn, nhưng chỉ hiểu được về
mặt văn tự, chứ xét về mặt công phu chân
thực th́ chẳng đáng bàn tới. Luận đến
chân lư “tâm, Phật, chúng sanh b́nh
đẳng bất nhị”, quư vị đă hiểu
được đạo lư này hay chưa? Nói đến Phật
th́ chưa từng thấy qua. Nói đến chúng sanh th́
mọi người đều nghĩ là ḿnh đă từng
thấy qua chỉ v́ trong tâm nghĩ như thế này:
“Người khác là chúng sanh, c̣n ḿnh chẳng phải”.
Đấy là cống cao, ngă mạn. Học như vậy bèn
chỉ học được phiền năo, làm sao chúng ta luôn
thấy “Phật, tâm, chúng sanh là b́nh đẳng” cho
được? Quư vị bề ngoài b́nh đẳng
nhưng đa số là trong tâm chẳng b́nh
đẳng. Đấy chính là đại phiền năo!
Bàn đến
phiền năo th́ trong trăm pháp, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,
Bất Chánh Kiến thuộc về căn bản phiền
năo. Ngoài ra c̣n có trần sa phiền năo, căn bản vô minh.
Ba loại này đều là bệnh ai nấy đều có,
ai nấy chẳng tự hay. Càng học Phật, niệm
kinh chẳng tự biết, phiền năo càng nặng
đều là do quan niệm “tôi xem sách hoặc nghiên cứu
kinh chẳng ít”. Nhưng kinh giống như thuốc.
Nếu như uống lầm thuốc chẳng đúng
bệnh, rốt cuộc có lợi ích chi? V́ thế, chúng ta
chẳng thể thành tựu chính là do cống cao, ngă
mạn. Tôi chẳng nói đến những việc khác
bởi chính cống cao, ngă mạn khiến cho mọi
người sau này thoái chuyển, làm sao c̣n bàn đến
chuyện đắc Nhất Tâm Bất Loạn
được nữa?
Nói như vậy th́
phải trừ khử cách nào mới nên? Phải “trong tâm
thật sự trống không, một niệm chẳng
khởi”. Đấy là chân lư. Nguyên lai bổn tánh là bất động,
hễ động th́ gọi tên khác là Tâm. Chúng ta chẳng
thường hay nói là “khởi tâm động niệm”
đó sao? Khởi tâm chính là khởi lên ư niệm. Một ư
niệm vừa khởi lên bèn có mục tiêu nên sẽ
tạo nghiệp. Tạo nghiệp sẽ phải lănh
quả báo. Thiện nghiệp th́ thiện báo, ác nghiệp
th́ ác báo. Các báo thiện, ác lại chẳng thể triệt
tiêu lẫn nhau, làm ǵ phải chịu báo nấy. Giống
như nay chúng ta được báo ứng, so với ba ác
đạo th́ vẫn c̣n khá hơn. Tuy vậy, chúng sanh
gồm có cửu giới[5],
nhân loại chỉ là một trong chín giới đó, vẫn
chỉ là tạm thời ngoi đầu lên trên biển khổ
mà thôi. Vẫn là nhiều đời, nhiều kiếp
đến nay, chẳng biết mấy khi làm lành, tạm
hưởng được thiện báo.
Nói đến
thiện báo th́ phải có được thân người
th́ mới có thể giải thoát. Nếu chẳng
được thân người th́ đừng nói chi
đến chuyện hiểu Phật pháp, ngay cả chuyện
hiểu thông suốt những ngôn ngữ b́nh thường
đă khó khăn rồi: Chim có tiếng chim, thú có tiếng
thú. Nói đến thiện báo được làm thân
người th́ xét đến cùng là do tạo nghiệp nào
mà được, chỉ sợ chúng ta đều chẳng
tự biết vậy.
Nói chung, từ vô
thỉ kiếp cho đến hiện tại, chúng ta
tạo nghiệp, lănh báo, một bề biến hóa không
ngừng, vậy th́ hiện tại chúng ta phải nên làm ǵ?
Trước khi xét đoán phương pháp, chúng tôi xin minh
định trước: Hễ có thân là phải có khổ.
Nếu không có cái thân tứ đại giả hợp này th́
không có chỗ nào để thọ khổ cả. Muốn
tiêu tội nghiệp th́ phải bắt đầu từ
đầu nguồn. Đầu nguồn chính là Tâm. Tâm không có
h́nh dáng nhưng lại chính là nguyên động lực lôi
kéo chúng ta luân lạc sanh tử. Chúng ta khởi tâm
động niệm bèn tạo nghiệp, nhiều
đời nhiều kiếp chồng chất chẳng
biết là bao nhiêu.
Trong kinh dạy: “Nếu như ác nghiệp có
thể tướng th́ trọn cơi hư không chẳng
thể chứa đựng nổi”. Nghiệp nhiều
như thế đấy. Chẳng cần nói đến
kẻ không siêng niệm Phật; đối với
người khéo niệm Phật, có phải là sẽ tiêu
sạch được ác nghiệp từ trần sa
kiếp chăng? Chỉ e rằng chẳng đơn
giản như vậy. Ví như vầng Thái Dương
chiếu xuống tuyết, tuyết tan thành nước.
Thế sao tuyết đọng trên Tuyết Sơn suốt
năm chẳng tan? Há có phải là mặt
trời chẳng rọi xuống Tuyết Sơn đâu! Lời
tục nói: “Băng đóng ba
thước, chẳng phải là trời lạnh một
ngày”. Chỉ đơn độc cậy vào sức ḿnh,
làm sao đạt được “tâm không?” Làm sao tiêu trừ
tội nghiệp cho được? Nói như thế th́
nhất định phải nhờ cậy [sức
Phật]. Đấy chính là Nhị Lực.
Điều thứ hai là
chữ Nhị Lực chẳng phải chỉ nói về hai
lực ấy, mà c̣n hàm chỉ nhiều thứ. Chẳng
hạn như trong đạo tràng này có rất nhiều
người, nhưng ta cũng có thể nói là có hai loại
người. Một là giảng, hai là nghe. V́ thế chỉ
nói “hai” nhưng đă bao gồm người giảng,
người phiên dịch, người nghe, người lo
liệu công việc... biết bao là thứ. V́ thế
chữ “Nhị” c̣n hàm ư “rất nhiều”.
Trong kinh A Di Đà,
mười phương chư Phật đều nói: “Chúng sanh các người
đều nên tin vào kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng
Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư
Phật Hộ Niệm này”. Phật nói với Bồ Tát,
Bồ Tát lại đem lời ấy tuyên thuyết,
lần lượt lan truyền rộng răi như thế
trùng trùng vô tận, rốt ráo chẳng hề có kết thúc.
Quư vị nghĩ xem, nghĩ đến cùng là nhiều hay
không nhiều vậy? V́ thế, sức của ác nghiệp
cố nhiên là to, nhưng sức của mười
phương chư Phật cũng rất to. Do mười
phương Phật đến giúp ta tiêu nghiệp th́
sợ ǵ chẳng thành tựu cơ chứ?
Kinh A Di Đà dạy: “Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ tŕ và nghe danh
hiệu chư Phật th́ các thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy đều được hết thảy
chư Phật hộ niệm”. “Niệm” có nghĩa là
trong tâm Phật có ḿnh. Tâm Ngài đă có ḿnh th́ nếu ḿnh có
chuyện ǵ, các Ngài sẽ đến giúp cho. Đấy là
“Hộ”. Nói như vậy có phải là chúng ta cứ ngồi
chờ Phật đến rước chăng?
Phật giáo Nhật
Bản có một tông phái mệnh danh là Chân Tông chuyên
giảng về nguyện thứ mười tám trong bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, cho rằng
chỉ cần tin vào Phật th́ Phật sẽ đến
tiếp dẫn văng sanh. Thật ra làm ǵ tiện lợi
như vậy! Cầu Phật đến tiếp dẫn
phải có đủ Tín - Nguyện - Hạnh th́ mới
cảm ứng được!
Thế nào là Cảm
Ứng? Giống như quư vị niệm Phật ở
nơi đây (không phải là xướng Phật) th́
Niệm chính là Tâm của quư vị, tâm quư vị khởi niệm
nơi Phật th́ Phật hộ niệm quư vị. Hai bên
ḥa hợp, đó là Cảm Ứng. Nhưng niệm Đức
Phật nào? Niệm A Di Đà Phật. Nếu một mặt
vừa niệm Phật A Di Đà, một mặt lại
niệm Phật Dược Sư, tự cho rằng
“đằng nào cũng là niệm Phật” th́ lại là
lầm mất rồi, sẽ chẳng được
cảm ứng.
Quư vị xem đây: Hai
bàn tay tôi vỗ vào nhau phát ra tiếng. Đấy là một
loại âm thanh. Dùng tay vỗ lên bàn th́ lại là một
loại âm thanh khác. Hai loại khác nhau. V́ thế,
đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy quư vị niệm A
Di Đà Phật th́ quư vị niệm A Di Đà Phật, chỉ nên
tuân theo Thánh Lượng th́ mới được lợi ích!
Tiếp đây, tôi
đem các phương pháp dạy niệm Phật của
chư Tổ Sư tặng cho quư vị. Nếu thật có
thể hành đúng như pháp th́ sẽ có thể chế
phục Hoặc, đạt được Giả Nhất
Tâm (Nhất Tâm có hai loại: Lư Nhất Tâm là chân lư, Sự
Nhất Tâm thuộc về tướng trạng bên ngoài, là
phương tiện. V́ thế, Sự Nhất Tâm c̣n
được gọi là Giả Nhất Tâm), sau rồi
sẽ được văng sanh.
“Niệm Phật bất tất cầu đa
niệm”:
Niệm Phật chẳng cần phải niệm cho
thật nhiều.
“Đản niệm bát bách tâm bất loạn”: Niệm một xâu
chuỗi một trăm lẻ tám tiếng sao cho dù một
chữ cũng chẳng loạn.
“Kỳ trung trước hữu nhất niệm sai”: Trong một trăm
lẻ tám câu niệm ấy, nếu như có một câu
niệm lầm lẫn.
“Trạo chuyển châu đầu đô bất toán”:
Những câu niệm từ đầu xâu chuỗi tính
đến câu sai ấy đều không tính nữa. Câu này
rất khẩn thiết. Có một điểm cần
phải chú ư là “tự niệm, tự nghe”. Lúc niệm
phải niệm sao cho rơ ràng, tách bạch. Lúc nghe cũng
phải nghe sao cho phân minh, rành rẽ. Hễ niệm sai
một câu th́ phải niệm lại từ đầu. Lúc
quư vị thực hành công khóa chánh, nên làm theo đúng
phương pháp đă dạy trong bài kệ này để
ḥng cầu được Nhất Tâm Bất Loạn. C̣n
như lúc tán niệm (niệm Phật ngoài thời công khóa
chánh) th́ có thể tùy duyên.
Hiểu rơ những
điều trên đây rồi th́ không cần phải
mất công nói nhiều nữa, cứ chiếu theo đó mà
làm là được. Tiếp đây, tôi dùng một bài
kệ để tổng kết lại:
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao,
Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao,
Tŕ danh dung dị nan trừ mạn,
Vô giá bảo châu tùng thử phao
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao” (tinh hoa của vạn
pháp được bao gồm trong sáu chữ): Phật pháp
vô biên, Trung Quốc gọi là Tam Tạng (nhưng thật ra
c̣n rất nhiều kinh chưa được phiên dịch
[sang tiếng Hán]), gọi chung là “vạn pháp”. Chữ “tinh hoa” chỉ tinh thần
chân chánh [của vạn pháp], cũng có nghĩa là những
lời trọng yếu. Chỉ niệm sáu chữ là đă
bao quát cả Tam Tạng mười hai bộ kinh, cũng
có thể nói là đă hiểu được Tam Tạng
mười hai bộ kinh rồi th́ mới hiểu
được sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật”. Nếu
chẳng thể niệm hết toàn bộ kinh tạng th́
niệm sáu chữ cũng giống như niệm hết
toàn bộ kinh tạng vậy.
“Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao” (Dùng thánh ngôn làm Chân Lượng
để nhổ trừ cỏ tranh trong tâm): V́ sao nói là sáu
chữ bao gồm trọn vẹn Tam Tạng? Quư vị
phải chân chánh dốc ḷng niệm sáu chữ này, tâm
chẳng chạy theo bên ngoài th́ sẽ mau chóng
được khai ngộ. Thế nhưng, quư vị đă
khai ngộ chưa? Chưa. V́ sao chưa? Là v́ tâm nhăn quư
vị bị cỏ tranh (mao thảo) che lấp cho nên chẳng
thể mở ra được. Hiện tại, ta tuân theo
Thánh Ngôn niệm sáu chữ này chính là nhổ bật cỏ
tranh che lấp để tâm nhăn được rộng
mở.
“Tŕ danh dung dị, nan trừ mạn”: (Tŕ danh khá dễ, nhưng
mạn vẫn khó trừ): Chữ “danh” chỉ danh hiệu A Di Đà Phật. “Tŕ” là nắm giữ,
chẳng buông bỏ, mà cũng là niệm. So với niệm
kinh, tŕ danh dễ dàng hơn, nhưng vẫn có chỗ khó khăn.
Tức là c̣n cống cao, ngă mạn, tự cho rằng: “Tôi
làm rồi, tôi hiểu rồi”. Hễ có cái căn bản
phiền năo này th́ sẽ chẳng thành tựu. Học
Phật th́ bước thứ nhất là Vô Ngă. Có Ngă th́
cũng văng sanh, nhưng tiếc là văng sanh trong lục
đạo, vĩnh viễn chẳng giải thoát. V́
thế, muốn được giải thoát th́
trước hết phải trừ Ngă Mạn. Trừ
bằng cách nào? Nhà Phật có nói đến Lục Ḥa
Hợp, hết thảy đều b́nh đẳng. Nhưng
Ngă Mạn rất khó trừ.
“Vô giá bảo châu tùng thử phao” (bảo châu vô giá do đây
mà bị ném đi): Nếu chẳng trừ Ngă Mạn th́
khác nào xem thường ném bảo châu vô giá Tam Bảo đi.
Ở nơi này,
chư vị hăy thử thí nghiệm phương pháp
vừa nói trên đây, hết thảy đều buông
xuống hết, chỉ cầu Nhất Tâm thôi!
XII. KHAI
THỊ PHẬT THẤT NĂM CANH THÂN TẠI CHÙA LINH SƠN
(Đệ
tử Hoàng Vịnh kính ghi)
Thưa chư vị
lăo sư, chư vị đồng tu.
Phật Thất chùa Linh Sơn
đă được duy tŕ hơn ba mươi năm,
mỗi năm tôi đều tham gia. Trước kia, lúc Chính
Phủ [Trung Hoa Dân Quốc] chưa đến Đài Loan,
Phật giáo tỉnh này vẫn c̣n chưa phát triển. Dù có chùa,
miếu, nhưng đại đa số chỉ để
tự tu, chẳng chú ư mấy đến việc hoằng
pháp lợi sanh. Những việc hoằng pháp lợi sanh
như Phật Thất v.v... thực sự do chùa này
khởi xướng. Lần Phật Thất này, những
bạn đồng tu mới nhiều hơn cựu
đồng tu. Lời giảng của tôi khó thể thích
hợp với các loại căn cơ. V́ thế lần
giảng này dựa trên nguyên tắc cốt sao cho các bạn
tân đồng tu hiểu được, mong các cựu đồng
tu từ bi tùy duyên nghe giảng.
Phật Thất ở nơi này là
Phật Thất của Tịnh Độ Tông. Nói đến Tịnh
Độ Tông th́ ai ai cũng biết cả v́ nó quá phổ
biến, nhưng thực sự th́ rất ít người
hiểu rơ nội dung Tịnh Độ Tông. Chẳng phải
chỉ người ngoài không biết, ngay cả trong
cửa Phật, những người hiểu rơ Tịnh
Độ Tông cũng chẳng nhiều. Thậm chí
người đang tu Tịnh Độ Tông cũng chẳng hiểu
rơ lắm! Ở đây, tôi phải thanh minh trước: Hôm nay,
tôi không đến đây để khai thị mà chỉ
đến tṛ chuyện. V́ người hiểu đúng Tịnh
Độ Tông quá ít, nên tôi chỉ tường tŕnh lại theo
đúng kinh điển, lời giảng của chư
Tổ mà thôi.
Tại gia công phu tu
hành chẳng thể rốt ráo hoàn toàn, người xuất
gia khéo tu tập có thể chứng được Tứ
Quả A La Hán. Ở đây, tôi chẳng bàn đến
người tại gia. Muốn chứng Tứ Quả A La
Hán phải trải qua một thời gian lâu chừng
mấy ngàn năm. Luận về người đời
sau sẽ chứng được Sơ Quả th́ trong
mười vạn người chẳng dễ t́m
được một người. Dù có chứng quả A
La Hán đi nữa th́ cũng chỉ hiểu
được phương pháp để chứng quả
La Hán, chứ đối với pháp môn Tịnh Độ
cũng chẳng thể hiểu được dễ dàng.
Đấy chính là điều được nói trong kinh,
chứ chẳng phải chính tôi bịa ra. Nếu kinh
Phật không chép th́ dù một câu tôi cũng chẳng dám nói.
Ai hiểu
được pháp môn Tịnh Độ? Quả vị Bồ
Tát có năm mươi hai địa vị. Hàng Bồ Tát
trước khi chứng quả trong Thập Địa, c̣n thuộc
vào Hiền Vị, vẫn chưa hiểu được.
Những vị nào đă chứng quả trong Thập
Địa th́ gọi là Thánh Vị, cũng chỉ hiểu
được một nửa. Phải là thành Phật
rồi mới có thể hiểu triệt để pháp môn
Tịnh Độ. Chỉ có Phật với Phật mới
hiểu thấu cùng tận. Mọi người nghe
đến đây phải đặc biệt chú ư: Quư
vị được nghe danh hiệu Phật, tu
được pháp môn Tịnh Độ, ắt là trong ngàn
đời, vạn kiếp đă trồng đại
thiện căn, làm đại thiện sự th́ mới
đạt được như vậy. Nhưng nếu
đă biết pháp môn Tịnh Độ thù thắng th́ phải
dụng công tu tŕ, có tu mới thành công, không tu chẳng
thành công.
Có người
chưa nghe nói đến Tịnh Độ, cũng chẳng
hiểu Tịnh Độ là cái ǵ, tự ḿnh chẳng biết,
nếu miệng chẳng khích bác th́ không tạo tội. Nhưng
nếu chẳng hiểu Tịnh Độ là pháp khó tin, lại
tự lầm tưởng ḿnh là thông minh, hủy báng pháp môn
Tịnh Độ th́ là không được. Bởi lẽ,
hủy báng Phật pháp chính là gây tội tam đồ,
thế nhưng hủy báng pháp môn Tịnh Độ lại
chính là tội Vô Gián địa ngục! Quư vị phải
nên đặc biệt chú ư cẩn thận. Tịnh Độ
Tông là pháp khó tin, rất sâu xa, chỉ ḿnh đức
Phật mới có thể hiểu triệt để. Ngoài
ra, phải là hạng đă chứng Bát Địa Bồ Tát
mới hoàn toàn tin nhận được thôi. Chúng ta
chẳng hiểu, chẳng tin th́ càng phải đặc
biệt lưu ư, ngàn muôn phần chớ tạo tội
nghiệp.
Nếu pháp môn
Tịnh Độ chỉ riêng Phật với Phật mới
có thể hiểu thấu tột cùng th́ sao đức
Phật lại đem pháp khó tin, khó hiểu này phổ
biến, dạy chúng sanh tu tŕ? Tôi cũng chẳng đáp
thông được, chỉ dẫn lời Phật
để đáp. Hết thảy các pháp môn khác chung cục
đều nhằm để thấu triệt “bất sanh,
bất diệt, liễu sanh thoát tử”. Các tôn giáo trên toàn
cầu tu đến mức cao nhất th́ chỉ sanh lên
trên trời, chỉ riêng ḿnh Phật giáo có thể liễu
sanh thoát tử. Nhưng nói chung tu các pháp môn trong nhà Phật
đều phải chịu khổ lớn như
thường nói: “Chẳng
mắc ma nạn th́ chẳng thành Phật”. Đa số
người tu hành chẳng chịu nổi đại
khổ, đấy là một điều khó khăn.
Hơn nữa,
thời gian tu tập rất dài, chứng quả La Hán
đă phải mất mấy ngàn năm. Phàm phu thọ
mạng hữu hạn, trong mấy mươi năm làm sao
chứng quả được? Lại phải tu tập
từng bước, thành công thật chẳng dễ dàng ǵ.
Tịnh Độ Tông tuy
người người chẳng hiểu, nhưng có
điều cực thuận tiện là v́: A Di Đà Phật
chính là vị Phật tiếp dẫn, thế giới
Cực Lạc tuy cách xa mười vạn ức cơi
Phật, A Di Đà Phật phát nguyện đích thân đến
tiếp dẫn. Trong mười phương tuy đều
có Tịnh Độ, đều có Phật và Bồ Tát,
nhưng chưa từng phát nguyện đến tiếp
dẫn, ḿnh có năng lực tu đạt đến đó
th́ tự ḿnh đi về đó nên chẳng dễ thành
tựu. Văng sanh Cực Lạc thế giới th́ có thể
thành tựu ngay trong đời này. Đời người
ngắn ngủi mấy mươi năm, đầy đủ
tư lương Tín Nguyện Hạnh, lâm chung chánh niệm
phân minh, Phật liền cầm hoa sen đến tiếp
dẫn. Ta liền ngồi lên hoa sen sanh về thế
giới Cực Lạc, dứt sạch sanh tử, thật
là thuận tiện quá sức. Điều này trong Tam Tạng
kinh điển đă nói tường tận, tu pháp môn
Tịnh Độ thù thắng là ở chỗ này.
Tu các pháp môn khác th́
cần phải “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”, hoàn toàn
cậy vào tự lực, tu hành trong một thời gian dài.
Tu pháp môn Tịnh Độ dù đạo lư chẳng dễ
hiểu, nhưng chỉ cần Tín - Nguyện - Hạnh là
có thể thành tựu. Nếu không th́ đừng nói là tu
hai, ba mươi năm chẳng hiểu được lư
Tịnh Độ, dù có tu năm trăm năm cũng chưa
chứng được quả La Hán, cũng vẫn
chẳng hiểu được lư Tịnh Độ.
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ
Tát phải tu hành qua các địa vị Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng. Đạt đến Thập Hồi
Hướng mới hiểu được Phật lư,
mới hành bố thí triệt để được, nhưng
tu đến Thập Hồi Hướng phải mất
hai đại A Tăng Kỳ kiếp, thực chẳng
dễ chi! Nay tôi đối trước Đức Phật
thuyết pháp, nếu nói nhầm một câu th́ chính là
hủy báng Phật pháp, người thuyết pháp phải
đọa địa ngục. Tôi đă hơn chín
mươi sáu tuổi, c̣n đến đây tạo tội
địa ngục làm ǵ? Tôi khùng như thế chăng? Nói
tóm lại, Tịnh Độ Tông thật chẳng dễ
giải thích, chẳng dễ hiểu ǵ.
Chúng ta đă phát tâm tu
hành, nếu chẳng tu hành thành công th́ chẳng đáng
tiếc lắm sao? Muốn giải thích Tịnh Độ cho
rơ ràng chẳng dễ dàng ǵ, từ Tổ Sư của Tịnh
Độ Tông Trung Quốc là ngài Huệ Viễn đại
sư đời Đông Tấn cho đến ngài Ấn Quang
đại sư thời Dân Quốc, những lời khai
thị của các ngài đều xuất phát từ kinh
Phật. Kinh Hoa Nghiêm là vua các kinh, là vua của cả Tam
Tạng, thế mà trong phẩm cuối cùng, Phổ Hiền
Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc. V́ thế phải biết
rằng: Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát
đều tu pháp môn Tịnh Độ, cầu sanh Cực
Lạc thế giới. Kinh dạy: “Ly kinh nhất cú, tức thị ma thuyết” (nói
sai khỏi kinh một câu, chính là ma nói). Kinh Pháp Hoa cũng
dạy: “Y pháp bất y nhân”
(nương theo pháp, chẳng nương theo người).
Chúng ta tu Tịnh Độ nương theo lời Phật, có
bằng chứng chân thật. Nếu không, dù ai có danh
tiếng lớn lao đến đâu mà lời nói chẳng
phù hợp với lời Phật, chúng ta cũng chẳng
tin.
V́ sao Tịnh Độ
Tông chỉ nói Tín - Nguyện - Hạnh mà chẳng nhắc
đến Giải? Trong kinh cũng có thí dụ: Dù cho
bậc trí huệ đệ nhất là ngài Xá Lợi
Phất, khắp toàn thân đều có miệng, và lại có
vô lượng vô biên Xá Lợi Phất trong vô lượng
vô biên kiếp giảng giải đạo lư Tịnh Độ
th́ cũng chẳng thể giảng trọn hết. Tôi
vốn chẳng có năng lực ấy, chỉ có một
hai quyển kinh làm cơ sở, ngay cả kinh A Di Đà tôi
cũng c̣n hiểu chưa hết. Trong kinh ấy câu nào
cũng đều là vô lượng vô biên bí quyết
trọng yếu để tu hành. V́ vậy, muốn thoát
sanh tử th́ phải là kẻ đă liễu sanh tử
mới chẳng đến nỗi lầm lạc. Tịnh
Độ Tông lấy Tín - Hạnh - Nguyện làm cơ sở,
chúng ta cứ chiếu theo đó mà hành. Phật là bậc
đă liễu sanh tử, Phật dạy như thế nào,
ta cứ tin như thế ấy, hành như thế ấy
ắt sẽ thành công. Nếu tự lầm cậy ḿnh thông
minh, nhất định sẽ hiểu biết sai lạc
vậy.
Trong Tín - Nguyện -
Hạnh, Tín là ǵ?
Thứ nhất, tin
rằng nếu không học Phật sẽ vĩnh viễn
luân hồi trong lục đạo, chẳng được
giải thoát. Bất cứ tôn giáo khác nào đều
chẳng thực hiện được việc này.
Thứ hai, tin
rằng học Phật th́ phải mất ba đại A Tăng
Kỳ kiếp mới có thể thành Phật. Chỉ có pháp
môn Tịnh Độ trong thời gian ngắn liền có
thể thành tựu ngay trong đời này. Cổ
đức nói: “Vạn
người tu vạn người đậu”. Kinh A Di
Đà dạy: “Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân, nghe kinh này mà thọ tŕ và nghe
danh hiệu chư Phật th́ các thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy đều được hết
thảy chư Phật hộ niệm, đều
được chẳng thoái chuyển nơi Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Đấy chính là “vạn
người tu, vạn người đậu”. Nhưng
chúng ta ở đây dù niệm Phật dăm ba năm
cũng chỉ là miệng niệm. Chỉ khi văng sanh Tây
Phương rồi th́ nghe chim chóc, cây
cối phát
ra tiếng bèn niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Lư thâm áo này phàm phu chẳng thể hiểu nổi,
ngay cả bậc đă chứng Nhị Quả cũng không
cách nào hiểu rơ. Chỉ nên tin chắc vào Thánh Ngôn
Lượng chẳng nghi th́ mới có thể thành công.
Thứ ba, tin sâu xa
rằng chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, quyết
định sẽ thành tựu trong đời này, quyết
định “vạn
người tu, vạn người đậu”.
Thứ tư, tin
rằng lúc văng sanh, A Di Đà Phật nhất định
đến trước ḿnh tiếp dẫn văng sanh thế
giới Cực Lạc. Tin sâu rằng đă tu pháp môn
Tịnh Độ th́ phải chấp tŕ danh hiệu chẳng
buông. Từ nay sanh ḷng tin sâu xa chẳng nghi, đến
chết cũng chấp tŕ danh hiệu chẳng buông, dù cho
bom nguyên tử có rớt xuống cũng chấp tŕ
chẳng bỏ th́ mới thành công vậy.
Hiện giờ tôi
thấy t́nh huống của quư vị rất tốt,
rất phù hợp với những điều
được dạy trong kinh A Di Đà. Kinh dạy: “Đều được chẳng
thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Quư vị phước khí chẳng nhỏ, nhưng có
mấy vị chưa nghe đến đây đă lui ra
rồi, thật là đáng tiếc! Tôi rất lưu tâm
đến điều này, bọn họ phước báo
không nhiều, nhưng quư vị th́ không giống như vậy.
Nếu nghe minh bạch sẽ đều có thể
thành công v́ hạt giống Kim Cang đă rơi vào tám
thức điền của mọi người. Do quư
vị giữ tinh thần lắng nghe, mới biết là quư
vị đă được phước báo to như cơi
trời, hạt giống ấy vĩnh viễn chẳng
bị tiêu diệt. Điều khẩn yếu là hai chữ
“bất thoái”, vĩnh viễn chẳng thoái thất. Nếu
khéo công phu, sẽ thành tựu ngay trong đời
này. Nếu không,sớm muộn ǵ hạt giống Kim Cang cũng sẽ
nảy mầm, lúc ấy chính là lúc quư vị thành tựu
kết quả.
Tiếp đến là
nói về Nguyện. Hiện tại ḿnh học Phật
rồi, đă biết có vô lượng vô biên Tịnh
Độ. Nhưng chúng ta tu Tịnh Độ, phải phát nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là
điều vĩnh viễn chẳng biến cải,
chớ có ai nói ǵ cũng tin, chẳng thể sáng ba,
chiều bốn. Dù cho có ai nói thế giới nào tốt
đẹp ngàn vạn lần cơi Tây Phương, ta cũng
chẳng trái bỏ ư chí niệm Phật lúc
đầu. Dù cho ai dạy pháp môn nào hay hơn, lẹ làng
hơn pháp môn Niệm Phật Văng Sanh cũng vĩnh
viễn chẳng biến cải. Có khí phách kiên định,
nguyện thiết tha như thế th́ nguyện ắt
thành.
Nếu đă tu
Tịnh Độ rồi lại đổi tu pháp khác tức
là tu cả ba, bốn pháp môn th́ không có pháp nào tu thành công
hết! Đă phát nguyện văng sanh Tây Phương thiết tha
rồi, đă có ḷng tin rồi, đă có căn cứ rồi,
bất luận là t́nh h́nh nào cũng vĩnh viễn
chẳng biến cải, ắt sẽ thành tựu.
Lại nói về
Hạnh. Hạnh rất đơn giản. Kinh Địa
Tạng, kinh Dược Sư, kinh Pháp Hoa, Tam Tạng
mười hai bộ kinh đều hay cả, nhưng
nếu vậy, chẳng lẽ mỗi ngày tụng hết cả Tam
Tạng mười hai bộ kinh hay sao? Muôn phần chúng
ta chớ nên dùng phàm để suy thánh, tưởng tâm Phật,
tâm Bồ Tát giống như tâm phàm phu: Nếu ḿnh lễ bái
vị này, không lễ bái vị kia, chỉ sợ
đắc tội với vị kia. Đấy thật là ngu
si. Chúng ta có tâm phân biệt, chứ Phật chẳng hề
có. Nếu chúng ta ngu si, niệm kinh này, niệm kinh kia th́
không một ai trong một ngày niệm xong Tam Tạng
mười hai bộ kinh được cả!
Tu Tịnh Độ
cực giản dị, dù cho chẳng niệm kinh A Di Đà,
chỉ niệm Phật cũng được. Vạn
đức hồng danh, bất luận là Nam Mô A Di Đà
Phật, hoặc bốn chữ A Di Đà Phật, câu hồng
danh này bao hàm vô lượng vô biên danh hiệu Phật.
Bởi lẽ, A Di Đà Phật chính là Pháp Giới Tạng Thân,
niệm một câu Phật hiệu cũng giống như
niệm hết thảy Phật.
Hơn nữa,
chữ A trong A Di Đà Phật chính chữ thứ nhất trong
Hoa Nghiêm Tự Mẫu của kinh Hoa Nghiêm. Đức
Thế Tôn
cuối đêm thấy sao Mai, kiến tánh thành Phật,
liền quán tưởng chữ A. Không có chữ A này th́
cũng chẳng có Tam Tạng mười hai bộ loại
kinh điển. Câu A Di Đà Phật này cũng chẳng
được phiên dịch, v́ hàm tàng nhiều ư nghĩa.
Chỉ lấy một câu danh hiệu Phật này, thật thà
niệm đến khi Nhất Tâm Bất Loạn, ắt
sẽ nhất định thành công, chẳng cần
phải niệm nhiều thứ khác. V́ thế, lúc niệm
Phật, đừng nghĩ đến vọng niệm nào
khác. Vọng niệm khác là Ma, ta dùng câu Phật hiệu này
để trừ khử nó. Như vậy th́ mới có thể
đạt được “tịnh niệm
tiếp nối”.
Hơn nữa, về
Chánh Trợ Song Tu th́ thật sự ra, đối với
Trợ Pháp cũng chẳng cần phải làm ǵ khác,
chỉ cốt sao đối với một câu danh hiệu
Phật này, nhất tâm niệm Phật th́ Chánh lẫn Trợ đều
bao gồm trong ấy, nhưng chúng ta c̣n là phàm phu, vẫn
chưa đạt được công phu ấy. Thực ra,
Nhất Tâm niệm Phật th́ kinh, Phật, và chú
đều gộp cả trong đó, chỉ sợ bọn
ta chẳng được thành tâm như thế. Nếu
thành tâm niệm Phật, Tam Tạng
mười hai bộ kinh đều nằm trọn trong
ấy.
Đối với
Trợ Hạnh Công Phu, nếu chúng ta chưa biết làm lành
th́ cũng chẳng khẩn yếu lắm, chỉ cần
“các điều ác đừng làm” th́ cũng được.
Niệm Phật th́ chẳng tạo ác. Lúc chúng ta niệm A
Di Đà Phật, chúng ta chính là A Di Đà Phật. Phật chính là tâm, tâm
chính là Phật. Chẳng được một mặt
niệm Phật, một mặt tạo nghiệp. Nếu
như niệm Phật mà lại c̣n gây các tội nghiệp
giết chóc, dâm dục, trộm cắp, uống
rượu v.v... th́ chính là báng Phật, công hiệu của
việc niệm Phật bị giảm thiểu. Chỉ cốt
sao đừng tạo nghiệp, thật thà niệm một
câu A Di Đà, lại đừng làm các điều ác. Tu pháp môn
Tịnh Độ như thế, nhất định
thành công!
Khi đến
giảng trong Phật Thất, tôi vốn thường
giảng nói sao cho người tham gia đắc Nhất
Tâm, nhưng thấy mấy năm nay, có nhiều
người thoái chuyển. Thế nên hôm nay, tôi nói nhiều
về giáo lư, hiểu rơ giáo lư th́ mới biết rơ nên
dụng công thế nào để được Nhất
Tâm. Tôi nói bài kệ để khích lệ chung:
“Tịnh Tông tư lương Tín Nguyện Hạnh” (Tư lương
của Tịnh Độ Tông là Tín - Nguyện - Hạnh): Tịnh
Độ Tông tu hành văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới th́ phải chuẩn bị đủ ba
thứ tư lương “tin sâu, nguyện thiết,
hạnh mạnh mẽ”. Tín - Nguyện - Hạnh giảng ra
có vô lượng vô biên pháp, hôm nay tôi giảng những
điều cực giản yếu.
“Nhị lực cảm giao công thỉ thành” (Hai lực cảm
ứng đạo giao th́ mới thành công): Phàm là muốn
được thành công, tu các tông khác phải dựa vào
chính sức ḿnh, tu dần từng bước mới có thể
thành công. Hễ dùng sức sai một phân sẽ
chẳng
thể thành công. Tịnh Độ Tông bất tất phải
như thế, sức lực chủ yếu là sức
của A Di Đà Phật, ḿnh chỉ đổ ra ít sức.
Ḿnh chỉ cần buông xuống vạn duyên, niệm
đến Nhất Tâm Bất Loạn, những việc ǵ
khác đều không bận tâm đến. Những ǵ khác
đều coi là do sức của A Di Đà Phật, thế
giới Cực Lạc là do A Di Đà Phật trang nghiêm thành. Lúc
chúng ta lâm chung, Phật đích thân tự cầm hoa sen
đến tiếp dẫn sanh về thế giới
ấy. “Trang nghiêm cơi Phật,
tiếp dẫn văng sanh” đều do sức của
Phật, chúng ta chỉ việc niệm Phật sao cho
đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn. Đấy là
những điều được minh thị trong kinh. Có
cả Phật lực lẫn tự lực như thế
ắt sẽ thành công.
“Kinh văn tối trọng Đồng Cư Độ” (cơi được
kinh văn chú trọng nhất là Phàm Thánh Đồng Cư
Độ): thế giới Cực Lạc chia làm bốn cơi
(Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư,
Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang). Trong kinh
A Di Đà có đủ cả bốn cơi, nhưng cơi
được coi là trọng yếu nhất chính là cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. Bọn phàm phu chúng ta chưa đoạn
được một phẩm vô minh nào, không có cách nào
sanh về [Thường Tịch Quang] Tịnh Độ, nhưng
thế giới Cực Lạc chính là Tha Thọ Dụng
Tịnh Độ, giống như một căn nhà tốt,
chẳng phải chỉ để riêng ḿnh sử dụng
mà c̣n phải nhượng cho mọi người
đều được sử dụng.
Tu hành đoạn
Hoặc mới thoát khỏi luân hồi. Phàm phu không có cách ǵ
thoát luân hồi, chỉ có được A Di Đà Phật
trong thế giới Cực Lạc tiếp dẫn mới ḥng thoát
sanh tử luân hồi, dù văng sanh thế giới Cực
Lạc nhưng vẫn là phàm phu. V́ thế, trong kinh A Di Đà,
chư Phật trong sáu phương xuất hiện
để chứng thực những điều đă
được nói trong phần kinh văn trước
đó đều là cảnh giới của phàm phu, là cơi Phàm
Thánh Đồng Cư.
Dựa theo thế
giới Sa Bà đây để nói th́ phía
dưới trời Sắc Giới là trời Lục
Dục, vẫn có nam nữ, ăn uống cũng như
chuyện ăn ở, nhưng trong kinh A Di Đà
cũng nhắc đến ăn ở th́ đấy
cũng là cảnh giới của phàm phu chưa đoạn
Hoặc. V́ thế, chúng ta Nhất Tâm niệm Phật, dù
chưa đoạn Hoặc cũng vẫn được
văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Sau khi văng sanh sẽ
làm người hoặc là làm trời, nhưng vẫn là phàm
phu, chưa có quả vị, nên phải thuộc về Phàm
Thánh Đồng Cư Độ.
V́ thế, ở trong
cơi Sa Bà này, chưa đoạn Hoặc mà có thể văng sanh
Cực Lạc th́ thuộc về Hoành Siêu (vượt
khỏi luân hồi theo chiều ngang), sanh sang cơi Phàm Thánh
Đồng Cư của thế giới Cực Lạc. Từ
đó lại sanh lên cơi Thường Tịch Quang cũng là
Hoành Siêu. Đạo lư này thâm áo chẳng dễ hiểu nổi
được, chúng ta cứ tin vào Thánh Ngôn Lượng là
đủ. Bởi thế, kinh văn chú trọng nơi Phàm
Thánh Đồng Cư Độ, chuyên tiếp độ phàm phu
chưa đoạn Hoặc văng sanh.
“Đản đắc phục Hoặc tiện văng sanh” (chỉ chế phục
được Hoặc bèn liền văng sanh):
Nhất Tâm Bất Loạn cũng là điều
được nhắc đến trong kinh A Di Đà, nhưng
phải đoạn Hoặc mới đạt nổi
Nhất Tâm Bất Loạn. Đoạn Hoặc văng sanh th́
liền sanh vào Thượng Phẩm, nhưng số
người chưa đoạn Hoặc chiếm đa
số. Ngay như tôi đây, chẳng biết đời
trước thế nào, chứ đời này tôi tu tập
suốt sáu mươi năm vẫn chưa đoạn
nổi một phẩm vô minh nào. Đây là lời thành thật,
chẳng những tôi không có thần thông mà quỷ thông
cũng không có luôn. Phải nhớ là dù có thần thông
vẫn không tránh khỏi luân hồi lục đạo, không
cách nào liễu sanh tử.
Bây giờ nói
đến chuyện làm sao đắc Nhất Tâm? Chúng ta
không có cách nào đoạn Hoặc để đắc
Nhất Tâm, chỉ có thể chế ngự Hoặc mà thôi.
Ngay lúc vọng niệm của chúng ta nổi lên tơi
bời, lập tức dùng một câu Phật hiệu chèn ép
nó, dù chèn ép được Hoặc, nhưng Hoặc
vẫn chưa đoạn. Đến lúc lâm chung, do
thường ngày hễ vọng niệm nổi lên bèn
lập tức dùng Phật hiệu chế ngự, đè
nén, nên lúc lâm chung cũng giống hệt như vậy. Lúc
ấy Phật hiệu khởi lên, bèn được
Phật đến tiếp dẫn đới nghiệp văng
sanh. Chuyện đới nghiệp văng sanh này trong kinh A Di
Đà, kinh Vô Lượng Thọ đều ngầm nói hoặc
nhắc đến rơ ràng. Do chưa đoạn Hoặc,
nhưng dùng Phật hiệu để chế ngự nó,
được văng sanh, nên gọi là “đới nghiệp
văng sanh”.
V́ thời gian đoạn
Hoặc rất lâu chẳng thể nhất thời thực
hiện được, nay tu pháp môn Tịnh Độ, hễ
vọng niệm vừa khởi bèn nghĩ “hễ cái ǵ có h́nh tướng th́ đều là hư
vọng”, tức là dùng Chân Như Phật Tánh chế
ngự vọng niệm. Chân Như Phật Tánh tức là
một câu “A Di Đà Phật”. Dùng Phật hiệu chế
ngự Hoặc, sẽ được Phật tiếp dẫn,
đới nghiệp văng sanh, đến Tây Phương
rồi mới đoạn Hoặc. V́ thế, nay chỉ nói
là “cầu văng sanh”.
Nói
đă dài rồi, sợ mất thời gian quư vị
dụng công, mang lỗi với mọi người. Giờ
đây quư vị lại niệm Phật, chế ngự
Hoặc. Kính xin chư vị buông xuống vạn duyên,
thiện duyên, ác duyên đều buông xuống hết,
cứ một câu A Di Đà mà niệm măi.
PHẦN THỨ BA: NHỮNG BÀI GIẢNG
NGẮN
(Mẫn Đạt chuyển ngữ,
Như Ḥa nhuận văn)
I. Môn Dư Đại Đạo[6]
(Giảng tại Thiện Quả Lâm,
năm Dân Quốc năm mươi tám (1969)
Đệ tử Từ Tỉnh Dân kính ghi)
Giải thoát được
sự khổ luân hồi trong lục đạo, trong cơi
trời và cơi người [vẫn phải chịu nỗi
khổ này, vẫn] chưa được giải thoát.
Chứng quả A La Hán, đoạn dứt hơn một
trăm sáu mươi phẩm Kiến Tư Hoặc,
bổn tánh đă phóng quang minh, chẳng mê lạc vào trong
lục đạo [cũng chưa rốt ráo], chỉ có
nương theo pháp Đại Thừa tu thành quả vị
Phật vạn đức vạn năng mới là rốt
ráo nhất. Tuy kinh đă nói rơ phương pháp giải thoát
nhưng thực hành hết sức khó khăn, thành Phật
phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, thành A La Hán
cũng phải trải qua bảy lần sanh tử. Phàm phu
nh́n thấy sự việc khó khăn như vậy ai
cũng sợ và thoái lui, chỉ có đức Phật Thích
Ca là chẳng như vậy. V́ lẽ đó, từ khi đức Phật thị
hiện thành đạo đến nay đă hơn hai ngàn
năm trăm năm (đúng ra phải là hai ngàn chín trăm
năm), chưa gặp một đức Phật thứ
hai xuất hiện, v́ thế
mới biết thành Phật khó khăn dường nào.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn
trong Phật pháp đều phải mở mang trí huệ
quang minh trong bản tánh, đây là những pháp môn thông
thường, ngày nay chúng ta tu hành [theo những pháp môn này]
đều khó thành tựu. Hôm nay tôi nói về pháp môn
đặc biệt ngoài những pháp môn thông thường,
pháp môn đó gọi là Môn Dư Đại Đạo.
Điểm khác biệt với
những pháp môn thông thường là ở chỗ chẳng
khai phát trí huệ quang minh trong bản tánh mà c̣n có thể thành tựu. Ngày nay được nghe pháp môn này, phải hết sức lưu ư. Nếu bỏ qua cơ hội, chẳng biết tới bao giờ
mới có duyên nghe được!
Các pháp môn thông thường, bất kể Đại Thừa hay Tiểu
Thừa, đều dùng tự lực. Pháp môn
đặc biệt th́ ngoài tự lực c̣n có thêm Phật
lực trợ giúp, gọi là Nhị Lực pháp môn. Cũng
như đi lên lầu cao, nếu có
người phụ giúp, sẽ dễ
dàng hơn nhiều. Tại sao pháp môn đặc biệt có
thể nhờ Phật lực, c̣n pháp môn thông thường chẳng được
Phật lực giúp đỡ? Phải biết Phật
học không thể mê tín, tu hành phải nhờ vào tự
lực, chẳng thể cầu mong Phật tu giùm cho ḿnh, như
người đói phải tự ăn, chẳng thể nhờ người khác ăn mà ḿnh
hết đói được. V́ vậy, pháp môn thông thường phải
tự thực hành, pháp môn đặc biệt cũng
phải như
vậy, chỉ có thêm nhân duyên
thù thắng là được Phật
lực gia tŕ mà thôi. Pháp này chẳng thể nghĩ bàn,
người tu hành chưa thành Phật đều chẳng
hiểu rốt ráo. Không chỉ người thường
chẳng hiểu, ngay cả những người học
vấn cao sâu, tu học đă lâu cũng đều
chẳng tin, v́ vậy, gọi là pháp
khó tin. Hôm nay tôi chỉ y theo chú thích của tổ sư
nhiều đời trước, chẳng dám nói theo ư riêng
của ḿnh. Tuy pháp này gọi là khó nghĩ bàn, nhưng sự thực hành chẳng khó
lắm, dù chẳng có học vấn nhưng ai chịu làm
theo sẽ đều thành công. Nếu chẳng làm
theo, dù có học vấn cao đến đâu
đi
nữa, vẫn chẳng thành
công, do
đó gọi là pháp khó tin
nhưng dễ hành.
Sau khi giải thích ư nghĩa
của pháp môn đặc biệt xong, tôi sẽ nói đến phương pháp. Tuy nói tám
vạn bốn ngàn pháp môn khó hành, nhưng nếu ai chịu tu hành, sẽ đều có thể liễu sanh tử,
thoát ly luân hồi. Ngày nay chẳng ai chịu hành theo, nên chỉ có pháp môn đặc biệt
này là có thể thành tựu.
Tại sao chúng sanh tu hành theo tám
vạn bốn ngàn pháp môn chẳng thể thành tựu? V́ có
ba chướng ngại.
Thứ nhất là “vô nhân hy quả”, [tức là]
tâm chúng sanh thường mong mỏi chẳng nhọc
nhằn chi cả mà đạt được kết
quả tốt đẹp; lúc c̣n sống chẳng chịu
tu hành, nhưng khi mất đi bèn hy vọng
được sanh vào cơi lành, thân quyến của tang
chủ thường tụng kinh siêu độ cho
người mất, hy vọng [người ấy] được
siêu sanh, hoặc treo tràng phan chúc thọ Tây Phương
tiếp dẫn. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy
chết rồi sanh làm quỷ thần, được
trường sanh bất diệt, đây đều là
sự hiểu biết lầm lạc của chúng sanh.
Thứ hai là “phóng dật, sợ phải học”: Chúng sanh
học Phật khó thành là v́ ưa thích buông lung, chán ghét lao
nhọc, chỉ biết cầu phước, chẳng
hiểu chỗ diệu dụng của Phật pháp. Kinh nói:
“Đức Phật v́ một
đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian
này”. Đại sự nhân duyên là ǵ? Là để giải
quyết vấn đề sanh tử trọng đại,
vấn đề này chúng sanh trong lục đạo
chẳng ai có khả năng giải quyết. Đức
Phật v́ đại sự này thị hiện trên thế
gian, chúng sanh chỉ cầu mong tiêu tai diên thọ; khuyên
người liễu sanh tử đâu có ai nghe, dù có nghe
cũng chẳng giác ngộ!
Thứ ba là ham muốn dục
lạc, lười
nhác tu hành. Thánh nhân Trung Quốc
dạy người kiểm soát dục vọng, kiểm
soát không nổi th́ dùng lễ nhạc để đối
trị. Tức là dạy họ “phát
hồ t́nh, chỉ hồ lễ” (khi t́nh cảm nam
nữ nẩy sanh, phải dùng lễ để ước
thúc), dùng lễ để kềm chế.
Ngày nay,
con người tôn sùng văn
hóa Âu Tây, chạy theo dục vọng cuồng hoan, mê
hoặc trong sự hưởng lạc, thân vùi trong ngũ
dục, lục trần, tâm tán loạn, nếu
khuyên họ tu pháp xuất thế, họ chẳng đủ nhẫn nại để chịu
đựng khổ nhọc dài lâu.
Con người có ba
chướng ngại kể trên nếu không giác ngộ
sẽ mờ mịt cả đời, lúc lâm chung thuận theo nghiệp dẫn dắt. Khi đă
giác ngộ, chẳng ai không cảm thấy đau khổ
cùng cực, đời người ngắn ngủi như
trong chớp mắt, phước báo hưởng hết
rồi, lúc mạng chung liền đọa tam đồ.
Bởi vậy, người có trí chẳng
ai không thiết tha đến sự vô thường của
đời người và mau chóng
đường giải thoát. Nhưng thường v́ công
phu tu hành chẳng sâu dầy, một
khi chuyển thế liền mê mất, lại tiếp
tục tạo ác nghiệp. Thí dụ như chúng ta ở
đạo tràng này, bất
kể là người nghe hay người
nói đều chẳng phải là ngẫu nhiên, nhất
định phải do công phu từ đời trước. Nếu không, lúc nghe
sẽ chẳng thấm thía, người nói cũng cảm
thấy khó khăn. Lúc chưa nghe đến Phật pháp
trong đời này, chẳng ai không mê hoặc, tạo
nghiệp. Lúc nhỏ, tôi cũng
đă từng hủy báng kinh tượng Phật, sau này v́
lo sợ loạn lạc, chiến tranh, nên mới thức
tỉnh hối cải và học Phật. Thế nên
phải biết: Nếu tu học không thành, một khi
chuyển thế, sẽ chẳng biết
đến khi nào mới được giải thoát. Ngày
nay chúng ta rất may mắn được nghe Phật pháp,
nếu chẳng cầu thoát ly th́ c̣n đợi đến
lúc nào nữa? Muốn cầu thoát ly nhưng lại sợ khổ nhọc v́ chẳng trừ
khử được ba thứ chướng ngại
kể trên, hỡi ôi, phải làm sao đây?
Đức Phật lấy từ bi
làm gốc, phương tiện làm cửa, đức
Phật Thích Ca nói về pháp Môn Dư Đại Đạo nhằm khuyến khích chúng sanh [phát tâm niệm
Phật, phát nguyện] văng sanh về thế giới
Cực Lạc của đức A Di Đà Phật.
Phật giáo vô lượng, A Di
Đà Phật từ bi đệ nhất, nguyện lực
đệ nhất trong chư Phật, Ngài biết rơ chúng
sanh có đầy đủ ba thứ chướng ngại
kể trên, nên tùy thuận tâm chúng sanh,
tạo dựng một thế giới tên là Cực Lạc,
dùng nơi đó nhằm tiếp
dẫn thần thức của húng sanh
trong khắp mười phương thế
giới về đó hưởng các niềm vui [và tu
học] thành Phật.
Thế giới Cực Lạc
là một thế giới khoa học phát triển. Khoa
học như chúng ta hiểu biết trong hiện thời vẫn
c̣n đang trong thời kỳ ấu trĩ. Phật pháp vô
biên, tŕnh độ khoa học ở thế giới Cực
Lạc vượt quá xa đến nỗi chúng ta chẳng
thể nào nghĩ tưởng nổi.
Chúng sanh muốn thành Phật
luôn gặp ba thứ chướng ngại, nhưng nếu
văng sanh về thế giới Cực Lạc, ba chướng ngại sẽ biến
thành con đường thành Phật.
Chúng sanh ở đây không có nhân
mà muốn có quả, chắc chắn sẽ không đạt được
quả. Tuy
thế giới Cực Lạc
không có nhân nhưng có quả[7].
Khi văng sanh rồi, bèn có ba mươi hai
tướng tốt, sáu thứ thần thông, vô lượng
quang minh, vô lượng thọ mạng, chẳng sanh,
chẳng diệt. Chúng ta ở thế giới này mà phóng
dật, sợ phải học, sẽ chẳng đạt
được pháp, c̣n trong Cực Lạc thong thả
cũng học được pháp. Phàm khi đi du ngoạn
ở công viên, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hót
cũng giống
như nghe pháp tu hành, c̣n ở
đây th́ gió thổi, chim kêu chẳng ai biết ư nghĩa ǵ
hết, chỉ là âm thanh tạp loạn. Âm thanh ở thế
giới Cực Lạc đều là pháp âm, nghe rồi liền hiểu đạo lư. C̣n
người không biết th́ gột rửa trong ao tám công đức liền khai trí
huệ. Chúng ta ở thế giới này tâm niệm lục
trần mải mê hưởng dục lạc nhất
định chẳng thể nhập đạo, c̣n trong Cực Lạc th́ tùy theo ư muốn
liền nhập đạo. Nơi đây do khoa học phát
triển nên cũng có thể dùng phi cơ để bay
đi nơi khác, nhưng nếu chẳng cẩn thận
cũng có thể bị mất mạng khi máy bay trục
trặc. C̣n cơi Cực Lạc chẳng có sự nguy hiểm
đó, hết thảy đều thuận theo tâm chúng sanh có thể hưởng
mọi thứ khoái lạc.
Mức độ khoa học
phát triển ở thế giới Cực Lạc
người xưa nghe xong rất khó tin tưởng, ngày nay nhờ cơ sở khoa học
hiện đại phát triển nên có thể giải thích
phần nào những sự thật ấy. Ngày nay, ta
thường thấy sàn nhà có lót gạch, cẩn dây
đồng, người ta thường biết việc
này học từ người Âu Tây, chẳng biết thế
giới Cực Lạc đă có những thứ này từ lâu rồi, chỉ khác ở chỗ
một bên là vàng ṛng, c̣n một bên là dây đồng… C̣n về điện báo vô tuyến, người xưa cũng chẳng tin, ngày nay toàn là những đồ dùng hằng ngày,
chẳng c̣n lạ lùng ǵ nữa. Thiên Nhĩ Thông trong thế
giới Cực Lạc vượt trội vô tuyến
điện của chúng ta, tiếc rằng phàm phu bị
t́nh chấp chướng ngại, chỉ tin chuyện
ở đây, chẳng chịu tin nơi
kia. Người ta tin vô tuyến điện thực ra là mê
tín v́ chỉ biết ‘sự’ này nhưng chẳng biết
‘lư’ của nó, tuy tin chắc nhưng vẫn là mê muội. Do
vậy, mê hoặc chỉ tin những sự việc ở
thế giới này, niệm niệm chẳng xả, cho nên
chẳng chấp nhận khoa học [phát triển] trong thế
giới Cực Lạc.
Sự giàu sang hoa lệ ở thế
giới Cực Lạc nói măi chẳng hết, nói
đại khái bèn có thể kể tới
những sự hưởng thụ sau đây:
Nói đến nơi cư trú, bên
đó có lầu đài làm bằng thất bảo. Chẳng phải chỉ có những
đồ trang trí bên ngoài mới làm bằng thất
bảo, mà bất cứ vật liệu kiến trúc ǵ
cũng làm bằng thất bảo. Chẳng phải như nhà ở nơi đây làm bằng gỗ, xi măng,
gạch, ngói. Cơi Cực Lạc không có lầu cao, nếu có th́
những căn lầu cao chọc trời ở đây
cũng không sánh bằng!
Nói
đến thức ăn, mỗi hạt ngũ cốc của
chúng ta ở đây đều phải trồng trọt cực
khổ mới có. Những người giàu có, mỗi ngày
đều đến tiệm ăn cũng phải coi thực
đơn rồi chọn món ăn. C̣n thức ăn ở
cơi Cực Lạc, có đầy đủ trăm món ngon lạ,
vừa khởi ư niệm liền hiện ra trước mặt,
ăn xong liền biến mất, chẳng phải rửa
chén bát, nồi, niêu,
xoong, chảo.
Nói
đến y phục, chúng ta phải đo kích thước
đàng hoàng rồi mới may mặc, rất phiền phức,
lại dễ bị dơ bẩn, hư rách. C̣n y phục
cơi Cực Lạc h́nh dáng, màu sắc đều tùy tâm sở
thích, tự nhiên hóa thành, vĩnh viễn chẳng dơ bẩn,
hư rách.
Nói
về phương tiện giao thông, ở đây chúng ta cần
có rất nhiều thứ, thí dụ như xe, tàu, máy bay. C̣n
ở cơi Cực Lạc chẳng cần ǵ cả, khi chúng ta
ở trong nhà, nếu muốn đi tới nơi nào, chẳng
cần bước ra khỏi cửa, cả căn nhà liền
bay đến chỗ muốn đến. Nếu nói tường
vách che lấp không thấy ngoại cảnh th́ tường
vách liền tự động biến mất, hiện ra
hoa sen lớn chở chúng ta đi. Nếu sợ gió th́
tường vách liền hiện ra. Tất cả đều
là những máy móc kỳ diệu chuyên chở người ta. Muốn
đến thế giới phương khác, vừa khởi
ư niệm liền đến nơi, vừa nhanh chóng,
vừa an toàn.
Trên
đây là nói đại khái về y phục, thức ăn,
chỗ ở, phương tiện di chuyển. Nếu
để ư so sánh, liền biết sự khác biệt giữa
hai thế giới. Thức ăn của chúng ta đều
sanh trưởng từ đất đai ô uế. Những
thịt cá động vật làm thức ăn cho con người,
trong thân thể có đủ thứ trùng, bọ, phẩn uế,
độc tố. Chúng ta dùng nước đă được
lọc sạch, tuy chẳng có kư sinh trùng, nhưng cũng có
quá nhiều chất hóa học, chẳng có chất nào không
có hại cho thân thể. Ở
thế giới chúng ta tuy có máy truyền h́nh có thể thâu
h́nh và âm thanh từ những nơi xa, nhưng c̣n phải mất
công lấy tay bấm vào máy, c̣n thế giới Cực Lạc
trên mỗi bông hoa, mỗi lá cây đều có thể nh́n thấy
vô lượng thế giới. Cả ngày đều có âm nhạc
vi diệu phát ra, nếu không thích nghe th́ âm thanh đó tự
nhiên ẩn mất. Tuy ḿnh không nghe
nhưng người khác vẫn có thể nghe được.
Thế
giới chúng ta cũng có ao nước, dưới đáy
lót bằng gạch, rất trơn trợt, nếu không cẩn
thận trượt té sẽ bị thương. C̣n ao nước
ở cơi Cực Lạc đều do vật báu làm thành,
dưới đáy ao có toàn cát vàng, nếu ai cảm thấy
cứng quá đâm vào chân khó chịu th́ cát ấy liền trở
thành mềm mại. Ngược lại ai cảm thấy
quá mềm th́ cát ấy sẽ trở thành cứng. Nước
trong ao chẳng dơ bẩn như nước ở đây,
lạnh nóng bất thường. Nước ao cơi Cực Lạc
có đầy đủ tám công đức, ai muốn lạnh
th́ nước liền lạnh, ai muốn nóng th́ nước
liền nóng, ai muốn cạn, muốn sâu, nước
đều biến thành vừa ư người đó.
Ngày
nay khoa học phát triển, một ngày có thể đi ngàn dặm,
con người hưởng thụ vật chất càng ngày
càng tăng thêm, [nh́n từ một góc độ nào đó]
cũng có thể nói là khá sung sướng, nhưng
thọ mạng chúng sanh quá ngắn, hưởng thụ
chưa được bao lâu đă phải chết mất.
C̣n cơi Cực Lạc vĩnh viễn không phải lo lắng
về cái chết, chỉ hưởng thụ mọi điều
vui sướng măi cho tới khi thành Phật. Thử nh́n về
sự học Phật, cơi này của chúng ta có đủ mọi
nỗi gian khổ, thí dụ như học Thiền nhất
định phải tham Thiền chết lên chết xuống
mà cũng chỉ chứng tới mức A La Hán. C̣n
văng sanh Cực Lạc th́ hưởng hết mọi thứ
vui sướng và cũng có thể chứng được
Vô Thượng Bồ Đề.
Sự
thù thắng của cơi Cực Lạc là như vậy, [chúng
ta] nên hỏi làm sao mới văng sanh về đó được?
Giáo chủ cơi Cực Lạc là A Di Đà Phật đă nghe
thấy hết tâm thanh của mọi chúng sanh. Chúng ta chỉ
cần chí tâm niệm A Di Đà Phật,liền
cảm ứng đạo giao cùng đức Phật, đến
lúc lâm chung đức Phật A Di Đà liền đến
tiếp dẫn văng sanh thế giới Cực Lạc. Trên mặt
Sự tuy đơn giản như vậy, thực hành
cũng cần phải tuân theo ba yếu quyết. Thứ nhất
là Tín, nếu làm giống như đă nói th́ là “tin
chắc chẳng nghi”. Thứ nh́ là
Nguyện, lúc lâm chung không chịu lên cơi trời làm Ngọc
Hoàng. Thế giới Lưu Ly ở Đông phương, thế
giới thượng phương của Phật Di Lặc,
hoàn cảnh tuy tốt đẹp chúng ta cũng không phát nguyện
sanh về đó, chỉ nguyện văng sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Thứ ba là Hạnh,
niệm câu Phật hiệu này tới lúc [giữ chặt
trong tâm măi] không đánh mất là được. Tâm chúng
sanh loạn, lúc tỉnh tạp niệm nhiều, lúc ngủ
lại nằm mộng, học Phật phải dẹp trừ
tâm loạn đó. Học Thiền và những pháp môn khác, trải
qua hết mọi nỗi gian khổ, dần dần đoạn
Hoặc, trải qua nhiều năm nhiều kiếp tu hành,
mới có thể nói là có thành tựu. Niệm Phật chẳng
cần phải đoạn Hoặc, chỉ cần văng sanh
về thế giới Cực Lạc liền thành tựu
ngôi bất thoái. Nếu niệm tới mức đoạn
Hoặc chứng Chân, tức là minh tâm kiến tánh, tâm chính là
Phật.
Tín
- Nguyện - Hạnh là ba yếu quyết của sự tu
hành, cũng là ba món tư lương để văng sanh thế giới Cực Lạc. Đó là
chánh hạnh, ngoài chánh hạnh ra c̣n phải cần có
trợ hạnh, tức là đừng làm các việc ác, vâng
làm các việc lành. Cả hai Chánh và Trợ
đều song tu, giống như hai cánh của con chim, chẳng
thể thiếu thứ nào. Những đồng tu cũ ở
Đài Trung, xét về chánh hạnh chỉ làm được
bảy phần mười, trợ hạnh c̣n ít hơn nữa,
tham Hoặc đầy đủ, tu hành như vậy làm
sao thành tựu cho được?
Niệm Phật cũng như quét nhà, tham Hoặc ví như
rẩy bụi, vừa quét vừa rẩy bụi, vậy
th́ làm sao cảm ứng đạo giao cùng Phật, làm sao
minh tâm kiến tánh cho được? Do đó, cần phải
Chánh Trợ song tu th́ mới là đầy
đủ.
II. Ư nghĩa chính yếu của Tịnh
Pháp giải thoát
(Giảng tại Liên Xă Đào Viên, đệ
tử An Thọ kính ghi)
Đă biết chúng ta cần
phải tu hành theo lời Phật dạy, tu hành cần
phải có chứng nghiệm. Không có chứng nghiệm th́
chẳng đáng tin. Chứng nghiệm tức là giải
thoát. Trước mắt có thể ĺa khổ
được vui, sau này có thể văng sanh Tây Phương.
Giải thoát là chẳng phải chịu các sự đau
khổ, không phải chịu sanh tử trong tam giới,
chuyện này phải có duyên mới làm được. Các
sự đau khổ vốn rất nhiều, khi nào
được giải thoát th́ mới giải quyết
vấn đề [chấm dứt đau khổ]; do đó,
mong cầu giải thoát là chuyện vô cùng quan trọng.
Đức Phật dạy
rất nhiều pháp môn, hết thảy đều phải
đoạn Hoặc (chế ngự phiền năo) mới
được giải thoát. Tịnh Pháp (pháp môn Tịnh
Độ) chẳng nằm trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà
do đức Phật đặc biệt lập ra nhằm
khế hợp căn cơ của chúng sanh trong thời Mạt
Pháp. V́ vậy cũng dính dáng với chuyện đoạn
Hoặc, nếu vậy th́ tại sao gọi là Tịnh Pháp?
Thật ra, Tịnh Pháp không nhất định phải
đoạn Hoặc, không cần phải đoạn
Hoặc cũng được, đây là điểm
đặc biệt của Tịnh Pháp. Ngoài pháp môn Tịnh
Độ ra,
[các pháp môn khác] đều
phải đoạn Hoặc, dù chỉ c̣n một tí Hoặc
chưa đoạn th́ cũng không thể liễu sanh
tử. Người không học Phật không tin pháp môn
Tịnh Độ, mà ngay cả phần đông
người học Phật cũng đều
chẳng tin, v́ vậy, phải nói rơ
nghĩa lư này th́ mới có ḷng tin chân thật. Nếu không, sẽ
có nhiều người tuy tu Tịnh Độ mà cũng chẳng hiểu lư này, cũng
vẫn mê tín, như vậy th́ sẽ không thể thành công.
Mọi người đều
biết đức Phật A Di Đà [mà chúng ta] thờ phụng
tại [chánh điện trong] Liên Xă chẳng ở tại
thế giới này mà ngự tại Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Hoàn cảnh thế giới Cực
Lạc là như
thế nào? Kinh A Di Đà nói: “Đều
do bảy báu làm thành” chẳng giống như thế
giới Sa Bà đều do đất, cát làm thành. V́ vậy, thế giới Cực Lạc tốt
đẹp hơn thế giới chúng ta gấp ngàn vạn
lần, ai có thể sanh về
thế giới tốt đẹp như thế?
Trả lời: Người nào
tu th́ người đó sẽ về.
Tu pháp nào? Tu pháp môn Tịnh
Độ.
Tu như thế nào? Nói vắn
tắt là niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Có phải chỉ niệm A Di Đà
Phật là được rồi? Không được! C̣n
một chút phiền toái, phải niệm đến mức
nhất tâm bất loạn – nghĩa là chỉ có A Di Đà
Phật trong tâm, ngoài ra không có tâm nào khác – th́ mới
được, cũng tức là niệm đến
mức ngũ dục lục trần đều chẳng
quyến rũ nổi th́ mới được, chuyện
này chẳng dễ! Vậy th́
niệm như thế nào mới được nhất tâm
bất loạn, không niệm th́ không đạt được, phải không? Lư này khó hiểu, nhưng phải
hiểu, nếu không, sẽ niệm không đúng pháp, [như vậy]
cũng là mê tín, cũng chẳng thể thành công.
Lư do khiến chúng ta không đạt được
nhất tâm là v́ chúng ta có Hoặc, Hoặc là ǵ? Hoặc
tức là mê hoặc, điên đảo, bản tánh của
chúng ta đă bị vô minh bao phủ chẳng phát ra quang minh,
người xưa nói “mê
mất bản tánh”. Như vậy th́ là hồ
đồ, u mê, chẳng biết làm việc thiện.
Chẳng làm việc thiện th́ tư cách làm người
cũng chẳng đủ, làm sao có thể văng sanh, giải
thoát, chứng quả vị Phật cho được? Do
đó, những ǵ tương phản với nhất tâm
đều là Hoặc, cần phải đoạn chúng.
Bất luận pháp môn nào do Phật dạy đều
phải đoạn Hoặc, đoạn Hoặc th́ sẽ
thành công, không đoạn th́ chẳng thành công.
Chúng ta mê hoặc rất
nhiều, chủ yếu là hai thứ Kiến Hoặc và
Tư Hoặc. Kiến Hoặc là ư kiến mê hoặc,
điên đảo, kiến giải không đúng. Tu hành
phải cầu chứng quả, nếu đi lạc
đường th́ làm sao chứng quả? Kiến Hoặc
chia ra năm loại: Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ
Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến. Nêu một
thứ có thể bao gồm những thứ c̣n lại, thí
dụ như Thân Kiến: Thân vốn chẳng có, thân vốn
chẳng phải là tôi, coi thân này là ‘tôi’ th́ đó là Hoặc.
Lư này khó hiểu, người ta thường nói: “Người nào đó Ngă Kiến
rất nặng”, và “muốn
trừ phiền năo th́ phải vô ngă’. Khổng Tử cũng dứt tuyệt
những chuyện “ư, tất,
cố, ngă”, nêu gương “vô
ư, vô tất, vô cố, vô ngă”[8].
Bất luận chúng ta làm việc ǵ, đặt một
chữ Ta đi đầu th́ đều là ác. Chỉ có Ta
mà không có người khác th́ làm sao làm công việc tốt
đẹp cho được? Có Ta th́ tất cả lợi
ích đều phải gom về Ta, người khác nhất
định phải chịu thiệt tḥi. Chuyện lớn
nhỏ ǵ cũng giữ cái tâm cho ḿnh trước, đó là Ngă Kiến, là một căn bệnh
nặng nhất, người học Phật gọi là Thân Kiến.
Khi trừ bỏ cái Ta, thân cũng không c̣n nữa. Phàm
người tu Tịnh Độ đều biết khi văng sanh
về thế giới Cực Lạc cũng có một cái
thân. Thân con người là một vật xấu xa, ô uế
nhất, bảy khiếu[9] đều
chẳng sạch, hôm nay chết đi, ngày mai liền sanh gịi, hạt giống tinh cha
huyết mẹ chẳng tịnh, lúc sanh ra cũng chẳng
sạch. C̣n ở thế giới Cực Lạc là hóa sanh
từ hoa sen, thân thể thanh tịnh. Hai thân thanh tịnh và
thân xương thịt phàm phu không thể tồn tại
cùng lúc, quư vị muốn có thứ nào? Tâm đặt ở
đây th́ có thân này, tâm đặt nơi Tây
Phương sẽ có thân của người cơi Cực
Lạc; nhưng có người nào chẳng yêu thương
cái thân giả tạm trước mắt? Nếu chẳng
phá cửa ải Thân Kiến này, sẽ chẳng thể văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Ngược lại, nếu quư vị chẳng yêu
thương cái thân giả tạm này, tâm quư vị sẽ
từ từ chẳng đặt nơi đây mà
đặt nơi cơi Cực Lạc, vậy th́ sẽ văng
sanh được. Phần đông người ta
đều nghe nói đến nghĩa lư của cái thân và Ta
này, nhưng người thấu hiểu chẳng nhiều,
như vậy chính là mê hoặc. Như vậy th́ làm sao thành
tựu? Chỉ có một chuyện này cũng rất khó làm
rồi, huống chi bốn thứ c̣n lại đều
chẳng dễ phá trừ.
Kế đó là Tư Hoặc,
cũng có năm loại, Tư Hoặc là ǵ? Là những ǵ
chấp chứa trong tâm, vĩnh viễn chẳng phá
trừ, thứ nhất là Tham. Chúng ta vừa thấy
vật ǵ liền yêu mến vật đó, ưa thích có
mức độ nặng nhẹ, [thí dụ] tôi ưa chùi
mồ hôi, ưa là c̣n nhẹ, nặng th́ gọi là tham. Nếu
chúng ta chẳng muốn thoát ly tam giới th́ cứ tham. Tam
giới gồm có sáu tầng trời Dục Giới,
mười tám tầng trời Sắc Giới, bốn
tầng trời Vô Sắc Giới, tổng cộng hai
mươi tám tầng trời. Thử hỏi chư
vị: Chúng sanh tham những ǵ? Người nào ở Sa Bà
thế giới đều tham năm thứ. Thứ nhất
là tiền tài, vàng bạc châu báu người nào chẳng
thích? Thứ hai là t́nh yêu nam nữ, nếu chẳng thích th́
chẳng có nam nữ. Thứ ba là danh lợi, thử
hỏi ai chẳng bận rộn v́ danh lợi? Thứ
tư là ăn uống, người nào chẳng ăn
uống? Thứ năm là ngủ nghỉ. Tham muốn năm
thứ này th́ chẳng rời khỏi tam giới, thường xoay vần trong ṿng lục
đạo. Ngược lại [không tham], sẽ chẳng
bị kẹt trong tam giới. Người tu Tịnh
Độ có thể không đoạn Hoặc, nhưng tham và Thân
Kiến nhất định phải dứt trừ. Ở
thế giới Sa Bà đầy dẫy tài - sắc - danh -
thực - thùy, thế giới Cực Lạc chẳng có
những thứ này, v́ vậy,
trước hết phải đoạn dứt ḷng tham.
Người chẳng tu Tịnh
Độ phải đoạn dứt tổng cộng một
trăm chín mươi ba phẩm Kiến Tư Hoặc;
chúng sanh trong tam giới chẳng biết đến
Kiến Tư Hoặc, [phần đông đều] mê
hoặc, điên đảo, chẳng hiểu rơ nghĩa lư.
Thế nào là chẳng hiểu rơ nghĩa lư? Như chúng ta
ngày nay thọ khổ báo, thọ quả báo đều là do
những ác nghiệp đă tạo trong kiếp trước
tích tụ lại, đây là Khổ Đế. Muốn không
thọ khổ th́ phải làm sao? Phải cầu không sanh,
không diệt; muốn đạt được không sanh
không diệt, phải tu đạo. Lúc đức Phật
thành đạo và bắt đầu chuyển pháp luân, Ngài
đă giảng về Tứ Đế Khổ, Tập,
Diệt, Đạo. Đối với căn tánh thông
thường của chúng ta, suốt tám mươi năm
cũng không đoạn được một phẩm
Kiến Hoặc, người có thể đoạn một
phẩm Kiến Hoặc trong tám mươi năm đă
thuộc về thượng căn rồi! Thế th́
muốn đoạn một trăm chín mươi ba
phẩm Kiến Tư Hoặc phải mất mấy ngàn
vạn năm! Dù đă đoạn dứt trọn hết một
trăm chín mươi hai phẩm, hễ c̣n một phẩm
chưa đoạn th́ vẫn chưa thoát ly sanh tử,
chưa thoát khỏi tam giới. V́ thế mới nói tự
lực rất khó thành tựu và đ̣i hỏi phải có
thời gian rất dài.
Pháp môn Tịnh Độ có hai
lực, cần có tự lực trước rồi sau
đó mới có tha lực giúp đỡ -- tức là sức
mạnh của A Di Đà Phật. Đức Phật biết
chúng sanh thành tựu khó khăn nên đại từ
đại bi đến giúp đỡ, chúng ta cầu thoát
ly tam giới, thử hỏi rời khỏi tam giới sẽ
đi về ở đâu? A Di Đà Phật là người
kỹ sư xây dựng Tây Phương Cực Lạc
thế giới cho chúng ta về đó tu học.
Làm thế nào để văng sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Kinh A
Di Đà nói nhất tâm bất loạn tức là đoạn
được một trăm chín mươi ba phẩm
Kiến Tư Hoặc, bảy ngày có thể thành tựu, lúc
lâm chung tâm chẳng điên đảo, liền
được văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Dù lúc lâm chung chẳng có người
trợ niệm cũng được văng sanh, vẫn đắc
Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Muốn đoạn Hoặc,
nhất định phải có công phu định lực,
chúng ta không dễ ǵ làm được. Pháp môn Tịnh
Độ có một phương pháp đặc biệt,
phương pháp này đối với người tu theo
pháp môn khác cũng vô dụng, chỉ có tu pháp môn Tịnh
Độ mới dùng được, pháp đó là “phục
Hoặc” (chế ngự phiền năo) th́ cũng có thể
văng sanh. Hoặc chẳng dễ đoạn, chúng như
hạt giống sẽ nẩy mầm, há chẳng hỏng
việc hay sao? Người tu Tịnh Độ chẳng cần
đoạn Hoặc, nhưng cần chấm dứt không làm
những việc ác trước kia, cứ để nguyên
như vậy đừng đụng tới, chỉ
cần giữ cho nó không phát tác, không nẩy mầm. Cứ
một mạch niệm A Di Đà Phật, miệng niệm, tai
nghe [Phật hiệu] lọt vào tâm, đối với hết
thảy những mê hoặc, điên đảo nào cũng đều
dùng câu A Di Đà Phật đè xuống, đến lúc lâm chung,
tất cả những hạt giống thiện mà chúng ta
đă làm (hạt giống Phật), và hạt giống ác
(những việc ác làm lúc trước) chứa hết trong
thức điền thứ tám, [do những hạt giống
thiện này nhiều nên chúng bao trùm, che phủ hết các hạt
giống ác]. V́ bao phủ bên ngoài nên hạt giống
Phật nhảy ra trước, Phật bèn phóng quang
tiếp dẫn hạt giống tự tánh Phật này
(chẳng tiếp dẫn hạt giống ác). Đây gọi là “chế ngự phiền năo”,
chưa đoạn Hoặc mà văng sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Các pháp môn khác cũng có nói
đến “chế ngự
phiền năo” nhưng chẳng có hiệu quả, v́ đè
nơi nào th́ nó lại khôi phục ở đó, chỉ có
pháp môn Tịnh Độ là có thể đạt
được hiệu quả.
Sức mạnh của A Di Đà Phật
to lớn, nghiệp lực của chúng sanh cũng lớn.
Lúc văng sanh, nghiệp báo vẫn chưa dứt, vẫn c̣n
hạt giống ác, nên gọi là “đới
nghiệp văng sanh”. Văng sanh rồi mới đoạn
Hoặc. V́ cơi Cực Lạc chẳng c̣n sanh tử, thọ
mạng chúng sanh nơi đó vô lượng, quang minh vô
lượng, tự nhiên sẽ mở mang trí huệ, lúc
bấy giờ, hạt giống A Di Đà Phật sẽ hoàn
toàn hiện lên. Sự hưởng thụ trong cơi ấy vô
cùng thù thắng, sự phú quư nơi cơi Sa Bà này chẳng thể
sánh bằng. Ngoài ra, người văng sanh đến cơi
ấy có sáu thứ thần thông, muốn lên mặt trăng
cũng dễ như lật bàn tay, dù xa cách tám hành tinh,
chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay liền
đến được, chẳng cần mất công
sức như chúng ta ngày nay. Ngoài ra c̣n đạt
được Nhất Sanh Bổ Xứ, tức là văng sanh
chẳng bao lâu liền thành Hậu Bổ Phật, chẳng
bao lâu sẽ thành Phật. Đă thành Phật bèn sẽ giống
như A Di Đà Phật vậy.
III. Bài kư theo thầy nghe pháp
(Giảng trong chuyến
hoằng pháp tại Đông Thế, đệ tử Hoàng
Khiết Di kính ghi)
Đạo tràng là nơi để
cầu đạo, mọi người đến
đạo tràng nếu chẳng cầu đạo mà
chỉ muốn t́m náo nhiệt, vậy th́ chẳng
đạt được lợi ích ǵ cả.
Đạo là ǵ? Ai cũng có Đạo,
nhưng chẳng ai biết, cho nên phải cầu
đạo. Hiện nay có Đạo hiện nay,
tương lai có Đạo tương lai, nói như
vậy, phải chăng là có hai Đạo? Chẳng
phải, chỉ có một Đạo, chẳng phải hai.
Lấy việc leo thang làm thí dụ, bước lên một
nấc là cũng gọi là bước vào đạo,
bước lên mười nấc cũng gọi là
bước vào đạo. Đạo chỉ có sâu hay cạn,
chẳng phải là có hai thứ đạo. Giống như
lên lầu hai, vừa bước lên hai nấc hoặc
năm nấc thang xong rồi đứng lại, đó là
“chẳng đạt đạo”, chẳng đạt được
rốt ráo, phải đi [hết cầu thang] lên lầu
trên th́ mới gọi là “đạt đạo”. Do vậy,
mọi người học th́ phải học đến
cùng; nếu học nửa chừng rồi bỏ, học
chẳng đến đâu, đứng nửa
đường hoặc đi tới đi lui đều
chẳng có ích ǵ hết. Hăy nên biết cầu đạo
phải đắc đạo, việc này rất quan
trọng!
Tam Tạng kinh điển trong
Phật pháp nhiều như mây khói trên biển, đức
Phật đă tuyên thuyết suốt bốn mươi chín
năm. Dùng thời gian ngắn ngủi để nói
hết Tam Tạng là một việc không thể nào làm
được. Nếu nói các bạn đồng tu phải
từng bước tu tập đến cùng
được không? Đương nhiên là được!
Nhưng trong tâm cần phải có nghị lực, nghị
lực tức là tâm kiên tŕ, gặp chuyện vui ǵ cũng
chẳng thay đổi, gặp chuyện ǵ bất
trắc, cản trở cũng chẳng nản chí,
được như vậy th́ sẽ thành công. Muôn vàn
chẳng thể nh́n thấy một thoi vàng liền sanh tâm
ưa thích, đạo tâm mất sạch. Lúc gặp
phiền năo bèn sanh tâm ưu sầu, đạo tâm cũng
thụt lùi, vậy là không được. Phải chẳng
bị hoan hỷ và phiền năo chi phối, luôn hướng
về trước chẳng lùi. Thật ra, người có
nghị lực như vậy rất ít. Cũng v́ phần
đông người ta rất khó làm được nên mới
có câu nói: “Đường trở
về không hai, phương tiện có rất nhiều
cửa”, có một phương pháp đặc biệt
chẳng cần phải khắc phục nhiều khó
khăn mà vẫn có thể đạt được Đạo.
Có chuyện dễ dàng, tiện nghi như vậy sao? Có,
nhưng tùy thuộc quư vị có tin hay là không?
Trước khi nói rơ về
phương pháp đặc biệt này th́ phải tŕnh bày
những vấn đề liên quan. Phải biết muốn
học Phật đến nơi đến chốn th́
phải đoạn Hoặc chứng Chân. Trước tiên,
phải đoạn Kiến Tư Hoặc. Kiến Tư
Hoặc là ǵ? Kiến Tư Hoặc có hơn một trăm
sáu mươi phẩm, rất khó hiểu rơ, cũng v́
rất khó hiểu rơ nên đoạn chúng càng khó hơn. Trong
kinh có thí dụ muốn đoạn một phẩm Hoặc
giống như ngăn chặn ḍng nước chảy
mạnh rộng đến bốn mươi dặm, khó
đến mức như vậy đó! Do điều này ta có
thể biết đoạn Hoặc rất khó. Nếu
hỏi cá nhân tôi chín mươi sáu tuổi, học Phật
đă hơn bảy mươi mấy năm, đoạn
được bao nhiêu phẩm Hoặc? Nói thật với
chư vị, một phẩm Hoặc tôi cũng chưa
đoạn được, nhưng tôi có pháp môn đặc
biệt, pháp môn đặc biệt ǵ vậy? Khỏi
phải dùng cả bảy mươi năm, chỉ cần
tám năm, mười năm, hoặc ba tháng bèn có thể
thành công ngay trong đời này. “Có chuyện tiện lợi
như vậy hay sao?” Có chứ! Pháp môn đặc biệt này
chính là pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn tiện lợi như
vậy nhưng rất khó tin. Pháp môn Tịnh Độ này bao
trùm hết ba căn, lợi độn đều thích
hợp, lại c̣n là chỗ quay về của ngàn kinh
vạn luận. Cá nhân tôi đă tu học theo rất
nhiều phương pháp nhưng chẳng đi đến
đâu, chỉ có thể nương nhờ pháp môn
đặc biệt này mà thôi.
Có được pháp môn
Tịnh Độ này th́ có ích lợi ǵ? Ích lợi quá nhiều,
chẳng thể dùng lời nói và văn tự để diễn
tả, cũng chẳng thể suy nghĩ mà có thể
hiểu rơ, chỉ có thể dùng câu “không thể nghĩ bàn”
để h́nh dung. Bây giờ, tôi đặt ra một câu
hỏi để quư vị tham khảo. Thử hỏi có ai
biết được chuyện sanh tử của ḿnh
không? Trong lục đạo đời này làm người,
đời sau không nhất định sẽ làm
người được đâu nhé! Có thể sẽ
đi làm quỷ, biến thành súc sanh, hoặc đọa
địa ngục cũng không chừng. Nếu
thường ngày có làm những việc thiện to lớn,
đời sau có thể sanh lên cơi trời làm Thượng
Đế. Làm Thượng Đế xong, đợi đến
khi những nhân ác trong quá khứ hiện tiền, vẫn
phải luân hồi tới lui trong sáu nẻo, chứ
chẳng phải là làm người bèn vĩnh viễn làm
người, Thượng Đế vĩnh viễn làm
Thượng Đế! Ai cũng phải chuyển dời,
vĩnh viễn luân hồi chẳng dừng, đó gọi
là “luân hồi trong sáu nẻo”. Nói vậy nếu chưa “đắc
đạo” th́ tốt nhất là đừng chết. V́
nếu chết đi, chẳng biết đời sau
sẽ biến thành sinh vật ǵ! Trong kinh ví lục
đạo như biển khổ, ở trong lục
đạo cũng giống như trôi lăn trên biển
khổ luôn luôn trồi lên hụp xuống. Học Phật
đắc đạo rồi sẽ khỏi phải
chịu nỗi khổ luân hồi, đó gọi là “chẳng
sanh, chẳng diệt”. Pháp môn Tịnh Độ là biện pháp
tốt nhất để thoát ly luân hồi.
“Học Phật” khác với “Phật
Học”. Học Phật là chúng ta hành theo lời Phật dạy.
Phật Học nghĩa là t́m hiểu kinh điển
Phật pháp, tuy là hiểu rơ, nhưng chẳng học và làm
theo. Ngày nay có rất nhiều người nghiên cứu
Phật Học, người học Phật chẳng
nhiều, [Phật Học] giống như nói về
thức ăn, đếm của báu, chẳng có ích ǵ
hết. Do đó, hiểu Phật, học xong th́ phải hành,
phải tu. Như vậy th́ phải học pháp môn Tịnh
Độ như thế nào? Tu như thế nào?
Pháp môn Tịnh Độ đơn
giản và dễ dàng nhất, đó tức là pháp tŕ danh,
niệm A Di Đà Phật. Tuy câu này đơn giản, dễ
dàng, nhưng đạo lư và nội dung vô cùng thâm diệu.
V́ vậy, đức Thế Tôn gọi pháp môn này là “pháp môn
khó tin”. Trong kinh Di Đà, nói [cơi Cực Lạc] có “chúng điểu diễn pháp”
(loài chim nói pháp), những con chim ấy đều do A Di Đà Phật
muốn tuyên lưu pháp âm nên biến hóa ra. Ngoài ra, hoa sen
trong ao thất bảo cũng vậy. Niệm Phật văng
sanh chẳng phải là hôm nay niệm Phật, ngày mai văng
sanh, chẳng hề tiện nghi như vậy. Hơn
nữa, sanh đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng phải là lập tức thành
Phật. Sau khi văng sanh ở trong hoa sen, tùy theo công phu tu
tập mà chia thành chín phẩm. Có người lập
tức hoa nở thấy Phật, có người qua một
đêm hoa bèn nở, có người một ngày một
đêm mới nở, có người nhiều kiếp
mới nở. Ở tại đó tu hành, đoạn
Hoặc, sẽ chẳng bị thoái chuyển v́ hoàn cảnh
tốt đẹp, nhờ được chư Phật
hộ niệm, lại c̣n được lợi ích v́
chư thượng thiện nhân ở chung một chỗ. Trong
một thời gian ngắn, chẳng thể nói rơ trọn hết
những lợi ích ấy được! Nếu quư vị
muốn biết, có thể nghiên cứu kinh Di Đà th́ sẽ
hiểu rơ. Thế th́ [thử hỏi]: “Ông đă đạt
được pháp môn này hay chưa?’. Tôi đă đạt được
rồi, là do Ấn Quang đại sư -- thầy của
tôi dạy tôi. Quư vị nên xem Gia Ngôn Lục của Ấn
Tổ th́ tự nhiên sẽ tin ngay. V́ thời gian có hạn
nên tôi không thể nói nhiều, chỉ mong những lời
này sẽ giúp mọi người tin sâu Tịnh Độ,
từ đấy định tâm một chỗ, nhất tâm
niệm Phật A Di Đà, tương lai thoát ly luân hồi văng
sanh Cực Lạc thế giới.
IV. Nhớ Phật Niệm Phật
(Giảng tại Phong Nguyên, Năm Dân
Quốc bảy mươi ba (1984), đệ tử Hoàng
Khiết Di kính ghi)
Trong Phật pháp vốn
chẳng có tông phái ǵ cả, nhưng v́ trong thời Mạt
Pháp căn tánh chúng sanh kém cỏi, trí huệ chẳng
bằng lúc trước, nên cần phải chọn lựa
phương pháp tu học cho thích hợp. Phật dạy: “Thời Mạt Pháp Tịnh
Độ thành tựu”, chúng ta cần phải nương
theo lời dạy của đức Phật mà tu. Pháp môn
Tịnh Độ là pháp môn nhị lực, tu hành nương theo
sức lực của Phật và sức lực của ḿnh.
Nhưng trong ngàn người khó t́m được vài
người chân chánh tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
phần đông mọi người đều tin sơ sài,
chẳng ai tin tưởng thực sự!
Học Phật cần có ba
điều, thiếu một cũng không được. Đó
là Văn - Tư - Tu (nghe - suy nghĩ - tu tập). Văn
nghĩa là nghe, “Phật pháp khó
nghe, nay đă được nghe”. Có thể nghe
được Phật pháp, thật chẳng dễ đâu
nhé! Vô cùng khó khăn! Nhưng sau khi nghe được,
chẳng tiến thêm một bước là suy tư th́
cũng uổng công. Hiện nay, Tam Tạng mười hai
bộ kinh khắp nơi đều có, nhưng kinh tạng
chẳng thể tự động thuyết giảng. V́ “Phật pháp không ai nói, tuy có thông
minh vẫn chẳng hiểu rơ”, cho nên phải thâm
nhập, tư duy và nghiên cứu. Nói trở lại chuyện
Tịnh Độ là pháp khó tin, nếu muốn thông suốt ắt
phải thâm nhập Tam Tạng kinh điển. V́ thế
mới biết pháp môn Tịnh Độ chỉ nghiên cứu
không chẳng đủ, nhất định phải
thật tu. Nếu không thể thực hành th́ chỉ là
lời nói dư thừa. Phải biết: Nghe nhiều
chẳng bằng nghĩ nhiều, nghĩ nhiều chẳng
bằng hành nhiều; ba thứ thiếu một th́ không
được.
Tịnh Độ là pháp dễ hành
khó tin. Khó tin v́ ḷng tin phải vững chắc, Bát Địa Bồ
Tát trở lên mới chẳng lung lay ḷng tin. V́ vậy, chúng
sanh phải tin tưởng vào Thánh Ngôn Lượng[10],
nương vào nguyện lực của đức Phật,
thiết thực tu hành. “Một
nguyện lực, một thật tu”, đây là
điều trọng yếu nhất. “Dị hành” nghĩa là chỉ cần làm theo
lời dạy của Phật, nhất định sẽ
thành công. Sáu chữ ‘Nam-mô A Di Đà Phật’ bao gồm Tam
Tạng mười hai bộ kinh, chẳng thể dùng hai ba
ngày mà có thể giải thích rơ ràng được. Tu hành
không thể tu một chút xíu rồi thôi. Người xưa
nói: “Muốn biết
đường xuống núi, phải hỏi người
từng đi qua”. Người đă từng trải qua
dạy quư vị làm như thế nào, quư vị phải làm
như vậy th́ sẽ thành công.
Chữ Tịnh trong Tịnh
Độ Tông rất quan trọng, phàm phu thường
chẳng tịnh, v́ cả ngày phàm phu đều khởi
vọng tưởng, trong ṿng một khảy ngón tay đă
khởi lên mấy trăm vọng tưởng, mỗi
vọng tưởng là một lần sanh tử, thật là
đáng sợ! Cả ngày đều khởi vọng
tưởng, sẽ không thoát khỏi lục đạo luân
hồi. Có người hỏi: “Có ai chẳng khởi
vọng tưởng, có ai chẳng khởi tâm niệm?” Chỉ
có Phật mới một niệm chẳng khởi. Tịnh
Độ Tông dạy chúng ta gom hết thảy tâm niệm
lại thành tịnh niệm, chẳng khởi vọng
tưởng. “Có thể làm được hay không?” Chỉ
cần biết phương pháp th́ sẽ làm
được. Lần này, tôi đến Phong Nguyên thật
chẳng dễ, hôm nay bèn nói phương pháp này cho quư
vị biết. Phương pháp ǵ? Tức là Nhớ
Phật niệm Phật (Ức Phật niệm Phật).
Niệm Phật tức là
mỗi lúc khởi tâm động niệm đều là A Di
Đà Phật, đương nhiên đấy đều là
tịnh niệm. Nhưng như vậy th́ công việc ǵ
cũng không cần phải làm nữa hay sao? C̣n một
phương pháp khác, đó tức là Nhớ Phật, trong
tâm luôn nghĩ đến Phật, chẳng quên. Niệm
Phật là “niệm tại
đâu, chú tâm vào nơi đấy”. Nhớ Phật là
nhớ rơ chẳng quên, dẫu thầm lặng (tức là
tuy miệng không niệm ra tiếng) nhưng vẫn luôn
nhận biết (trong tâm luôn tưởng Phật). Thí
dụ người ta ai cũng không quên tiền bạc, ai
cũng không quên ăn cơm, như thế đem tâm ham
tiền, nhớ ăn cơm biến thành tâm nhớ
tưởng Phật, cái ǵ cũng biến thành A Di Đà
Phật. Cứ như vậy tuy trong tâm chẳng nói,
nhưng có ấn tượng, đó là nhớ Phật.
Mọi người phải hiểu rơ bốn chữ “niệm Phật, nhớ Phật”
này th́ sẽ đạt được lợi ích to
lớn.
Thời gian hôm nay rất
ngắn ngủi, tôi cúng dường vài câu vô cùng quan
trọng này, mọi người hăy nên nghiên cứu rơ ràng,
lâu ngày chầy tháng niệm Phật liên tục chẳng
dứt, và biến đổi cái tâm không quên tiền, tâm
không quên ăn cơm thành tâm nhớ Phật.
Kính chúc quư vị nhất tâm
bất loạn, pháp hỷ sung măn.
V. Đau ḷng mỏi miệng khuyên buông
xuống
(Giảng trong chuyến hoằng pháp
tại Lộc Cảng, năm Dân Quốc bảy
mươi ba (1984), đệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)
Mọi người phải
biết học Phật là để làm ǵ? Phật pháp
Tiểu Thừa chỉ nhằm liễu sanh tử cho cá
nhân. Phật pháp Đại Thừa nếu chỉ v́ ḿnh
liễu sanh tử th́ vẫn chưa đủ, phải giúp
mọi người liễu sanh tử. Đó là tự lợi
lợi tha. Đạo tràng Lộc Cảng này
được thành lập cũng chính yếu v́ liễu
sanh tử. Sanh tử có “liễu sanh tử thật” và “liễu
sanh tử giả”. Thật sự có thể liễu sanh
tử th́ chỉ có một ḿnh đức Phật. Mọi
người học Phật, học liễu sanh tử th́
nhất định phải trải qua ba A-tăng-kỳ
kiếp mới có thành tựu. Ngoài ra đức Phật c̣n
phương tiện lập ra phương pháp cứu chúng
sanh hoành siêu (vượt ra khỏi tam giới theo chiều
ngang), giúp cho chúng sanh ngay trong một đời này có
thể thành tựu, đó là pháp môn Tịnh Độ.
Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn
tu hành nương nhờ vào hai lực lượng, dựa
trên hai lực lượng này tu tập sẽ có thể
thành tựu ngay trong một đời này. Đă biết
pháp môn này, bất luận quư vị sống đến
bảy tám chục tuổi, hoặc trên trăm tuổi,
thậm chỉ chỉ sống một tháng, chỉ cần
bạn chịu tu, một tháng cũng có thể liễu sanh
thoát tử. Pháp môn hay đến như vậy nhưng
rất khó hiểu rơ triệt để. Muốn hiểu rơ
pháp môn này, phải đọc hết Tam Tạng
mười hai bộ kinh th́ mới hiểu rơ. Lại nói
thêm, những pháp môn khác phải được thân
người th́ mới có thể tu tập, c̣n pháp môn
Tịnh Độ, ngay cả con kiến cũng có thể thành
tựu. Đương nhiên, nếu quư vị chẳng thành tựu trong
đời này th́ cũng phải luân hồi, cũng bị
mê muội khi chuyển sanh sang đời sau, trong
tương lai cơ hội gặp lại pháp môn này vô cùng
mù mịt.
Những lời dạy của
đức Phật được gọi là Thánh Ngôn
Lượng. Nếu có thể tin tưởng thực
sự th́ tuy chẳng hiểu, vẫn có thể thành
tựu. Chỉ sợ là quư vị không hiểu, nhưng
cố làm ra vẻ như chính ḿnh rất thông ḿnh. Thí dụ
rơ ràng đây là một khúc cây, quư vị lại nói bừa là
tấm giấy. Giấy có công dụng của giấy,
gỗ có công dụng của gỗ. Dùng khúc cây gơ vào
đầu sẽ đau, nhưng dùng tấm giấy gơ sẽ
không đau; đồ vật ǵ cũng có cách dùng riêng
của nó, chớ nên dùng sai. Kinh điển càng chẳng
thể giảng sai, mỗi chữ Trung Quốc có một
âm, mỗi âm có nghĩa khác, nói sai sẽ hại
người. Lúc b́nh thường phàm những người
đến đạo tràng này giảng kinh đều
phải y theo chú giải của Tổ Sư mà tuyên nói, không
thể nói tùy tiện, bừa băi.
Thông thường, mọi người
đều nghe đến hai chữ Ngă Chấp. Nếu
người mang bệnh th́ phải uống thuốc. Bệnh
ǵ th́ uống thuốc trị bệnh đó. Nhưng
một thứ thuốc không chỉ trị một loại bệnh,
có trăm ngàn cách biến hóa, nếu không bệnh mà uống
thuốc bừa băi sẽ rất phiền phức. Trong
Phật pháp thường nói đến một bệnh
nặng, đó là tham - sân - si. Người học Phật
đều biết, bất kể học theo tông phái nào
cũng đều bị bệnh tham - sân - si này. Tâm tham, tâm
sân hận, tâm ngu si được gọi là Tam Độc. Tam Độc
từ đâu đến? Hoàn toàn do cá nhân quư vị mong
cầu mà có. Tự ḿnh cầu ư? Nhất định quư
vị sẽ nói “chẳng có lẽ ấy!” Đích thực là
vô cùng chánh xác, tự ḿnh t́m cầu tham, sân, si rồi
giữ chặt nó trong tâm. Nếu vậy th́ sẽ chẳng
thể liễu sanh tử. Chắc chắn quư vị đă
nghe người xưa nói: “Thành
Phật chẳng khó, buông dao đồ tể xuống bèn
lập tức thành Phật”. Dao đồ tể (đồ
đao) là dao dùng để mổ heo, ḅ; sát sanh chẳng
phải là việc tốt, chỉ cần buông dao đồ
tể xuống liền thành công. Mọi người
phải nhớ “buông xuống”! Tam Độc tức là dao
đồ tể. Bất cứ người nào trong chúng ta
cũng chuyên cầm con dao đồ tể ấy, sau đó
tự giết hại ḿnh, hại người. Như
vậy th́ làm sao giải thoát cho được? Nếu
buông xuống dao đồ tể xong rồi lại cầm
cây kéo, như vậy th́ cũng không được,
nhất định phải buông xuống hoàn toàn. Tu pháp môn
Tịnh Độ nhất định phải chuyên tâm nơi
câu A Di Đà Phật. Thiền Tông nói: “Nhất niệm chẳng khởi”, người nào
có thể một niệm chẳng khởi th́ người
ấy chính là thật sự buông xuống. Nếu làm
chẳng nổi th́ phải chuyên niệm A Di Đà Phật,
dựa vào Nhị Lực để tu hành th́ mới có
thể thành công, mới có hy vọng văng sanh, liễu sanh
tử.
VI. Học Phật phải
cầu thành Phật. Thành Phật phải nhờ Di Đà.
(Giảng trong chuyến
hoằng pháp tại Lộc Cảng, năm Ất Sửu,
đệ tử Hoàng Bích Hà kính ghi)
Năm nay tôi đă chín mươi
tám tuổi, làm việc thường là sẵn tâm nhưng chẳng
có sức. Hôm nay may mắn gặp gỡ, nói chuyện
chỉ lựa những điều quan trọng để
nói, nói xong th́ điều quan trọng nhất vẫn là do mọi
người thực hành.
Tại sao chúng ta học
Phật? Học Phật nghĩa là mọi người
đều cầu thành Phật. Nếu không thể thành
Phật th́ học Phật để làm ǵ? Nhưng muốn
thành Phật th́ phải bắt chước làm theo hành vi
của đức Phật, bắt chước làm theo sẽ
có ích lợi ǵ?
Chư vị nên biết, từ
trước tới nay mọi người đều luân
chuyển trong sáu nẻo luân hồi không bao giờ ngưng
dứt. Sáu nẻo tức là cơi trời, người, súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục, và A Tu La. A Tu La
hơi đặc biệt, chia ra khắp bốn cơi
trời, người, súc sanh, ngạ quỷ. Phàm những
chúng sanh trong cơi Sa Bà chúng ta hễ có sanh bèn có diệt, bất
kể là thánh nhân hay là hảo nhân (người tốt), ai
cũng chẳng thoát khỏi sanh tử, đều phải
luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Vả lại, nhân
quả thông ba đời, nợ đời trước th́
đời sau phải trả. Trả xong nợ cũ
rồi bèn đầu thai sanh vào cơi trời, cơi
người. Trong cơi trời người, lại khởi
Hoặc, tạo nghiệp, đương nhiên sẽ sanh
tử tiếp nối không dứt y như cũ. Do đó,
người ta chết đi không thể bảo đảm
là đời sau sẽ sanh làm người trở lại.
Ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế chết đi
cũng có thể biến thành heo, chó, ḅ, dê, huống chi là
người thường! C̣n người học Phật
th́ sao? Đời này không thể thoát ra sáu nẻo luân
hồi, đă đầu thai bèn bị mê muội khi
chuyển sanh sang đời sau, nhất định sẽ
quên hết những đạo lư chính ḿnh đă tu trong đời
trước; cũng nhờ đời trước có tu
hành nên đời này sẽ hưởng phước.
Nhưng giàu sang học đạo khó lắm! Đă hưởng
giàu sang, lại làm quan, cơ hội tạo nghiệp càng
lớn, kỳ vọng có thể thoát ly sanh tử, thành
tựu Phật đạo trở thành rất viễn vông,
không thể nào thực hiện được!
Trong sáu nẻo, lúc th́ sanh lên
trời, lúc th́ đọa xuống cơi súc sanh, ngạ
quỷ, địa ngục. Sanh tới cơi lành (trời,
người) cũng như trong biển cả, ngoi
đầu lên hít một hơi khoẻ khoắn một lát
rồi thôi. Đợi có cơn sóng đánh ụp tới
liền bị ngập đầu, ch́m xuống biển sâu
thẳm chẳng c̣n lưu lại dấu vết. Đúng
như câu “đầu ngoi lên
hụp xuống”. V́ thế, con người nhất
định phải biết t́m giải thoát, cầu thoát ra
khỏi biển khổ. Giống như [bị ch́m]
giữa biển và gặp được tàu cứu vớt,
liền phải leo lên tàu để được chở
qua tới bờ bên kia, bờ bên kia tức là bờ
giải thoát. Nhưng ai được giải thoát?
Trừ Phật ra, ngay cả Bồ Tát cũng chưa
thật sự được giải thoát, do đó học
Phật nhất quyết phải cầu thành Phật,
nếu không thành Phật th́ là tự phụ bạc, tự
ruồng rẫy chính ḿnh.
Tại sao nói thành Phật
mới thật sự là giải thoát? Chữ Phật
nghĩa là Giác. Giác nghĩa là hiểu rơ tất cả,
phải tu tới mức hiểu rơ tất cả [bất
cứ sự việc ǵ cũng phải hiểu rơ]. Nếu
tính thời gian th́ một ngày, một năm có thể làm
nổi hay không? Một trăm năm, một ngàn năm,
một vạn năm cũng chưa làm nổi! C̣n nói theo phương
diện không gian, dùng mảnh đất Đài Loan nhỏ nhoi
này để tính, những học giả nghiên cứu
thực vật, động vật có thể biết rơ
hết tất cả những thực vật, động
vật sanh sản ở Đài Loan này hay không? Người
Đài Loan từ một tuổi tới một trăm
tuổi [đă là rất nhiều], tên của các thứ cây
cỏ, chim chóc, thú vật đă là rất nhiều [làm sao
biết hết cho được]! Do đó, muốn thành
Phật phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp. Sau
khi thành Phật, ở ngoài tam thiên đại thiên thế
giới ở chỗ nào có mưa, có bao nhiêu giọt mưa,
Phật đều biết rơ ràng. Đúng là không có việc
ǵ Ngài không biết, không có vật ǵ Ngài không rơ. C̣n phàm phu
chúng ta, trước mắt có một tờ giấy che kín
là chúng ta không nh́n thấy rồi, nói chi những chuyện
khác!
Nói như vậy th́ thành
Phật là chuyện rất khó phải không? Đúng là
rất khó! Nhưng đức Phật vô cùng từ bi, trong
muôn vàn khó khăn, Ngài đặc biệt mở ra một
pháp môn giúp cho mọi người nhanh chóng được
giải thoát thật sự.
Mọi người đều
biết đi học cần phải vào trường,
trường học lại có trường hay, trường
dở. Hiện nay, muốn học Phật phải kiếm
một trường hay. Kiếm được một
trường hay rồi, được đức Phật
A Di Đà làm hiệu trưởng, Quán Thế Âm Bồ Tát
làm Chủ Nhiệm Giáo Vụ, Đại Thế Chí Bồ
Tát làm Chủ Nhiệm Huấn Đạo, đúng là một
ngôi trường quá tốt đẹp! [Trường ấy
là trường nào vậy?] Trường ấy chính là
thế giới Cực Lạc. Nơi đó “chẳng có sự khổ, chỉ có điều vui”.
Tới đó muốn làm ǵ th́ làm, đó là một nơi
thanh tịnh chẳng ô nhiễm. Nhưng v́ nó quá đặc
biệt, trong một vạn người chẳng t́m ra
được một người thật sự tin
tưởng, chẳng hoài nghi; do đó, pháp môn Tịnh
Độ gọi là pháp khó tin
Phần đông người ta
v́ chẳng tin chân thật, miệng niệm Phật
nhưng tâm rong ruổi theo duyên bên ngoài. Đúng như câu nói
“miệng niệm Di Đà, tâm
tán loạn”, [hét toạc cổ họng cũng luống
công], niệm như vậy sáu trăm vạn kiếp
cũng không thể thành công. Xét về số lượng
th́ niệm Phật nhiều sẽ được khẩu
thiện, đời sau sanh làm người mà thôi! Như vậy
là vẫn chưa rốt ráo. Rốt ráo nhất vẫn là
thật sự tin tưởng, thật thà niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc. Sanh tới Tây
Phương, tiếp tục tu học trong trường,
khi tốt nghiệp ra trường sẽ được
tự do, thật sự được giải thoát.
Pháp môn Tịnh Độ, ngàn
kinh vạn luận chỗ nào cũng chỉ quy. Tam Tạng
mười hai bộ kinh điển, bộ kinh nào nói
tới pháp môn mà không phải bất cứ ai cũng có
thể hiểu trọn vẹn được, liền dùng
sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” để khuyên chúng sanh.
Trong sáu chữ này, chữ nào cũng liên quan tới Tam
Tạng kinh điển. Chữ Tín là cội nguồn
của hết thảy công đức, đương nhiên
muốn tin tới mức không lay động th́ Bát
Địa Bồ Tát mới làm được. Tuy nhiên,
chúng ta có thể miễn cưỡng tin. Đức
Phật là thánh nhân, tuyệt đối sẽ không bao
giờ nói dối; hăy tin vào Thánh Ngôn Lượng, cho dù không
hiểu lư lẽ cũng thành công. Nếu mọi
người có thể không hoài nghi, y giáo phụng hành, có
thể văng sanh về cơi Cực Lạc, nhất
định có thể thành Phật, đạt
được giải thoát thật sự.
VII.
Pháp khế đạo
(Giảng
tại Tịnh Nghiệp Tinh Xá (Dân quốc 74, 1985), đệ
tử Ngô Bích Hà kính ghi)
Hôm
nay tôi rất vui mừng có duyên nói chuyện với quư vị,
nhưng v́ thời gian quá ngắn ngủi chỉ có thể
chọn ra đôi lời quan trọng để nói mà thôi.
*
Tin
sâu nhân quả, tu nhiều âm đức.
Căn
bệnh lớn nhất của con người hiện thời
là “không tin nhân quả báo ứng”, bất luận là pháp thế
gian hay pháp xuất thế gian đều chẳng ĺa nhân quả,
nay tôi sẽ dùng câu này để mở đầu buổi
nói chuyện.
Sự
của nhân quả rất phức tạp. Lư của nhân quả
sâu thẳm khó hiểu; quy nạp lại bèn chia ra nhiều
loại khác nhau: thiện, ác, vô kư, hữu lậu, vô lậu.
Lúc tạo th́ có khi thiện chuyển thành ác, có khi ác biến
thành thiện, có rất nhiều sự thay đổi khác
nhau, rất khó nói, nên chỉ nêu ra những sự việc
liên quan mật thiết nhưng tương đối dễ
hiểu, đó là “đạo đức”.
Đạo
là ǵ? Đạo là những ǵ có thể đem lại lợi
ích cho đại chúng, đem lại từ bi, trí huệ cho
người khác. Đức là ǵ? Sau khi thực hành, có thể
đạt được những lợi ích. Đức lại
chia thành dương đức và âm đức. Dương
đức [là những đức] hiện ra rơ ràng, thuộc
hữu lậu, [chẳng hạn như] làm việc thiện
mà mong người khác biết, mong được danh
thơm tiếng tốt hay phước báo. C̣n âm đức
ẩn kín, thuộc về vô lậu, làm việc thiện
không mong người khác biết, tuy không v́ danh, v́ lợi, vẫn
được phước báo. Ngược lại, việc
ác cũng chia ra dương ác và âm ác. Dương ác là những
điều ác hiện rơ ràng, ai cũng biết; âm ác ví dụ
như tâm ác độc hại người, quả báo là
trong tương lai sẽ đọa tam đồ, chúng ta
phải nên cẩn thận. Nhân quả báo ứng tuyệt
đối chẳng hư giả. Chúng ta tới chùa, chùa là
đạo tràng, nếu không có đạo đức, th́ là
đạo ǵ? Do đó đừng nên tạo ác, phải tu
âm đức, nếu có thể tu âm đức th́ quả
báo ẩn kín hay rơ rệt đều có đủ.
* Noi
theo Thánh Ngôn Lượng để tu tŕ.
Kế
đó, hăy nói về việc học Phật. Trong Phật
pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, tổ sư chia thành
mười tông phái, sau đó lại chia thành pháp môn phổ
thông và pháp môn đặc biệt. Tu theo pháp môn phổ thông
muốn giải thoát sanh tử, tu thành quả vị Phật
phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp. Pháp môn đặc
biệt th́ ngay trong đời này có thể thoát khỏi tam
giới, thoát khỏi luân hồi, thành tựu trong đời
này. Ngoài lợi ích to lớn như vậy lại c̣n bao trùm
khắp ba căn. Kẻ hiểu được là phải
triệt ngộ ư nghĩa của Tam Tạng mười hai
bộ kinh, nhưng nếu hiểu không được, dẫu
là người ngu nhất cũng tu được. Tu
như thế nào? Chỉ chấp tŕ một câu A Di Đà Phật
là được! Câu danh hiệu A Di Đà Phật này, vừa
dạy liền biết niệm, vô cùng dễ dàng! Cứ nhất
tâm tŕ niệm bèn liền được đức Phật
tiếp dẫn, liễu thoát sanh tử, sanh về Cực Lạc,
vô cùng thẳng tắt! Đó là pháp môn đặc biệt,
cũng gọi là pháp môn Tịnh Độ. Lư này chỉ có
Phật và Phật mới có thể biết trọn vẹn,
từ Đẳng Giác trở xuống đều chẳng
hiểu trọn hết.
Nghiên
cứu Phật học cần phải biết về Tam
Lượng[11]: Hiện Lượng,
Tỷ Lượng, Thánh Ngôn Lượng. Lượng
nghĩa là thước tấc. Chẳng biết dài hay ngắn
th́ phải dùng thước tấc để đo lường,
thước tấc là tiêu chuẩn. Tam Lượng là tiêu
chuẩn. Thánh Ngôn Lượng là những lời dạy của
thánh nhân, chân thật chẳng hư dối có thể dùng làm
tiêu chuẩn cho người tu hành. Pháp môn Tịnh Độ
chỉ có đức Phật mới hiểu trọn, chúng
ta cứ noi theo Thánh Ngôn Lượng sẽ khỏi phạm
sai lầm. Đạo sư ở thế giới chúng ta,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta chấp tŕ
danh hiệu A Di Đà Phật, chúng ta hăy nghe theo, chấp tŕ
danh hiệu, đó là Phật tử chân chánh, tin tưởng
Thánh Ngôn Lượng.
* Miệng niệm tai nghe, một
trăm lẻ tám chẳng loạn.
Đă
tin vào Thánh Ngôn Lượng và tŕ danh hiệu A Di Đà Phật;
công phu tŕ danh có sâu hay cạn, giống như trường
học có tiểu học, trung học, đại học,
tŕnh độ cao thấp khác nhau. Niệm Phật tầng
thứ nhất là “miệng niệm
tai nghe”, mức độ này cũng như tiểu học.
Kế đó là “tâm niệm, tâm
nghe”, mức độ này cũng như trung học. Cuối
cùng là “thần niệm, thần
nghe”, [thần ở đây nghĩa là tâm thanh tịnh; hoặc
nói chính xác là dùng tánh Nghe nơi tự tánh để nghe câu
niệm. Cái tâm nói ở mức độ thứ hai thấp
hơn v́ cái tâm ấy c̣n là tâm thức, tức vọng tâm
chưa phải chân tâm] mức này cũng như đại
học. Tŕnh độ của chúng ta chỉ là tiểu học
mà thôi, có thể miệng niệm rơ ràng rành rẽ, tai nghe rơ
ràng, rành rẽ, công phu niệm tới mức thuần thục,
trong tâm chỉ có Phật, chẳng bị ngoại cảnh
làm rối loạn, đó chính là nhất tâm bất loạn được
nói trong kinh Di Đà.
Chúng
ta tự hỏi ḷng ḿnh có ai niệm tới mức nhất
tâm bất loạn hay chưa? Niệm Phật tới mức
“tâm niệm, tâm nghe” chính là cảnh
giới “nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối” của Đại
Thế Chí Bồ Tát, càng không dễ ǵ đạt được.
C̣n mức độ “thần
niệm, thần nghe” chính là Thật Tướng Niệm
Phật, đạt đến mức “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. “Chiếu
mà thường tịch, tịch mà thường chiếu”,
rốt cuộc chẳng có ai hiểu được.
Chư
vị đừng coi thường câu “miệng niệm, tai nghe” này, miệng niệm rơ
ràng, tai nghe rành rẽ, sẽ chánh niệm phân minh, có thể
đắc nhất tâm. Chư vị có thể hạ thủ
công phu từ chỗ này, luyện tập một tháng không
gián đoạn th́ sẽ đạt được lợi
ích to lớn.
Những
điều nói trên đều là phương pháp niệm Phật,
c̣n số lượng nhiều hay ít, ở đây, tôi nhắc
lại một bài kệ của cổ đức để
mọi người tham khảo:
Niệm Phật bất tất cầu
đa niệm
Đản niệm bách bát tâm bất
loạn
Kỳ trung nhược hữu
nhất niệm sai
Trạo chuyển châu đầu
giai bất toán
(Niệm
Phật chẳng cầu phải niệm nhiều
Chỉ
niệm trăm tám tâm chẳng loạn
Trong
đó nếu có một niệm sai
Lần
chuỗi niệm lại, trước không tính)
Đừng
chê một trăm lẻ tám ít quá, nhất tâm niệm Phật
th́ một trăm lẻ tám cũng bằng ba mươi sáu
vạn ức mười một vạn chín ngàn năm
trăm tiếng (Nhận định: Xin tham khảo Long
Thư Tịnh Độ Văn, cuốn bốn, phần Pháp
Môn Tu Tŕ số sáu). Lời tôi nói đều y theo kinh điển
và lời của Tổ Sư, chư vị hăy nên chuyên cần
luyện tập niệm Phật nhất tâm. Kính chúc quang thọ
vô lượng.
VIII.
Biết quả sợ nhân, nên cẩn thận; gặp duyên,
đụng cảnh gắng tu tập
(Dân
Quốc 65 (1976), khai thị cho lớp Trung Huệ, đệ
tử Ngô Bích Hà kính ghi)
Chư vị hăy lắng nghe!
Người giảng hay chẳng bằng người biết
nghe. “Chư pháp ư cung kính trung
cầu” (cầu pháp phải bắt đầu từ
nơi cung kính), dù những ǵ tôi nói chẳng như lúc
trước, nhưng cung kính lắng nghe nhất định
sẽ đạt được lợi ích của Phật
pháp. Huống chi chư vị đă ra sức niệm Phật
ba ngày, trong trăm việc bận rộn t́m được
thời gian rảnh rỗi, cơ duyên này thật sự là
chẳng dễ nên phải gắng sức để đạt
được nhất tâm bất loạn. Cung kính, thành khẩn,
thiết tha là thiện nhân duyên, mong mỏi được
nhất tâm văng sanh
Trong
Tịnh Tông chúng ta có nói “vạn
tu, vạn người đi”, hoặc là “mười niệm văng sanh”, hoặc là “lâm chung trợ niệm văng sanh”
đều là lời nói dựa trên căn cơ để
thành lập. Mọi người ai nấy đều có
điều kiện [khác nhau], không thể cẩu thả.
Thí dụ như việc ăn uống, [thức ăn vừa
mua về] không thể ăn liền, phải nấu nướng,
chuẩn bị đủ mọi thứ, ăn xong phải
dọn dẹp đủ thứ. Lại c̣n cách thức
ăn uống ở mỗi địa phương đều
có nhiều cách thức khác nhau. Lư trong Phật pháp cũng
như vậy. Trong câu “vạn
tu, vạn người đi”, chữ Tu nghĩa là ǵ? Tu
như thế nào? Trước hết phải t́m hiểu,
chứ không phải lần chuỗi, miệng niệm
khơi khơi bèn gọi là tu. C̣n nếu không tu th́ làm sao văng
sanh được? C̣n nói “mười
niệm văng sanh”, chúng ta niệm Phật đă niệm hết
hai mươi lăm năm rồi, đừng nói chỉ
có mười niệm, mười vạn niệm cũng
chẳng phải là quá đáng. Nếu những niệm
đó đều hư dối, chẳng chân thật, tới
lúc lâm chung sẽ rất nguy hiểm! Trong mười vạn
niệm ấy, chưa từng có một niệm đạt
được nhất tâm bất loạn. C̣n trợ niệm
văng sanh được coi là bảo hiểm cuối cùng. Trợ
niệm nhằm mục đích giúp cho người sắp mất
giữ được chánh niệm. Lúc lâm chung, tứ đại
phân tán giống như gió, như dao cắt thịt, đau
đớn vô cùng, lúc đó rất dễ đánh mất
chánh niệm. Nếu có người nhắc nhở và
người sắp lâm chung có thể chấp tŕ danh hiệu
th́ trợ niệm như vậy mới có hiệu quả.
Nếu chỉ có người đến trợ niệm niệm
Phật, c̣n người sắp lâm chung chẳng chịu niệm
th́ cũng không thể văng sanh. Do đó mới biết bất
luận tông phái nào đều cần phải “Giải Hành tương ứng”
(hiểu và hành đi đôi), đối với Lư có thể
hiểu rơ, đối với Sự có thể tu hành chân thật.
Giải có thể dẫn dắt Hành (sự tu hành), Hành có thể
chứng minh cho Giải. Như vậy th́ mới không đến
nỗi tu mù luyện đui, rơi vào hầm lửa,
chư vị phải dụng công căn cứ vào những
điều nói trên.
* Gặp
cảnh chế ngự phiền năo
Chư
vị niệm Phật ở đây, cầu được
nhất tâm bất loạn, tại sao mong cầu đă lâu
mà chưa đạt được? V́ chính ḿnh không thể
làm chủ được. Tại sao vậy? V́ chưa minh
tâm kiến tánh. Nếu chân tâm bản tánh có thể làm chủ
th́ sẽ được tự tại, sẽ được
nhất tâm bất loạn lâu dài. Nếu tâm vô cùng rối loạn,
mà muốn liễu sanh tử,
muốn thoát ra khỏi luân hồi là điều không thể
được! Nếu vậy th́ không có kế sách nào để
có thể làm hay sao? Có chứ, nhất định phải
noi theo Phật pháp. Thí dụ như bệnh tật, người
bị bệnh phải tự biết ḿnh bị bệnh, phải
nghe lời bác sĩ mà uống thuốc. Nếu chỉ nghe
qua loa, nhưng không chịu uống thuốc, làm sao lành bệnh
cho được? Do vậy, biết muốn đạt được
quả “nhất tâm bất loạn” th́ phải trồng nhân
“tịnh niệm tiếp nối”. Nhưng người tại
gia chúng ta phải làm việc để kiếm sống nên
không thể chẳng bị nhiều việc trong đời
sống trói buộc, vậy th́ phải làm sao để tịnh
niệm có thể tiếp nối? Trừ lúc làm việc của
chính ḿnh phải tận tâm làm tṛn trách nhiệm ra, đối
với tài sắc, tiếng tăm, ăn uống, ngủ
nghỉ, hết thảy đều chẳng quan tâm, để
ư tới! Ư chí đều đặt nặng nơi sự
liễu sanh tử, c̣n rảnh rỗi đâu nữa để
quan tâm tới những thứ ấy? Nếu cả ngày
đều chú tâm những việc đó, không chỉ chẳng
liễu sanh tử nổi, e rằng c̣n tăng thêm rất
nhiều hạt giống sanh tử nữa.
Tu
hành có chánh công phu và trợ công phu. Chúng ta không thể niệm
Phật cả ngày. Người có thể niệm Phật
suốt ngày th́ chánh công phu là niệm Phật, trợ công phu
cũng là niệm Phật. Đó là lời của tổ Ngẫu
Ích dạy. Nhưng niệm Phật phải có đầy
đủ thiện căn, phước đức. C̣n nếu
không thể [niệm Phật suốt ngày] th́ chánh công phu là
niệm Phật, mỗi ngày công khóa cố định chớ
nên thiếu sót. Lúc nào không cần phải dùng trí óc, không cần
phải dùng tâm trí th́ nên khởi lên câu niệm Phật; c̣n
trợ công phu là ǵ? Chính là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ
Đạo và Sáu Ba La Mật . Những ǵ chúng ta làm hằng
ngày tuy rất phức tạp, nhưng nếu dùng tâm khéo léo
chuyển biến sẽ đều có thành trợ đạo,
tùy thuộc chúng ta dụng tâm như thế nào mà thôi. Thí dụ
như tôi dạy học nơi đây, nếu chưa từng
dụng tâm hướng về Bồ Đề th́ chỉ
đơn thuần là dạy học mà thôi. Nếu nghĩ
đó là bố thí th́ dạy học cũng có thể gọi
là trợ đạo. Hơn nữa, chúng ta phải luyện
tập công phu trong các sự việc đầy dẫy phiền
năo hằng ngày. Có câu “tâm vốn
chẳng sanh, do cảnh mới có”, nếu cảnh không
khởi lên, làm sao có thể khởi tham, khởi sân? Khi cảnh
giới xuất hiện, tâm chúng ta luôn luôn bị cảnh giới
chuyển. Cái gọi là “tu hành” chính là mỗi khi dấy khởi
tâm niệm, liền lập tức cảnh giác, chẳng
để cảnh giới xoay chuyển. Cổ đức
nói: “Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm’, mỗi khi khởi tâm tham, tâm
sân giận, tự tâm có thể cảnh giác, người niệm
Phật chúng ta, lúc tâm biết chính ḿnh đang khởi tham
sân, hăy mau niệm danh hiệu Phật để đè nén
chúng, đó gọi là “chế ngự
phiền năo”. Chế ngự phiền năo chính là lúc
đang làm những việc đầy dẫy phiền năo
trong xă hội, lúc cảnh giới vui, buồn, sân hận khởi
lên, mà có thể đè nén những tâm niệm sân giận ấy,
đó chính là công phu. Công phu tức là trong lúc khởi phiền
năo có thể chuyển đổi nó thành Bồ Đề.
Chế ngự phiền năo là đè nén những tâm niệm
phiền hoặc này, không cho nó tiếp tục khơi dậy.
* Tin sâu nhân quả.
Kế
đó là nói về nhân quả. Trước khi nói về nhân
quả, phải nói về “niệm
đầu” (ư niệm). Xin hỏi quư vị tại sao
chúng ta có phiền năo? Tại sao lại có thiện tâm? V́ hết
thảy đều do có ‘niệm
đầu’. Tâm niệm dấy khởi th́ vạn pháp
sanh, tâm niệm diệt th́ vạn pháp diệt. Vạn pháp
do tâm tạo, vạn pháp sanh diệt đều do những
tâm niệm sanh diệt. Niệm đầu là ǵ? Niệm
đầu tức là nhân duyên, lư của nhân quả ở tại
“vạn pháp do nhân duyên sanh”. Từ
vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta có quá nhiều mê hoặc,
điên đảo, trong tám thức điền chứa
đầy hạt giống của vạn pháp. Tuy kinh dạy
“phàm hết thảy những ǵ
có tướng đều là hư vọng”, nhưng phàm
phu vô tri, chấp tướng, chẳng biết nó là vọng,
do đó, sum la vạn tượng, sáu trần cảnh do sáu
căn làm môi giới, tâm tiếp xúc sáu trần cảnh ấy
sẽ phát sanh ra các thứ liền tạo thành ấn tượng.
Ấn tượng chính là hạt giống, đó là nhân. Những
hạt giống này có thể hun đúc những hạt giống
khác khởi lên, tạo thành duyên, đó gọi là Thân Nhân Duyên.
Nói tóm lại “tướng huân”
của hạt giống có thể chia thành hai:
-
Một là “tự loại tướng
huân” tức là chủng tử này sanh ra chủng tử
khác, khi chủng tử này hiện hành lại khiến cho chủng
tử khác cũng hiện hành (“hiện hành” có nghĩa là chủng
tử kết quả, tức nhân kết quả, quả ấy
lại tạo thành duyên cho quả của nhân khác phát sanh,
chín muồi), đó là nhân quả chẳng đồng thời.
-
Hai là “dị loại tướng
huân”, tức là khi chủng tử hiện hành, th́ sự
hiện hành ấy lại huân tập thành chủng tử,
đó là nhân quả đồng thời (Gọi là đồng
thời v́ nhân tạo thành quả, quả ấy lại là
nhân cho quả trong tương lai, tức là quả là quả
của cái nhân này, nhưng quả lại chính là cái nhân của
quả khác trong tương lai). Đó là Lư của hạt giống
và hiện hành huân tập. Do đó định luật nhân
quả -- lúc hạt giống sanh khởi hiện hành, hạt
giống là nhân, hiện hành là quả. Lúc hiện hành hun
đúc hạt giống th́ hiện hành là nhân, hạt giống
là quả. Tất cả đều ở trong tâm địa
của chúng ta, chẳng cần phải đi đâu t́m nhân
duyên, bất cứ lúc nào nhân duyên đều có thể đưa
đến, hiểu được như vậy th́ chuyện
này có đáng sợ hay không? Nếu chúng ta có thể giữ
cho tâm ḿnh chẳng chấp trước tất cả pháp
th́ sẽ không tạo hạt giống nghiệp nữa, nhưng
chuyện này đâu phải dễ? Do đó sanh tử luân hồi
vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Vậy th́ phải
làm sao? Đáp: chỉ có niệm Phật, làm cho tịnh niệm
tiếp nối.
V́ ư niệm
đều do những thứ cùng loại dẫn dắt, nếu
có thể niệm Phật đến mức thành phiến,
một phiến Phật hiệu này liên tục chẳng dứt,
câu sau nối tiếp câu trước. “Nam-mô A Di Đà Phật’,
chữ Phật vừa dứt th́ chữ Nam liền khởi
lên, chẳng để cho có mảy may nào gián đoạn.
Chỉ có tâm niệm Phật này khởi lên, chẳng có niệm
nào khác dấy khởi, Kiến Tư Hoặc không do đâu
mà dấy khởi, những tâm tham - sân - si cũng mất biệt
th́ làm ǵ có sát, đạo, dâm, vọng từ nơi thân khẩu.
Ngược lại, khi niệm tham sân vừa khởi, dù
thân khẩu không tạo tác, nhưng vừa khởi tâm niệm,
pháp trần bên trong liền bị nhiễm ô, làm sao thoát luân
hồi cho được? Do đó, nghiên cứu lư luận
nhân quả mới niệm Phật tốt đẹp, mới
tu tập từ nơi khởi tâm động niệm,
đó là làm cho những ǵ chưa sanh sẽ không sanh.
* Trực
hạ thừa đương (Dám gánh vác ngay trong giây
phút đó)
Lúc
niệm Phật, tuy không hiểu Lư, nếu chịu khởi
ḷng tin vững chắc và phát nguyện tha thiết, công phu cũng
không nhỏ, toàn Sự là Lư. Sự là ǵ? Thí dụ như những
sự trang nghiêm của cơi Cực Lạc là do A Di Đà Phật
muốn nhiếp thọ chúng sanh nên Ngài mới từ bi biến
hiện ra. Sự là những việc trang nghiêm, c̣n chỗ cực
kỳ thâm diệu chính là Thường Tịch Quang Tịnh
Độ, chân không huyền diệu là Lư. Do đó, có người
châm biếm cơi Cực Lạc là bánh vẽ, là hóa thành,
nhưng hóa thành này cũng có sự thọ dụng thật
sự. Chư vị chỉ cần có thể chấp tŕ câu
danh hiệu A Di Đà Phật này, Phật hiệu bắt
đầu từ tâm, phát ra nơi miệng, âm thanh lọt
vào tai, trở lại vào tâm th́ sẽ tương ứng.
Người niệm Phật [phải biết] cái túi da hôi thối
này chẳng phải là ḿnh, tấm thân do tứ đại
ḥa hợp này chẳng phải là ḿnh, tâm mới là ḿnh, tâm tức
là ḿnh, ḿnh tức là tâm; tâm niệm Phật, tâm tức là Phật,
Phật tức là ḿnh. Lúc chúng ta niệm Phật, dám gánh vác[12] trong
giây phút đó, chẳng hư dối, chẳng khiếp
đảm. A Di Đà Phật chính là ḿnh, nay ḿnh niệm Phật,
là A Di Đà Phật đang niệm Phật, tự niệm
tự Phật, niệm Phật tự tánh, công đức
đó rất lớn! Nếu ḿnh là A Di Đà Phật th́
không thể chẳng tin nhân quả, phải tự hỏi
có vị Phật nào làm việc giết hại, trộm cắp,
dâm dục, nói dối hay chăng? Thử nghĩ ḿnh là A Di
Đà Phật, thân sắc vàng ṛng, làm sao có thể làm những
việc giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối?
Nếu thật sự có thể quán tưởng như vậy,
cho dù không hiểu được lư lẽ, tu hành vẫn
được lợi ích to lớn.
Những
ǵ nói trên đây có ba điểm chính: Thứ nhất là gặp
cảnh chế ngự phiền năo, thứ nh́ là tin sâu nhân
quả, thứ ba là gánh vác tới cùng. Gặp cảnh chế
ngự phiền năo, gột rửa những hạt giống
xấu ác từ trước làm cho thanh tịnh; tin sâu nhân
quả, rải hạt giống tốt nhưng không hưởng
thụ [phước báo]; gánh vác tới cùng là phương
tiện để làm cho Sự Lư viên măn. Nếu có thể
làm được ba điểm này th́ lo ǵ không đạt
được nhất tâm bất loạn, lo ǵ không văng sanh
thế giới Cực Lạc!
Hôm nay chẳng nói dài ḍng, xin quư
vị bố thí cho tôi ḷng hoan hỷ. Bố thí hoan hỷ
chính là bố thí vô úy vậy!
IX. Khai thị tại Phật thất
chùa Linh Sơn năm Ất Măo
(đệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)
H́nh cảnh
thập cá thường cân tùy,
Tiền
đầu khiên dẫn hậu diện thôi.
Thành tâm
niệm Phật xung tha tán,
Lục
tự đ́nh thời tha hựu hồi.
(Mười tên cảnh sát thường theo sau,
Phía trước lôi kéo phía sau đẩy
Thành tâm niệm Phật, đuổi họ
mất
Khi sáu chữ ngưng, họ lại về)
Chư vị lăo sư, chư vị
đồng tu:
Thời gian vô cùng quư báu, [hôm nay
tôi] sẽ nói sơ lược những điểm chính
yếu với quư vị, chỉ cần mọi
người nghe hiểu, tin tưởng, và ghi nhớ
được th́ rất tốt. Nói về đề tài
ǵ? Về sự phân biệt giữa học Phật và không
học Phật.
* Phân biệt giữa học
Phật và không học Phật
Phần đông người
không học Phật đều mê hoặc, điên
đảo, dĩ nhiên cũng rất đáng thương.
Tại sao nói như vậy? V́ muốn giác ngộ th́
phải đi học, khi hấp thụ được
nền giáo dục hoàn hảo th́ mới có thể giác
ngộ. Nếu không cần học vấn ǵ cả mà có
thể giác ngộ, đúng là rất hiếm. Chúng ta đă
có cơ hội học Phật, vả lại, đă
học rất nhiều năm, chắc có lẽ cũng có
giác ngộ đôi chút. Nếu chẳng giác ngộ ǵ hết
th́ chẳng phải cũng đáng thương như
những người chưa học Phật hay sao?
Không giác ngộ có ǵ xấu? Giác
ngộ có ǵ tốt? Người không giác ngộ th́ hiện
tại chẳng có cách nào! Không chỉ hiện tại không
tốt, mà tương lai sẽ c̣n tệ hơn bây giờ.
Hiện thời chưa tạo nhân lành, trong tương lai
chuyện xấu c̣n nhiều hơn nữa. Nếu là
người giác ngộ, bất kể hoàn cảnh hiện
thời như thế nào, tuy khó tránh được tám
nỗi khổ của đời người, nhưng
nhờ có giác ngộ nên biết đó là quả báo do chính
ḿnh đă tạo từ đời trước, dẫu
chịu khổ vẫn chẳng oán trời trách
người. Nhờ giác ngộ nên biết cách giải
quyết nỗi khổ trước mắt, có thể vun
trồng thiện căn, phước đức cho
tương lai, mong cầu sau này được giải
thoát. Đó là sự khác biệt giữa giác ngộ và không
giác ngộ, đều là ở điểm này cả.
Người không học
Phật chẳng biết, phàm những người tin
Phật và biết học Phật, chỉ cần gặp
mặt nói chuyện với nhau th́ liền biết
người này có giác ngộ hay không. Trong một vạn
người không học Phật, có đến chín ngàn chín
trăm mấy cách suy nghĩ, nhưng cái nh́n đối
với ba đời th́ đều không ngoài ba loại. Những
người nghiên cứu tâm lư học đều biết,
đó là nghĩ tưởng về những việc tốt
đẹp hồi trước -- nuối tiếc quá
khứ; phần đông đều than van bây giờ không
bằng lúc trước -- bất măn đối với
hiện tại; mong muốn tương lai chuyển
biến tốt đẹp hơn bây giờ -- hy vọng
tương lai. Ba cách suy tưởng của người
b́nh thường là nuối tiếc quá khứ, bất măn
hiện tại, và hy vọng tương lai đều là mê
hoặc, điên đảo, nếu có cách suy nghĩ như
vậy th́ không thể khai ngộ được.
Cách nh́n như vậy
đều cho rằng hiện giờ không bằng lúc trước,
hy vọng tương lai tốt hơn bây giờ. Nhưng
trải qua một thời gian sau th́ lại nuối
tiếc những việc tốt bây giờ và bất măn
đối với những ǵ đă hy vọng trong
tương lai. Do đây có thể biết: Càng về sau
càng chẳng bằng lúc trước, ngày càng tệ hơn,
đây là lời chân thật. Nếu hy vọng tương
lai có thể hưởng phước tức là mê hoặc,
điên đảo. Hôm nay [tôi sẽ] tŕnh bày những ǵ trong
kinh đă nói, người đă nghe kinh sẽ hiểu
được, mà người chưa nghe kinh cũng có
thể nói đă biết việc này, có thể hiểu
được t́nh huống ngày càng tệ này th́ hăy mau siêng
năng tinh tấn niệm Phật.
* Trạng huống thực trong
tương lai
Bây giờ tôi sẽ nêu vài thí
dụ trước, rồi sau mới nói đến kinh
văn. Vạn pháp trong thế gian đều vô
thường. Thí dụ như bốn mùa trong một
năm, mùa Xuân và Hạ c̣n rất tốt, mùa Thu và Đông
tệ hơn. Một năm như vậy, mà trăm ngàn
năm cũng vậy, chỉ có điều ngày càng tệ hơn!
Trong kinh Phật nói rơ: Thọ mạng con người
bắt đầu từ lúc mười tuổi, mỗi một
trăm năm tăng thêm một tuổi, cứ thế
tăng măi đến lúc tám vạn tuổi (nói số
chẵn cho dễ nhớ), đây gọi là Kiếp Tăng.
Trong Kiếp Tăng th́ thọ mạng và phước báo của
con người ngày càng tăng trưởng, đấy là
lẽ tự nhiên. Đến lúc tám vạn tuổi trở
về sau, mỗi một trăm năm lại giảm
một tuổi, giảm măi đến lúc tuổi thọ
con người chỉ c̣n mười tuổi th́ thôi,
đây là Kiếp Giảm. Trong Kiếp Giảm, thọ
mạng và phước báo của con người cũng
giảm theo. Giảm đến lúc mười tuổi, có
thể nói là lúc xấu đến cùng cực. Chúng ta
hiện nay đang trong Kiếp Giảm, đang lúc tuổi
thọ con người giảm đến một trăm tuổi.
Từ tám vạn tuổi giảm xuống một trăm tuổi,
t́nh huống ngày càng tệ hơn. Mọi người hăy
xem lịch sử Trung Quốc th́ biết. T́nh h́nh thời
Hiên Viên Hoàng Đế hoàn toàn khác với t́nh h́nh hiện
nay. Không bàn chuyện xa xôi, chỉ bàn về chuyện ở
Đài Loan trong hai mươi mấy năm nay th́ cũng
vậy. Mỗi năm đều chẳng bằng năm
trước, hiện nay bề ngoài dường như ngày
càng giàu có, hoa lệ, nhưng những vật sanh
trưởng tự nhiên ngày càng ít, những vật nhân
tạo ngày càng nhiều. Những vật chưng diện
bên ngoài phần nhiều đều tạo thêm phiền năo,
ngũ dục, lục trần, có ǵ tốt đẹp
đâu nhỉ? Phần nhiều các thức ăn hiện
nay đều giảm bớt thọ mạng của con
người, phần nhiều đều dùng chất hóa
học, ăn vào sẽ sanh bệnh, sanh ung thư. Hiện
nay, ngay cả bánh chiên dầu cũng có thêm Amonia, nước
uống cũng có chất tẩy. Người ta chẳng
thể không ăn cơm, không uống nước. Mọi
người hăy thử suy nghĩ kỹ, hiện thời tuổi
thọ trung b́nh của con người là một trăm
tuổi mà c̣n như vậy, từ nay về sau chỉ có
ngày càng tệ hơn mà thôi! Sau chín ngàn năm, tuổi thọ
sẽ giảm chỉ c̣n mười tuổi sẽ xấu
ác đến cùng cực, sau đó, cứ một trăm
năm sẽ tăng lên một tuổi trở lại. Thật
sự muốn hưởng phước th́ phải
đợi đến lúc tuổi thọ tăng đến
hai vạn tuổi, lúc bấy giờ mới thực sự
hưởng phước, vậy th́ c̣n lâu lắm! Những
ǵ nói trên đây đều dựa theo kinh Phật, những
ǵ không có trong kinh, tôi chẳng dám nói bừa, nếu không,
sẽ đọa địa ngục. Cho nên nếu mọi
người muốn hưởng phước trong
tương lai, phải ráng chờ đợi cho qua
khoảng thời gian dài đăng đẳng này!
Từ đây về sau sẽ có
rất nhiều tai họa, người học Phật
đều biết sẽ có đại tam tai, hỏa tai,
thủy tai, phong tai. Lúc đại tam tai xảy ra, ngay
cả hai mươi tám tầng trời cũng phải
bị hủy diệt. Trong khoảng thời gian
trước khi đại tam tai xảy ra sẽ có tiểu
tam tai. Nguyên nhân chánh yếu tạo nên tam tai là do tâm con
người. Trong Kiếp Tăng, tâm người
hướng thiện, đạo đức ngày càng tăng
trưởng. Trong Kiếp Giảm, nhân tâm và đạo
đức ngày càng suy sụp. Người chưa học
Phật chẳng cần phải nói, nhưng người
đă học Phật cũng bao gồm trong ấy. Nếu
tâm không tốt th́ sau này làm thế nào mới văng sanh
được? Không chỉ chẳng thể văng sanh, mà trong
tương lai muốn ĺa đời một cách an lành
cũng chẳng dễ. Người ngoại quốc
cũng chẳng phải là ngoại lệ, ai cũng sẽ
gặp phải tai kiếp, tất cả đều do nhân
tâm tạo nên. Hiện tại không tốt, sau này sẽ càng
ngày càng tệ hơn!
* Nhân tâm xấu ác trong Kiếp Giảm.
Nói tóm lại, căn nguyên của
hết thảy xấu tốt đều do tâm con người
tạo nên, tâm ấy là tâm tham, sân, si. Trong kinh đă nói rơ: Nếu
có tâm tham th́ sẽ chiêu cảm nạn đói kém, vật dùng
và thức ăn ngày càng ít. Có tâm sân hận sẽ sanh ra
kiếp đao binh, xảy ra chiến tranh. Ngày xưa dùng
đao kiếm, một đao chỉ chém bị
thương một người, ngày nay có súng ống, súng
đại bác, vừa bắn một tràng bèn có thể
giết hàng chục người. Độc hại hơn
nữa là bom nguyên tử, ngày nay rất nhiều quốc gia
trên thế giới đều có; một khi chiến tranh
bộc phát, số người chết sẽ không thể
nào tính nổi, như trái bom nguyên tử thả ở
Nhật trong thế chiến thứ hai làm chết hàng
trăm ngàn người. Ngày nay, sức tàn phá của bom
hạt nhân so với bom nguyên tử c̣n lớn hơn
nhiều, tai hại của kiếp đao binh này
đều do tâm sân hận gây nên.
Nói tiếp về si, tâm ngu si
tạo nên tật bệnh. Ngày xưa chẳng có những bệnh
kỳ quái như hiện nay. Ngày xưa chỉ cần dùng
những cây thuốc thông thường đều có thể
trị nhiều bệnh. Hiện nay phần nhiều
đều là bệnh ung thư, mang bệnh này rồi th́
chẳng có thuốc hay ǵ để chữa. Sau này,
những bệnh kỳ quái sẽ ngày càng nhiều.
Những thứ này đều do nhân tâm tạo nên, tâm tham
tạo nên nạn đói kém, tâm sân hận gây ra kiếp
đao binh, tâm ngu si tạo nên những bệnh quái lạ,
đây là tiểu tam tai. Do đó, mọi người
đừng tưởng tương lai sẽ tốt
đẹp hơn, thực sự là tương lai sẽ
tệ hơn bây giờ rất nhiều.
Những sự việc vừa
nói trên đây đều là nỗi khổ con người
phải chịu đựng trong đời sống. Con người
sau khi chết th́ đối với những tội
nghiệp đă tạo ra khi chết sẽ như thế nào?
Có người nói: “Chết rồi là hết chuyện!”
Chẳng đơn giản như vậy đâu nhé! Sau khi đă
chết, vẫn c̣n linh hồn, vẫn c̣n luân hồi, ngày nay
tạo nhân ǵ, tương lai sẽ hứng chịu quả
báo đó. V́ vậy, mọi người phải nên niệm
Phật, chế ngự phiền năo (chế ngự
phiền năo), đừng tạo nghiệp thêm nữa!
* Phương pháp niệm
Phật chế ngự phiền năo
Hôm nay tôi nói với quư vị
về phương pháp Phục Hoặc (chế ngự
phiền năo). Trong kinh nói đến mười thứ
Hoặc, đó là Kiến Hoặc: Thân Kiến, Biên Kiến,
Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà
Kiến. Tư Hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi. Kiến
Hoặc có tám mươi tám Sử, Tư Hoặc có tám
mươi mốt phẩm, đoạn một phẩm
cũng chẳng dễ. Mười thứ Hoặc này
được gọi là Thập Sử cũng giống
như “h́nh cảnh” (công an mật vụ) ngày nay, ngày đêm
theo dơi, coi chúng ta tạo nghiệp, kéo chúng ta vào luân hồi
chịu khổ.
Một phen rơi vào luân hồi
mà muốn được thân người trở lại,
trong hàng vạn người khó được một kẻ!
Phần đông đều đọa vào ba đường
ác chịu khổ, nên vừa nghĩ đến tương
lai phải chịu khổ đúng là rất đáng sợ.
Hiện nay, nếu bom nguyên tử rớt xuống đây,
con người chết liền tức khắc, sau đó
đọa vào ba đường ác, đọa địa
ngục. Lúc chịu khổ, mong đến ngày thoát khỏi
chẳng biết đến bao giờ, đau đớn
không thể nào diễn tả nổi, cái khổ này lớn
gấp ngàn vạn lần nỗi khổ của con người
hiện nay. Người chưa học Phật cả ngày
rượu chè trác táng, tạo nghiệp mù mịt,
tương lai nhất định sẽ đọa vào ba
đường ác chịu khổ, trong kinh gọi là Lưu
Chuyển Môn. Nghĩa là nếu chúng sanh chẳng giác ngộ,
cứ tạo nghiệp măi, nhất định sẽ
như ḍng nước chảy xuôi, chảy ngay vào tam
đồ chịu khổ. Ngược lại, nếu có
thể giác ngộ th́ sẽ không tạo nghiệp, có
thể dừng lại, chảy ngược ḍng trở
lại, có thể giải thoát, ĺa khổ được
vui.
Người không học
Phật tạo nghiệp thọ khổ, lẽ
đương nhiên rất đáng thương.
Người học Phật đă được nghe pháp,
nếu c̣n không tin, c̣n chẳng y giáo phụng hành,
tương lai cũng sẽ luân hồi thọ khổ,
vậy th́ có phiền phức lắm không, có trách ai
được không? Nếu nói “[tôi] nghe chẳng hiểu”,
tại Đài Trung trong ṿng hai mươi mấy năm nay
mỗi tuần đều có giảng kinh, nếu quư vị
c̣n chưa đi nghe giảng, mặc cho thời gian
luống trôi, lăng phí cuộc đời, rốt cuộc có
ích ǵ cho ḿnh? Phật Thất khi trước, mỗi ngày tôi
đều đến nói chuyện, hiện nay chỉ có
thể đến hai lần, sau này đến một
lần chắc cũng chẳng dễ. Dù đến nghe
giảng mà nếu chẳng dụng tâm để nghe th́
cũng chẳng có ích ǵ, tại sao không thâu nhiếp tâm
lại, lắng ḷng nghe giảng, cầu được
giải thoát trong tương lai!
Trong phần trước nói
mười Hoặc giống như mười gă cảnh
sát theo dơi chúng ta, coi chúng ta tạo nghiệp, kéo chúng ta vào ba
đường ác. Thế nên chúng ta phải chế ngự
phiền năo, làm cho chúng chẳng khởi tác dụng, làm thế
nào để chế ngự phiền năo? Phật pháp không
cần nhiều, quư ở nơi thực hành, tức là “tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
đừng tạo thêm tai ương mới”. Chúng ta sanh
trưởng trong hoàn cảnh xấu ác như hiện nay,
chỉ có thể tùy duyên nhận chịu quả báo
để tiêu nghiệp cũ. Đă biết phải tiêu
nghiệp cũ th́ phải giác ngộ sửa sai, sửa
mười nghiệp ác thành mười nghiệp thiện,
luôn luôn “giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc
tốt”, như vậy th́ mới có thể tiêu nghiệp
cũ.
Lúc tâm niệm tham, sân, si,
mạn, nghi khởi lên, lập tức dùng câu Phật
hiệu đè nén chúng, khiến cho ác niệm ấy
chẳng khởi. Được như vậy th́ mới
mong tương lai được giải thoát; nếu không,
bom nguyên tử ở trước mắt cũng chẳng
tránh khỏi. Trong kinh có nói: “Có
chung cộng nghiệp th́ thọ chung nghiệp báo”. Chúng
ta cùng sống trong thời đại ngày nay th́ chắc
chắn ai cũng sẽ hứng chịu nguy cơ này,
nếu chúng ta có thể y giáo phụng hành “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo thêm
tai ương mới” và “giữ tâm tốt, nói lời
tốt, làm việc tốt”, tuy cùng ở trong hoàn cảnh
xấu ác do cộng nghiệp cảm thành, nhưng sẽ
không phải chịu quả báo của cộng nghiệp
ấy. Cho dù nghiệp báo hiện tiền, chúng ta cũng
sẽ chuyển biến, sẽ chẳng thọ chung
nghiệp báo, trước mắt là có thể thoát khỏi nỗi
khổ bom nguyên tử, tương lai có thể văng sanh Tây
Phương. V́ chúng ta có thể sửa đổi th́ [những
tai ương ấy] sẽ chẳng nằm trong kiếp
số, trong tương lai
nhất định có thể giải thoát.
V́ vậy, chế ngự
phiền năo là việc chúng ta nhất định phải
làm, phải nghĩ tham, sân, si, mạn, nghi như Ma, lúc
những tâm niệm ấy vừa khởi, lập tức
dùng câu Phật hiệu để đè nén chúng. Nhưng Ma
cũng có sức mạnh, càng đè sẽ càng khó, nên chúng ta
cần trợ lực. Làm mười nghiệp thiện
tức là trợ lực cho công phu niệm Phật. Nếu
làm mười nghiệp ác tức là tăng thêm sức
lực cho Ma con, Ma cháu. Vừa làm nhiều việc thiện
vừa niệm Phật, sẽ chẳng sợ Ma.
Khi ta vừa khởi lên một
vọng niệm liền lập tức dùng mười câu
Phật hiệu đè nén nó. Do đó: “Một vọng niệm khởi liền dùng
mười câu Phật hiệu, vọng niệm chẳng [thể
chống cự] nhiều Phật hiệu”. Mọi
người có thể về nhà thí nghiệm. Thí dụ như
lấy đậu đen tượng trưng cho vọng
niệm, lấy đậu nành tượng trưng cho câu
niệm Phật. Vừa khởi vọng niệm bèn lấy
một hạt đậu đen [bỏ vào hộp], sau
đó liền lấy mười hột đậu nành
đè nén và bỏ mười hột đậu nành [vào
hộp. Mười hột đầu nành này sẽ che kín
hột đậu đen]. Dụng công như vậy lâu ngày
chầy tháng, đậu nành sẽ nhiều, đậu
đen sẽ ít, có thể đè nén vọng niệm, đó
là phương pháp chế ngự phiền năo.
Dùng đậu đen
tượng trưng cho vọng niệm và đậu nành
tượng trưng cho Phật hiệu. Dụng công lâu dài
th́ Phật hiệu nhiều, vọng niệm ít, giống
như đậu nành nhiều, đậu đen ít. Chúng ta
tùy tiện quơ một cái, cơ hội nắm
được đậu nành lớn, cơ hội nắm
được đậu đen sẽ rất nhỏ.
Giống như lúc lâm chung, những hạt giống
trộn lẫn trong thức điền thứ tám,
những hạt giống vọng niệm lộn xộn
bị những hạt giống niệm Phật đè nén
bao phủ v́ hạt giống niệm Phật nhiều
hơn, vọng niệm khởi lên chẳng dễ, Phật
hiệu khởi lên dễ hơn. Lúc hạt giống
niệm Phật vừa khởi lên, chúng ta liền có
thể nhờ vào sức Phật tiếp dẫn, đới
nghiệp văng sanh, tu hành sẽ được thành công.
Hôm nay, tôi nói về phương
pháp chế ngự phiền năo này vô cùng quan trọng,
nếu mọi người chẳng dụng tâm ghi nhớ,
bây giờ tuổi tác của tôi đă lớn rồi,
năm tới chẳng biết c̣n sống hay không. Dù c̣n
sống, tôi có giảng thêm mười năm th́ cũng
chỉ giảng những điều quan trọng về
phương pháp niệm Phật chế ngự phiền năo
này [mà thôi]. Hy vọng mọi người hăy siêng năng
niệm Phật, ráng đè nén phiền năo, để có
thể văng sanh. Nếu muốn đoạn dứt Hoặc
th́ nói thành thật là ngày nay chẳng ai có thể làm
được!
Đoạn vừa nói được
gọi là Hoàn Diệt Môn, môn này chẳng giống với Lưu
Chuyển Môn ở phía trước. Hoàn Diệt Môn là không
để cho nó lưu chuyển, có thể đè nén
Hoặc, chẳng để mặc cho cơn sóng
đẩy đưa, quay lại tự ḿnh làm chủ. Hiện
thời là tiêu tai miễn nạn, trong tương lai bèn có
thể văng sanh, sẽ được giải thoát.
Sau cùng, nói thêm bài kệ
để kết thúc:
H́nh
cảnh thập cá thường cân tùy (Mười tên cảnh sát thường theo sau): Bất
cứ người nào cũng có vọng niệm,
mười Hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi, giống
như mười người cảnh sát luôn luôn theo sát
chúng ta.
Tiền
đầu khiên dẫn hậu diện thôi (Phía
trước lôi kéo phía sau đẩy): Ông cảnh sát ở
phía trước kéo chúng ta vào ba đường ác chịu
khổ, những người cảnh sát đi theo sau c̣n
thúc hối chúng ta sao đi chậm vậy!
Thành
tâm niệm Phật xung tha tán (Thành tâm niệm Phật,
đuổi họ mất): Chế ngự phiền năo
cần phải chánh tu và trợ tu, niệm Phật là chánh
hạnh. Thập thiện nghiệp là trợ hạnh
giống như mười người hầu giúp đỡ
công phu niệm Phật của chúng ta. Tuy mười
người cảnh sát mật vụ theo sát, muốn
đẩy chúng ta vào ba đường ác, nhưng chúng ta
một mực niệm Phật với tâm chân thành, ư chân
thành, đức Phật sẽ phóng kim quang phá tan,
đuổi họ đi, họ chẳng thể theo sát chúng
ta nữa.
Lục
tự đ́nh thời tha hựu hồi (Khi sáu chữ
ngưng, họ lại về). Nhưng lúc chúng ta không chú tâm
niệm Phật, sáu chữ hồng danh vừa ngưng
lại, lập tức mười tên cảnh sát liền
trở về, theo sát chúng ta, trói buộc chúng ta, đẩy
chúng ta vào ba đường ác chịu khổ.
Tôi nói tới đây là dứt
lời, quan trọng nhất là mọi người phải
niệm Phật cho đàng hoàng, thực nghiệm
phương pháp chế ngự phiền năo. Người thượng
căn dụng công trong Phật Thất có thể đè nén
Hoặc, cho nên mọi người đừng nên khuấy
nhiễu, chớ nên tùy ư đi tới đi lui, chớ nên
nói chuyện xen tạp. Nếu không, sẽ nhiễu
loạn tâm người hành đạo, tạo thêm tội
nghiệp.
Xin mời những người
hộ thất nghiêm chỉnh chấp hành quy củ trong
Phật thất để có thể thành tựu đạo
nghiệp cho mọi người! Bây giờ bắt
đầu niệm Phật, không thể vọng
động nữa.
Hăy cầu nhất tâm! Buông
xuống vạn duyên! Một câu Di Đà! Niệm tới cùng!
X. Khai thị tại Phật Thất
chùa Linh Sơn năm Quư Hợi
(đệ tử Hoàng Vịnh
kính ghi)
Nhân
thân bất dị đắc,
Tam
đồ chân khả phạ.
Cực
Lạc nhân nhân khứ,
Tam
độc tâm phóng hạ
Niệm
Phật bất cải tâm
Đẳng
như thuyết không ngữ
Tâm
khẩu nhược tương ứng
Lập
kiến Phật Bồ Tát
(Thân người chẳng
dễ được
Tam đồ thật đáng
sợ
Cực Lạc người
người đến
Buông xuống tâm tam độc.
Niệm Phật chẳng
sửa tâm
Cũng như nói suông thôi
Nếu tâm miệng tương
ứng
Liền thấy Phật, Bồ
Tát)
Chư vị lăo sư, chư
vị đồng tu:
Hôm nay chùa Linh Sơn tổ
chức mừng Thánh Đản đức Phật A Di Đà,
bắt đầu đả Phật Thất. Bản thân
tôi mỗi năm đều đến đây cùng quư vị
nói vài lời, không dám nói là giảng khai thị. Hai chữ
Khai Thị này bản thân tôi gánh vác không nổi. Tôi đă nói
chuyện ở đây ba chục năm, lúc trước
trong Phật Thất đều đến nói chuyện ba
bốn lần, sau đó cảm thấy quá phức tạp
nên chỉ nói hai lần, đến bây giờ bận quá
nhiều chuyện nên chỉ nói một lần,
trước tiên xin thanh minh chuyện này.
Nói chuyện trong Phật Thất
và giảng kinh khác nhau, chẳng nói đạo lư, mà chuyên nói
về vấn đề quan trọng là làm thế nào
để đạt được nhất tâm bất
loạn. Những lời nói trong ṿng ba mươi năm nay
đều chẳng giống nhau, có thể nói là đă
đem những điều quan trọng nói hết trơn
rồi. Đây là v́ bản thân tôi chẳng có học vấn. Nếu
là người có học vấn, dù chuyên nói về một
pháp môn nói thêm ba mươi năm nữa cũng chẳng
hết.
Đối với pháp môn
Tịnh Độ, trong những năm gần đây cũng
chẳng tránh có chỗ nói huyền thuyết diệu. Tại
Đài Trung trong ba mươi năm qua, tôi đă giảng kinh
không gián đoạn, c̣n giảng các kinh lớn, chư
vị đồng tu cũng thường nghe kinh, nghe
về pháp môn Tịnh Độ chẳng ít, giáo lư cũng nghe chẳng
ít, đáng lẽ chư vị phải có thành tựu
mới đúng. Nhưng xem lại trong ṿng ba mươi
năm, mười năm sau chẳng sánh bằng
mười năm trước, mười năm
trước lại chẳng bằng mười năm
đầu, có thể nói là càng ngày càng tụt lùi,
đến hôm nay th́ càng không lạc quan cho lắm. Hôm nay tôi
nói chuyện xin quư vị thứ lỗi! Chư vị
đến đây là mong đạt được nhất
tâm bất loạn, nếu người đến nói
chuyện chỉ nói những lời khách sáo, tâng bốc
mọi người th́ chẳng có ích lợi ǵ cho quư
vị, chỉ có thể nói về lỗi lầm, sửa
đổi lỗi lầm trở lại th́ mới thành
công, tại sao vậy? V́ lúc trước hoàn cảnh
học Phật đơn giản, hiện thời rất
phức tạp, phức tạp như thế nào? Ở
ngoại quốc, có nhiều người chưa hiểu
chữ nghĩa là mấy mà to
gan làm càn, dám sửa kinh Phật, lại c̣n in cho
người khác coi, mọi người vừa coi liền
loạn lên, tâm loạn th́ làm sao đạt được
nhất tâm? Chuyện này cũng chẳng trách người
khác được! Họ nói lời xằng bậy gây
rối loạn, chư vị đă nghe giảng những
bộ kinh lớn và nghe khai thị trong Phật Thất,
nếu chẳng thể phân biệt tà - chánh tức là
chẳng có đủ ḷng tin đối với Phật. Kinh
là do Phật nói ra, ai dám sửa đổi kinh? Văn Thù
Bồ Tát cũng không dám sửa, sửa kinh là đại
nghịch bất đạo, đó chẳng phải là
đệ tử Phật.
Pháp môn Tịnh Độ lấy
văng sanh làm nguyên tắc [và mục đích], trong ṿng ba
mươi năm qua, mười năm đầu có
được vài người, lúc văng sanh hiện
tướng rất tốt đẹp. Mười năm
thứ hai th́ số người này ít đi, đến
mười năm thứ ba hiện nay th́ chỉ có lác
đác vài vị mà thôi, công phu đă chẳng khá lắm.
Không những công phu tu hành [kém hơn trước] mà ngay
đến làm người trong cuộc sống hằng ngày
cũng kém cỏi. Tín đồ Phật giáo bất luận
là xuất gia hay tại gia đều phải lấy
Giới làm nền tảng. Trong Tam Học Giới -Định
- Huệ, nếu chẳng coi trọng Giới th́ làm sao có
thể thành công cho được? Vấn đề căn
bản của việc học Phật là Giới. Nói
đến chuyện này, hôm nay chẳng đàm huyền
thuyết diệu, chỉ nói đôi lời về pháp môn
Tịnh Độ.
Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn
đặc biệt. Tổ sư và kinh điển
đều đă nói qua. Pháp môn Tịnh Độ là pháp khó tin,
dễ thực hành, nếu tu pháp môn khác th́ phiền phức
rất nhiều, nhất định phải đoạn
Kiến Tư Hoặc. Người hiểu về Kiến
Tư Hoặc đă rất ít, chỉ nói hiểu thôi mà c̣n
chưa hiểu th́ làm sao đoạn nổi? Chẳng
phải thành ra nói suông hay sao? Pháp môn Tịnh Độ chẳng
cần đoạn Hoặc, nhưng xin mọi người
đừng hiểu lầm, lời nói này chẳng dễ.
Nếu quư vị có thể đoạn th́ rất tốt,
đương nhiên sẽ là Thượng Phẩm
Thượng Sanh. Nếu chẳng thể đoạn
Hoặc, ngay cả Hoặc cũng chẳng hiểu, bảo
quư vị đoạn Hoặc chẳng phải là đă làm
khó quư vị hay sao? Đây là một trong những điều
khó tin.
Điều “dễ hành” thứ hai
là điều ǵ cũng chẳng cần biết, quư vị chỉ
cần niệm Nam-mô A Di Đà Phật là sẽ thành công,
nhưng quư vị lại chẳng chịu tin. Tam Tạng
mười hai bộ, pháp môn nào cũng tốt, nếu chân
đạp trên hai chiếc thuyền, khi thuyền vừa
rời bến th́ quư vị rớt ngay xuống
nước. Nếu quư vị đạp tới bốn
chiếc thuyền cùng một lúc, sẽ chẳng đi
đâu được! Đó là “dễ hành”. Những kẻ phàm
phu lè tè sát đất như chúng ta chẳng tin câu nói này là
chuyện đương nhiên! V́ ngay đến Bát Địa
Bồ Tát c̣n chưa dám nói là đă tin, nhưng chúng ta
phải gượng tin. Mỗi pháp môn trong tám vạn
bốn ngàn pháp môn được nói trong kinh đều có
nhân, đều là pháp môn phương tiện, đúng
như câu “phương tiện
có nhiều cửa”, nhưng chỉ có cái nhân tu hành trong
Tịnh Độ Tông là chẳng cần phương tiện. “Vạn pháp duy tâm, tâm niệm
Phật, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm”,
điều này vô cùng chính xác. Chúng ta niệm Phật
chẳng qua là lấy tâm Phật làm tâm ḿnh. Trừ Phật
ra bèn chẳng có ǵ khác, chỉ cần chuyên tâm là thành công, vô
cùng đơn giản!
Kinh A Di Đà có nói một câu quan
trọng là niệm đến nhất tâm bất loạn,
nhất tâm là ǵ? Nếu trong tâm của quư vị ngoài A Di Đà Phật
ra c̣n có Phật Dược Sư sẽ chẳng gọi là
nhất tâm, mà gọi là “nhị
tâm”, chẳng chuyên nhất. Người nhất tâm th́
trong ḷng trống trơn thanh tịnh, tức là chỉ có
chuyện này. Niệm đến nhất tâm th́ quư vị
mới văng sanh, chưa đạt đến nhất tâm
sẽ không văng sanh. Nếu chư vị nói ngoài A Di Đà
Phật ra th́ chư vị chẳng niệm ǵ khác có được
hay không? Như vậy th́ tốt lắm, nhưng trong hai
mươi bốn giờ, hăy tự xét xem thời gian
niệm A Di Đà Phật được bao nhiêu? Nếu
mỗi ngày có thể niệm Phật một giờ
đồng hồ th́ cũng khá lắm rồi, hai
mươi ba giờ đồng hồ c̣n lại th́ làm ǵ vậy?
Chư vị lại nói: “Đâu
có ai rảnh rỗi để suốt từ sáng
đến tối đều niệm Phật!” Lời này
không sai, chẳng bảo quư vị niệm một mạch
như vậy! Trong kinh nói rất rơ: Có niệm Phật và
cũng có nhớ (ức) Phật. Quư vị đều đă
đọc Đại Thế Chí
Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, niệm
Phật và nhớ Phật có hai cách giải thích khác nhau. Niệm
Phật là miệng và tâm đều niệm, Nhớ
Phật th́ miệng có thể không niệm, nhưng tâm luôn
tưởng nhớ, chẳng quên mất. Thí dụ trên tay
tôi cầm cái khăn, tôi cầm cái khăn v́ ai? V́ A Di Đà
Phật. Tại sao tôi uống nước? Cũng v́ A Di Đà
Phật. Hết thảy mọi sự việc đều
chẳng quên A Di Đà Phật, giữ chặt A Di Đà Phật
trong tâm. Chuyện này có quá khó lắm không? Thật ra
chẳng khó! Trong tâm mọi người đều
chẳng quên ăn cơm, dù bận hay mệt đến
đâu, dù chẳng đói, đến giờ ăn cũng
phải ăn, chẳng bao giờ quên ăn cơm, nhưng
lại quên niệm Phật! Nói tóm lại, bất luận
việc ǵ cũng đều chẳng quên chính ḿnh muốn
văng sanh Tây Phương, hết thảy đều v́ A Di Đà
Phật. Như vậy th́ sẽ tịnh niệm tiếp
nối, trong tâm mới không xen tạp thứ khác, như
vậy th́ mới đạt được nhất tâm.
Đạt được nhất
tâm là công phu rất cao. Phải gạt bỏ hết
những tâm niệm lộn xộn, loạn xạ, làm
thế nào để gạt bỏ? Nói cho chư vị nghe
thử. Phàm phu chúng ta dễ ǵ thấu hiểu Phật lư!
Trong kinh nói nhất tâm có Lư nhất tâm và Sự nhất tâm.
Lư nhất tâm là Thật Tướng Niệm Phật,
chuyện này đa số chẳng
biết. Sự nhất tâm cũng khó biết. Ngay cả Lư
nhất tâm và Sự nhất tâm quư vị đều
chẳng biết th́ quư vị đạt được
nhất tâm ở chỗ nào? Chỉ cần đạt
tới Sự nhất tâm hoặc Lư nhất tâm th́ sẽ
đoạn Hoặc, kinh Di Đà có nói chuyện này, nhưng
phàm phu chúng ta không biết. Nếu chư vị đạt
được nhất tâm sẽ chẳng khởi vọng
tưởng nữa. Trong tâm quư vị nghĩ đông,
nghĩ tây, nghĩ nhà nào tốt, nhà nào xấu, thị
thị phi phi, khởi vọng tưởng là một căn
bệnh rất trầm trọng. Nhà Thiền nói “một
niệm chẳng khởi”, chẳng khởi vọng
tưởng bèn sẽ thành công, đó là một câu nói tổng
quát.
Nhưng mọi người
chẳng thể không khởi vọng tưởng, nói
thật ra, mọi người công phu đều chưa đạt
đến mức ấy. Có câu nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm”. Chẳng sợ khởi vọng tưởng,
vừa khởi vọng tưởng liền hỏi: “Tôi
đă khởi vọng tưởng rồi, làm thế nào đây?”,
phải mau chóng giác ngộ. Nếu có thể chế ngự
phiền năo, đến lúc lâm chung được
người khác trợ niệm mới có kết quả.
Nếu quư vị chẳng biết chế ngự phiền
năo, lúc lâm chung dẫu được người khác
trợ niệm, nhưng chẳng nghe theo họ, công phu là
phải tập luyện trong lúc thường ngày. Vừa
biết ḿnh đă khởi vọng tưởng liền A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, đánh
đuổi vọng tưởng đi, đó là “chế
ngự phiền năo”.
Nói đến đây, khởi
vọng tưởng là lục đạo luân hồi, là
hạt giống của ba đường ác. Nếu quư
vị tin câu này, sẽ được lợi ích. Nếu quư
vị không tin th́ cũng chẳng có cách chi khác, sự
thật đă phơi bày rơ ràng như vậy. Thông
thường, các vị đồng tu thường có
một cái tật rất lớn, đó là thị thị phi
phi, tranh danh đoạt lợi. Cho dù quư vị
được xứng tâm vừa ư, đến lúc chết
cũng không mang theo được! [Những ǵ] mang theo
được chỉ là nghiệp tội, như vậy mà
c̣n chưa hiểu thấu hay sao? [Đă biết như vậy
tại sao c̣n không chịu buông xuống?] Cho nên cũng là
niệm Phật quan trọng nhất.
Niệm Phật nhằm mong
đạt được nhất tâm, Phật Thất c̣n
ba ngày nữa, bốn ngày trước tôi chẳng
đến đây, tốt xấu ǵ tôi không biết. Hôm nay
đến đây quan sát ít nhiều, tôi cũng biết đôi
chút. Tôi đă giảng hơn ba mươi mấy năm
tại Đài Loan, thời gian giảng ở Đại Lục
tạm thời chẳng nhắc đến, tôi có thể
nói ít nhất là đă giảng bảy mươi năm, có
thể ít nhiều ǵ tôi cũng nh́n thấy chút đỉnh.
Lúc trước người ta nói “lúc đả thất
tại chùa Linh Sơn, khi một cây kim rớt xuống
đất mọi người đều nghe rơ”, bây
giờ c̣n có thể được như vậy không?
Ở nhà th́ lôi Đông kéo Tây’, bàn chuyện nhà họ
Trương tốt, nhà họ Lư xấu, cả ngày
đều chỉ lăng xăng những chuyện này.
Đến đạo tràng mà vẫn c̣n làm những chuyện
như vậy, các bạn đến để nhất tâm
niệm Phật hay là đến để kiếm
chuyện? Như vậy th́ làm sao thành công cho
được? Than ôi! Nói đến đây tôi kết thúc
bằng một bài kệ, mọi người phải đạt
nhất tâm. Nếu không đạt được nhất
tâm, đến lúc mạng người kết thúc sẽ
phải đọa vào ba đường ác đó nghe!
Nhân
thân bất dị đắc (Thân
người chẳng dễ được)
Mọi cơi trong lục
đạo đều có thể niệm Phật văng sanh,
nhưng cơi người văng sanh dễ dàng nhất. Ngoài cơi
người ra, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ sẽ
khó hơn. Cơi trời cũng khó, vẫn chẳng bằng
cơi người, v́ cơi trời hưởng phước quá
lớn, trong ḷng họ chỉ nghĩ đến chuyện
hưởng phước, cũng chẳng màng đến
văng sanh Tây Phương làm chi! Do đó, chỉ có cơi
người là dễ tu hành nhất. Câu đầu bài
kệ liền nói ư này: “Thân
người chẳng dễ được”. Câu này trong các
kinh đều nhắc đến, chẳng phải chỉ
có tôi nói như vậy mà thôi! “Thân người khó
được”: Trong kinh có thí dụ, từ trên
đỉnh núi cao thả một sợi chỉ xuống,
phía dưới chân núi đặt một cây kim. Thả
sợi chỉ từ đỉnh núi xuống mà xỏ ngay
vào cây kim ở chân núi, gió vừa thổi nhẹ th́ sợi
chỉ này chẳng biết sẽ bay đến phương
nào rồi! Đừng nói là chỉ có một sợi, dù có
một ngàn sợi, mười ngàn sợi, có sợi nào may
mắn xỏ trúng vào lỗ kim, xác suất xảy ra vô cùng
khó khăn, thân người khó được cũng
giống như vậy. Hiện thời, mọi
người đều được thân người,
phải nên quư trọng, v́ được thân người
mới có cơ hội được nghe pháp môn niệm
Phật, mới có cơ hội niệm Phật, mới có
cơ hội được giải thoát.
Tam
đồ chân khả phạ (tam
đồ thật đáng sợ)
Phải biết thân
người khó được nhưng dễ mất,
rất dễ hư hoại. Người Trung Quốc thích
nói lời cát tường, lúc sanh con, ai nấy đều
chúc mừng sống lâu trăm tuổi, nhưng rốt
cuộc có mấy ai sống đến một trăm
tuổi? Tuy ở Đài Loan có, nhưng rất hiếm. Tục
ngữ nói: “Diêm Vương
bắt bạn canh ba chết, bạn chẳng ở lại
được đến sáng mai”. Trong kinh kể
chuyện đức Phật hỏi đệ tử: “Mạng
người dài bao lâu?” Có đệ tử trả lời: “Mạng người trong hơi
thở”. Đức Phật nói: “Đúng lắm”. Hơi này
thở ra, chưa chắc đă hít vào được,
đúng là như vậy! Ai cũng không dám bảo
đảm quư vị sẽ sống được bao lâu?
Thân người mất rồi th́ sao? Mọi người
hăy lắng nghe, muốn được thân người
trở lại vô cùng khó khăn, không lấy được
thân người trở lại th́ phải đi về
đâu? Biến thành súc sanh, biến thành ngạ quỷ,
đọa địa ngục. Đến ba cơi ấy, thọ
mạng dài vô cùng. Địa ngục có tám vạn bốn
ngàn năm, thời gian chịu khổ dài đăng
đẳng, nếu sanh về đó, sự khổ không có ai
chịu nổi. Nói cho các quư vị biết: Nếu chẳng
dụng công niệm Phật, chớp mắt sẽ vào tam
đồ, tam đồ rất đáng sợ!
Cực
Lạc nhân nhân khứ (Cực
Lạc người người đến)
Niệm Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới có dễ hay
không? Trong kinh đă nói: “Vạn
người tu, vạn người đến”, ai
niệm đến nhất tâm bất loạn đều
đến được, chẳng phải rất dễ
hay sao? Nhưng phải ngay trong đời này, đời
này đi không được th́ sẽ đọa vào tam
đồ, thế là rồi đời! Hoàn toàn trong
đời này, đến thế giới Cực Lạc bèn
vĩnh viễn chẳng sanh chẳng diệt.
Tam
độc tâm phóng hạ (Buông
xuống tâm tam độc)
Đi đến thế giới Cực
Lạc là tâm đi, tâm trống trơn thanh tịnh th́
mới tương ứng với A Di Đà Phật. Tâm không
sạch, không tịnh giống như soi gương, tuy
gương sáng nhưng bị vật che đậy nên không
chiếu được (tức là không cảm ứng). Tam Độc
là tham, sân, si. Người có tâm tham vừa nh́n vật ǵ
liền muốn chiếm giữ, Tây Phương Cực
Lạc thế giới đều do thất bảo trang
nghiêm làm thành mà họ lại chẳng muốn. Chỉ
thấy trước mắt, chỉ tham vật ở
trước mắt. Phải mở rộng tầm mắt,
tâm tham luyến Sa Bà phải buông xuống hết. Tâm sân
hận độc hại nhất, người nào có
lỗi với ḿnh? Cớ sao họ có lỗi với quư
vị? Nếu họ không có lỗi với quư vị th́ quư
vị đă văng sanh rồi phải không? Họ càng có
lỗi với quư vị th́ càng tốt. Có lỗi với quư
vị th́ quư vị sẽ tránh
xa họ, ít bận tâm hơn, quư vị tu phần của chính
ḿnh mà thôi. Si là ngu si, tà tri, tà kiến. Nói nhân quả th́ quư
vị chẳng chịu nghe, chỉ thấy danh lợi,
chỉ thấy thị phi, những thứ này làm cho quư
vị chẳng cảm ứng với A Di Đà Phật.
Niệm Phật nhất định phải buông xả
hết thảy tam độc tham, sân, si. Buông xả th́ tâm
được thong dong, tự tại, cảm ứng
đạo giao, mới về thế giới Cực
Lạc được.
Niệm
Phật bất cải tâm,
Đẳng
như thuyết không ngữ
(Niệm Phật mà chẳng sửa
tâm,
Khác nào chỉ nói suông).
Hai câu này hợp chung lại,
mọi người lúc b́nh thường chẳng chuyên tâm
niệm Phật, đến đạo tràng này vẫn nói
chuyện thị phi, vẫn lộn xộn; đạo tràng
là nơi để quư vị cầu đắc nhất tâm.
Nếu ở đây cũng chẳng nhất tâm niệm
Phật th́ ở nhà khỏi nói cũng biết rồi.
Bởi vậy, “niệm
Phật chẳng sửa tâm, khác nào chỉ nói suông”. Nếu
chẳng sửa tâm, miệng niệm A Di Đà Phật, A Di Đà
Phật là lừa dối Phật, có ích ǵ đâu? Như
vậy cũng giống như nói suông mà thôi!
Tâm
khẩu nhược tương ưng
Lập
kiến Phật Bồ Tát
(Nếu tâm miệng tương
ứng,
Liền thấy Phật, Bồ
Tát).
Nếu tâm và khẩu
tương ứng th́ cũng giống như phóng điện
đến A Di Đà Phật, cảm ứng cũng như phóng
điện, tâm và khẩu tương ứng măi, sẽ thấy
Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát từ Tây
Phương Cực Lạc thế giới đến
tiếp dẫn, chuyện này ai cũng biết. Nếu quư
vị không đến được là v́ quư vị chẳng
biết đường. Khi Phật đến tiếp
dẫn, quư vị chẳng đi được, Phật
ở ngay trước mắt nhưng quư vị bị tham -
sân - si che đậy, chẳng thể truyền điện
đến Phật. Nếu có thể buông tam độc xuống,
tâm và khẩu tương ứng, quư vị sẽ lập
tức thấy Phật, Bồ Tát.
Niệm Phật rất quan
trọng, bây giờ mọi người hăy buông xả
hết những tâm niệm lăng xăng, lộn xộn.
Một câu Di Đà cứ niệm riết không ngừng!
Nguyện
đem công đức này,
Trang
nghiêm Phật Tịnh Độ,
Trên
đền bốn ân trọng,
Dưới
cứu khổ tam đồ.
Nếu
có ai thấy nghe,
Đều
phát Bồ Đề tâm,
Hết
một báo thân này,
Văng
sanh cơi Cực Lạc.
[1] Ư nói: Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc của Tưởng Giới Thạch thua
mất Hoa Lục vào tay Mao Trạch Đông, phải chạy ra
Đài Loan, nỗ lực xây dựng Đài Loan thành một tiền
đồn Trung Hoa tự do.
[2] Kiền chùy (Ghanta): c̣n gọi là Kiền
Tŕ, Kiền Trĩ, Kiền Để, là các khí cụ dùng
để đánh báo hiệu trong tự viện như
chuông, khánh, linh, bảng, mơ v.v... Ở đây ư nói, chuông,
trống và địa chung dùng để tán Phật và
niệm Phật trong Phật Thất
[3] Tuyết Tăng: Tuyết Tăng là
một trong những biệt hiệu của cụ Lư
Bỉnh Nam.
[4] Đa tài quỷ là loài quỷ ít bị
đói khát trong số các ngoại quỷ, hoặc các
loại đại lực quỷ thần.
[5] Cửu giới: Chín giới bao gồm
nhân, thiên, a tu la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ,
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát.
[6] Môn dư
đại đạo nghĩa là con đường
rộng lớn ở ngoài những con đường khác.
[7] Thế giới Cực Lạc do nguyện lực, do tự tánh thanh
tịnh lưu lộ thành cảnh giới tương
ứng với tâm thanh tịnh chứ không phải do
nghiệp lực của chúng sanh cảm thành như uế
độ nên gọi là không có nhân mà có quả
[8] Hàm nghĩa: Khổng Tử xử
sự không dựa theo ư kiến ức đoán, không
độc đoán mọi chuyện phải làm theo ư ḿnh,
mọi chuyện xử sự linh hoạt, không chết
cứng, không coi ta là nhất, ai cũng không bằng ḿnh. Đây là một câu nói trong thiên Khổng
Tử Thế Gia của Sử Kư nhằm khen ngợi
đức hạnh của Ngài.
[9] Thất
khiếu chính là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và
miệng
[10] Thánh Ngôn
Lượng là dùng lời dạy của chư Phật,
Bồ Tát, thánh tăng để khảo chứng, biện
định sự việc. Chẳng hạn như khi tu quán
Phật theo Quán Kinh, nếu thấy những cảnh
được hiện trong khi quán thân Phật không phù
hợp với những điều được Quán Kinh
mô tả th́ biết là cảnh ấy là do ma hiện.
[11] 1.
Hiện Lượng là sự nhận biết bằng
trực giác, tức là khi các căn tiếp xúc cảnh
giới, tâm thức nhận biết sự vật, thấu
hiểu đúng như lư. Cái nhận biết đó không
bị cong vạy bởi lăng kính ư thức, phân biệt,
chấp trước.
2. Tỷ Lượng:
Do so sánh mà nhận biết, chẳng hạn như nh́n
đằng xa có khói bốc lên biết chỗ đó có
lửa. Nghe tiếng nói cách tường biết bên ngoài có
người v.v...
3. Thánh Ngôn Lượng: Phán định
sự việc dựa theo giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, chư Tổ.
[12] Tức là khi niệm Phật phải nhận biết chính ḿnh là Phật; nói là “gánh vác” v́ dám trực tiếp chấp nhận chính ḿnh là Phật, dám đảm đương sự nghiệp của chư Phật. Nói cách khác, đây là Tín Tự như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải đă nói.