Ḥa Thượng Tịnh
Không giảng tại Dallas, 1996
Ngô Chân Độ ghi chép lại.
Kính thưa chư vị
đồng tu,
Trong buổi giảng kinh ở Los Angeles và
San Jose có rất nhiều vị đồng tu lại gặp
tôi và nói đến chuyện công phu tu học không được
đắc lực, chúng ta không thể gặt hái được
những công đức và lợi ích thù thắng mà đức
Phật nói trong kinh. Nguyên nhân
chánh là ở chỗ nào? Lần
này tuy thời gian chúng ta tựu hội rất ngắn
nhưng tôi nghĩ trong ba ngày hôm nay chúng ta nên thảo luận
về vấn đề này.
A. TẠI SAO CHÚNG TA TU
THEO PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ?
Mục
đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật
Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử
luân hồi, ra khỏi tam giới.
Đây là một vấn đề trọng đại, là
“một đại sự nhân duyên” mà Phật nói trong kinh
Pháp Hoa; trong rất nhiều kinh luận Đại thừa
không kể là trên lư luận hoặc phương pháp đức
Thế tôn không có chỗ nào không lấy đó làm mục tiêu
tối hậu.
Nhưng Phật
pháp truyền đến ngày nay, y cứ theo cách ghi chép của
người Trung quốc đă trải qua ba ngàn năm, và
theo cách tính của các nước khác th́ cũng trên hai ngàn
năm trăm năm. Pháp truyền
qua thời gian dài như thế sẽ không tránh khỏi sanh
ra tệ đoan. Hiện nay là
thời mạt pháp, hai ngàn năm trăm năm sau khi đức
Phật Thích Ca diệt độ, căn tánh của chúng
sanh trong thời đại này dĩ nhiên không giống với
thời xưa v́ vậy có rất nhiều kinh luận và
pháp môn không phải là không tốt nhưng người hiện
đại chúng ta tu học không được, thực
hành không được.
Y cứ theo
lư luận và nguyên tắc của kinh điển đại
thừa, không kể là tu học pháp môn nào, Hiển Giáo, Mật
Giáo, Thiền Tông, hay Giáo Hạ cũng vậy, tất cả
đều phải đoạn dứt kiến tư phiền
năo mới có thể liễu thoát sanh tử. Cái ǵ là kiến tư phiền
năo? Nói một cách đơn giản
‘kiến’ là kiến giải sai lầm, cái nh́n không đúng
đối với vũ trụ nhân sanh, đó gọi là ‘kiến
phiền năo’. ‘Tư’ chỉ
tư tưởng sai lầm và cách suy nghĩ không chính
xác. Phạm vi của ‘kiến
tư’ quá rộng quá lớn.
Trong kinh luận
đức Phật đem vô lượng kiến tư phiền
năo quy nạp vô mười loại, đây là v́ để
thuận tiện thuyết pháp.
Nói thiệt ra người hiện đại chúng ta
không thể đoạn dứt được bất cứ
thứ nào trong mười thứ kiến tư phiền
năo này; một thứ cũng đoạn không nổi, huống
chi là mười thứ! Nếu
đoạn không nổi phiền năo th́ tu học cả
đời cũng không thể thành tựu. Đây không phải là khuyết điểm
của một vài người mà là căn bịnh chung của
mọi người hiện nay.
Chúng ta thấy
trong quyển ‘Niệm Phật Luận’ của Đàm Hư
đại sư, ngài nói cả đời ngài gặp
được hoặc nghe đến những người
tham thiền đến mức đắc được
Thiền định đă là rất ít, c̣n người tham
thiền đến khai ngộ th́ không những một
đời chưa gặp, mà nghe cũng không nghe đến. Ở đây chỉ nêu lên một
thí dụ để nói mà thôi.
Nếu tham
thiền mà không thể đại triệt đại ngộ
và minh tâm kiến tánh th́ không kể là thành công; công phu đắc
được thiền định có sâu có cạn, công phu
cạn th́ sanh đến cơi trời Sơ Thiền, Nhị
Thiền; công phu sâu th́ sanh đến cơi trời Tam Thiền,
Tứ Thiền. Cơi trời Tứ
Thiền và Tứ Không cũng chưa thoát khỏi Thiên đạo,
huống hồ những người đắc được
thiền định th́ hiếm như ‘lông phụng sừng
lân’ vậy. Điều này nói rơ
chúng sanh trong thời mạt pháp phiền năo tập khí quá nặng,
lại c̣n thêm hoàn cảnh ngoại duyên không thiện. Cái ǵ ‘không thiện’? Danh, văn, lợi, dưỡng,
tài, sắc, danh, thực, và thùy (danh, văn, lợi, dưỡng,
tiền tài, sắc đẹp, tiếng tăm, thức
ăn ngon, và ngủ nghỉ) đều đang mê hoặc,
dụ dỗ; bên trong có phiền năo, bên ngoài có mê hoặc, bạn
làm sao có thể thành tựu được?
Huống chi
trong lúc tu học, những đại đức hồi
xưa có nhắc đến chuyện ‘không lăo thật’
(không thiệt t́nh không thật thà), phân lượng của
câu này rất nặng, rất nặng, ư nghĩa rất sâu
rộng. Chúng ta nghe xong không
màng tới chỉ cười trừ rồi thôi, không coi trọng
mà không hiểu được câu này đă nói trúng phóc yếu
điểm của chúng ta.
Tại sao
không thiệt thà? Không tránh khỏi
hai nguyên nhân, nếu nói theo kinh Phật th́ là thiện căn
mỏng, không có phước báo.
Nếu dùng ngôn ngữ của người hiện
đại mà nói là:
a. Chúng ta chưa hiểu
rơ hoàn toàn nghĩa lư trong kinh điển.
b. Chúng ta chưa nếm
đủ chuyện khổ và vị đắng cay trong thế
gian!
Cho nên tu học
không thành thật và làm hỏng chuyện thoát ly sanh tử trọng
đại của đời ḿnh.
Như vậy
làm thế nào để có thể đạt được
sự lợi ích thù thắng của Phật pháp? Tu học như thế nào th́
đời này chúng ta mới có thành tựu? Đây đều là sự mong mỏi
của mỗi vị đồng tu. Nếu chúng ta có nguyện vọng
như vậy, tâm nguyện này có thiệt là rất thiết
tha không? Nếu thiệt
đúng là có sự nhận thức như vậy, thiệt
là có tâm nguyện thiết tha như vậy, th́ trong kinh Phật
gọi là ‘người giác ngộ’.
Người này thiệt đă giác ngộ!
Nếu chúng
ta c̣n say đắm mơ mộng trong sanh tử, qua
được ngày nào hay ngày đó, lấy tâm trạng này
đi học Phật, vẫn trong vô minh mê hoặc như cũ
mà không tỉnh thức (giác ngộ), tu học công phu như
vậy làm sao có thể đắc lực được?
Những
năm gần đây quư vị nghe giảng kinh, hoặc
đă nghe được từ băng video, hoặc có một
số viết thành sách các vị đă đọc qua, chúng
ta phải bắt đầu từ chỗ nào? Nhất định phải từ
‘Tam phước, Lục ḥa’. Lục
ḥa không phải chỉ dành
riêng cho đạo tràng của các vị xuất gia; nếu
Lục ḥa chuyên dành cho đạo tràng của các vị xuất
gia vậy th́ các vị tại gia làm sao có thể thành tựu
được?
Chúng ta phải
hiểu Lục ḥa không phân biệt xuất gia và tại gia,
cho nên nói Phật pháp là pháp b́nh đẳng. Đặc biệt là pháp môn Tịnh Độ,
đức Phật A Di Đà đại từ đại bi có
thể làm cho chúng sanh trong chín pháp giới đều b́nh
đẳng thành Phật, trong thời mạt pháp muốn
thành tựu được th́ chỉ có pháp môn này thôi.
Trong số
những người niệm Phật có người đứng
văng sanh, có người ngồi văng sanh, biết trước
ngày giờ ra đi, không có bịnh khổ, chúng ta đều
có chứng kiến tận mắt hoặc đă nghe nói
đến. Pháp môn này
được gọi là ‘Dị hành đạo’ (đạo
dễ thực hành). Cơ sở
căn bản tu học của pháp môn này cũng chỉ là
‘Tam phước, Lục ḥa’.
Tôi nghĩ chúng ta ai cũng biết đến Tam
phước, Lục ḥa, ai cũng có thể nói được,
nhưng đă làm được chưa? Chưa làm được th́ không
có ích lợi ǵ hết.
Mấy tuần trước tôi ở
Los Angeles thuyết giảng, có một vị đồng tu
lại nói với tôi là ông có ‘tŕ’ kinh.
Tôi hỏi: “Ông tŕ kinh
ǵ?”
Ông nói: “Con tŕ kinh ‘Vô Lượng Thọ’
đă được ba ngàn biến (lần).”
Tôi trả lời: “Ông không có tŕ kinh.”
Ổng hỏi: “Như vậy nghĩa là sao? Con mỗi ngày đều có đọc
tụng mà.”
Tôi nói: “Ông chỉ đọc kinh, ông
đọc qua ba ngàn lần, ông không có ‘tŕ’.”
Ổng hỏi: “Thế nào mới gọi là
‘tŕ’?”
Tôi trả lời:
“ ‘Tŕ’ nghĩa là làm được.
Những việc Phật dạy trong kinh, ông có làm
được chưa? Nếu
ông chưa làm được th́ gọi là ‘đọc kinh’,
cho đến ‘niệm kinh’ cũng không có niệm. ‘Niệm’ là ǵ? Trong tâm ông thiệt có; miệng có đọc mà trong tâm
ông không có, phải không?”
Ông nói: “Dạ đúng”.
Miệng
đọc mà tâm không thiệt có th́ gọi là đọc
kinh, ‘niệm kinh’ c̣n không có niệm th́ làm sao có thể nói
‘tŕ kinh’ được?
“Tôi cử ra
một câu nói trong kinh: ‘Thiện hộ khẩu nghiệp,
bất cơ tha quá’ (Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng
chế giễu và bàn chuyện quấy của người
khác) ông có làm không?”
Ông cũng rất
thiệt thà, lắc đầu và nói: “Con làm không được”. Làm không được th́ bạn
không có ‘tŕ’ kinh. Trong kinh luận
Đại thừa đức Phật nói với chúng ta: ‘Thọ
tŕ đọc tụng, diễn thuyết cho người
khác biết’. Thọ tŕ
được đặt ở hàng đầu. Bạn đă hiểu những lư
luận đức Phật dạy và đă biết
phương pháp tu hành, bạn có thể đem lư luận
phương pháp đi thực hành được hoàn toàn
trong đời sống hàng ngày, đó mới gọi là ‘thọ
tŕ’. Cho nên thọ tŕ và đọc
tụng là hai chuyện khác nhau, không thể xem là giống
nhau được.
Tôi dạy những
người mới học Phật, lúc ban đầu phải
đem kinh niệm ba ngàn lần, mục đích để
làm ǵ? Đó là dạy bạn
đem những lời đă dạy trong kinh nhớ thuộc
ḷng, rồi trong đời sống hàng ngày lúc đối xử
với người và tiếp xúc với sự việc phải
hoàn toàn làm theo những lời dạy đó. Như vậy mới gọi là ‘thọ
tŕ’, mới có cảm ứng.
Giả sử bạn không làm theo rồi nói với tôi,
tôi tin không? Tôi tin. Tại sao tôi tin? Sự cảm ứng của bạn
được không phải từ chư Phật Bồ
Tát, mà là cảm ứng của
yêu ma quỷ quái, thiệt là có cảm ứng! Yêu ma quỷ quái gia tŕ bạn, giúp
cho bạn tăng trưởng thêm tham sân si, giúp cho bạn
tạo thêm ác nghiệp, giúp cho bạn đi đọa
địa ngục A Tỳ mau hơn.
Trong kinh
Lăng Nghiêm đoạn sau chót đức Thế Tôn nói
người học Phật có năm mươi thứ ấm
ma; ma sẽ gia tŕ (phá khuấy), chúng ta không thể coi thường
oai thần sức mạnh của ma. Nếu tâm bạn chánh trực,
hành vi ngay thẳng th́ sẽ ‘cảm ứng đạo giao’
với Phật Bồ Tát. Nếu
tâm và hành vi tà vạy th́ sẽ ‘cảm ứng đạo
giao’ với yêu ma quỷ quái.
Xă hội
ngày nay rất phức tạp, t́nh h́nh trong lục đạo
so với chúng ta c̣n phức tạp hơn. Một người trong thời
đại này muốn liễu sanh tử ra khỏi tam giới
đích thật là không dễ, nhưng cũng không thể
xem là quá khó. Xem là quá khó th́ cũng
sai lầm. Đích thật là có
phương pháp, có con đường dẫn đến,
nhứt định phải tuân theo lời dạy của
đức Phật và y theo đó mà thực hành.
B. TAM
PHƯỚC:
1. Hiếu dưỡng phụ mẫu. Phụng
sự sư trưởng. Từ tâm không sát hại sinh vật.
Tu thập thiện nghiệp.
Phước thứ nhất trong
tam phước là hiếu dưỡng cha mẹ. Chúng ta đă nói rất nhiều lần
rồi. Chúng ta không niệm thuộc
ḷng kinh, nghĩa của kinh lờ mờ không rơ, tâm hạnh
trái ngược với lời dạy trong kinh, phải nên
biết đây là tội bất hiếu rất nặng, rất
không kính trọng.
Phụng sự
thầy giáo. Ông thầy đệ
nhất của chúng ta, những người học Phật,
là ‘Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật’. Bổn sư dạy chúng ta học
theo A Di Đà Phật, cho nên A Di Đà Phật cũng là ‘Bổn
sư’ của chúng ta. Trong
đời sống hàng ngày chúng ta khởi tâm động niệm
ǵ, tâm đó có giống tâm của Phật không? Niệm đó có giống niệm
của Phật không? Tâm của
Phật ra sao, niệm của Phật giống ǵ? Những ǵ nói trong kinh Vô Lượng
Thọ và kinh A Di Đà là chân tâm của Phật, là h́nh dáng của
Phật. Chúng ta có thiệt t́nh
t́m hiểu, thiệt t́nh tu hành và làm theo không?
Tu hành là y chiếu
theo tiêu chuẩn của Phật đă nói ra, đem những
sự suy nghĩ, tư tưởng, và cái nh́n sai lầm của
chúng ta trong đời sống hàng ngày sửa đổi cho
đúng trở lại. Đó gọi
là ‘tu hành’. Nếu chúng ta hàng
ngày c̣n giả vờ để làm giống như một
người học Phật mà trên thực tế th́ đang
gạt ḿnh và gạt người, như thế nhất
định sẽ có cảm ứng với ma; Phật sẽ không gia tŕ bạn
mà ngược lại ma sẽ gia tŕ bạn. Dụng ư của ma gia tŕ ở chỗ
nào? Dụng ư ở chỗ muốn
tiêu diệt Phật Pháp, làm chướng ngại Phật
Pháp.
Không những
trong đời này bạn không được tự tại,
không được như ư, tương lai quả báo c̣n
đáng sợ hơn nữa.
Chúng ta có ư thức đến hay không? Chúng ta có cảnh giác đến
hay không? Cho nên tôi khuyến
khích các vị đồng tu cơ duyên của chúng ta thiệt
là vô cùng thù thắng, trong đời này mất đi thân
người mà đọa vào ba đường ác (tam đồ)
th́ rất đáng tiếc, nói khó nghe một chút th́ thiệt
là quá oan uổng.
Cho nên cơ
sở của Phật Pháp, căn bản nhất của các
thứ căn bản là ‘hiếu kính’. Đem hiếu kính triển rộng ra
đến hiếu kính tất cả chúng sanh, đây là Phật
Pháp. Nếu quả nhiên có thể
làm được hiếu kính tất cả chúng sanh, th́ xin
chúc mừng bạn đó, bạn không những vượt
ra khỏi luân hồi, bạn c̣n thoát ra mười pháp giới
luôn. V́ chỉ có Pháp Thân Đại
Sĩ mới có thể hiếu kính tất cả chúng sanh
được một cách chân thật. Kinh Hoa Nghiêm có nói Bồ Tát Viên Giáo
Sơ Trụ trở lên mới làm được. Bởi vậy không thể không
phát tâm; phát tâm rồi phải hết sức nỗ lực
thực hiện, phải làm cho bằng được.
Trong các hành
vi, tội nghiệp nặng nhất là nghiệp sát sanh, cho
nên trọng tâm của các giới luật tổng hợp của
Phật dạy cho chúng ta ‘từ tâm không sát hại sanh vật’. Trong nhà Phật thường nói: ‘Lấy
từ bi làm căn bản, lấy phương tiện làm
đường lối ’.
Phải vun bồi tâm từ bi, tuyệt đối
không được sát hại và không được làm tổn
hại tất cả chúng sanh.
Không có tâm từ bi không thể học Phật; làm năo hại
tất cả chúng sanh nhất định sẽ đem
đến rất nhiều oán thù, những mối oan gia và
chủ nợ liên tục báo đền lẫn nhau không khi
nào dứt được.
Người
thức tỉnh (giác ngộ) tuyệt đối không kết
oán thù với chúng sanh. Người
kết oán thù với chúng sanh đều v́ họ c̣n mê hoặc
điên đảo và bị vô minh phiền năo trói buộc. Mười nghiệp thiện là nền
móng căn bản của hành môn (phương pháp tu hành),
chúng ta phải đem thập thiện nghiệp áp dụng
trong đời sống sanh hoạt thường ngày, noi
theo những tiêu chuẩn dạy trong kinh luận, phải từ
cơ sở này mà bước vào cửa Phật.
2. Thọ tŕ tam quy, cụ túc chúng giới, không phạm
oai nghi.
Bước vào cửa Phật chuyện
đầu tiên phải làm là thọ tŕ tam quy y. Tam quy y là điều Phật dạy
để chúng ta thoát ly lục đạo luân hồi, là mục
tiêu phương hướng dẫn đến bồ đề
(giác ngộ) niết bàn, mục tiêu phương hướng
này được gọi là ‘Tam Bảo’. Tam Bảo gồm có: ‘Giác, Chánh, và
Tịnh’. Trong bất cứ
lúc nào cũng giữ ǵn được cái tâm giác ngộ của
ḿnh, luôn luôn giác mà không mê. Chúng
ta từ trước đến nay mê mà không giác bây giờ
thay đổi ngược lại nên gọi là ‘quay lại’
(hồi quy). Quay ngược lại phải quy y
(nương vào) ‘Giác mà không mê’.
Đức Phật
dạy chúng ta từ trong sự hiểu biết (tri kiến),
sự suy nghĩ, và cái nh́n sai lầm quay ngược lại,
đi theo sự hiểu biết chân chánh (chánh tri chánh kiến). Sự hiểu biết thế nào
mới gọi là chánh? Chư
Phật Bồ Tát tuyệt đối không nói ‘Tri kiến của
ta mới là chánh tri chánh kiến, tri kiến của các vị
đều là tri kiến sai lầm’. Không có Phật Bồ Tát như vậy.
Chư Phật
Bồ Tát nói với chúng ta: ‘Tri kiến tương ứng
với tự tánh là chánh tri chánh kiến, tri kiến đối
nghịch với tự tánh là tà tri tà kiến’. Nói theo cách này th́ chúng ta mới
đồng ư. V́ chúng ta chưa
minh tâm kiến tánh, phải thừa nhận cái nh́n và sự
suy nghĩ của chúng ta c̣n sai lầm, cho nên lúc mới bắt
đầu học không thể không nương nhờ vào Phật. Nhưng Phật nói rất hay, Phật
không dạy chúng ta phải vĩnh viễn nương nhờ
Phật, chỉ nương nhờ vào Phật trong ṿng một
thời gian ngắn, không dạy chúng ta ỷ lại lâu
dài. Phật dạy chúng ta tự
ḿnh phải minh tâm kiến tánh, kiến tánh rồi th́ không cần
ỷ lại Phật nữa.
Nhưng lúc chưa kiến tánh chúng ta không nương
nhờ vào Phật th́ không có phương pháp nào hay hơn nữa.
Minh tâm kiến
tánh đâu có dễ vậy sao?
Phải đoạn phiền năo, phải phá phiền
năo chướng. Phiền năo
làm chướng ngại tự tánh của chúng ta, bạn
c̣n phiền năo th́ tuyệt đối không thể kiến
tánh, phải c̣n học pháp môn.
Học pháp môn phải phá sở tri chướng. Sở tri (sự hiểu biết
của ḿnh) cũng làm chướng ngại tự tánh. Phá trừ hai thứ chướng
ngại này rồi mới minh tâm kiến tánh.
Chuyện này
nói th́ dễ mà làm th́ quá khó. Cho
nên đức Phật dạy những phàm phu đầy dẫy
nghiệp chướng và căn tánh ám độn như
chúng ta phải phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ;
phương pháp này tuyệt diệu quá đi thôi! Có thể tạm thời không cần
đoạn kiến tư phiền năo mà văng sanh Tây
phương Tịnh Độ; cũng không cần tu tập vô
lượng pháp môn, chỉ cần có đầy đủ
tín, nguyện, và hạnh th́ đều có thể văng
sanh. Sanh đến Tây
phương Cực Lạc thế giới thấy
được đức Phật A Di Đà, tu học theo Phật,
rồi mới đoạn phiền năo và học pháp môn,
như vậy chúng ta mới có thể được giải
thoát.
Do đó thọ
tŕ tam quy, chúng ta phải quy y đức Phật A Di Đà, quy y
kinh điển Tịnh Tông.
Kinh điển Tịnh Tông hiện nay chỉ có
năm quyển kinh và một quyển luận. Bạn quy y năm kinh một luận
th́ rất tốt; nếu chê nhiều quá th́ chọn một
thứ (bất kỳ thứ nào cũng được)
trong năm kinh và một luận.
Có người sẽ hỏi, một thứ không phải
là quá ít hay sao? Chúng ta thấy
trong ‘Văng Sanh Luận’ và ‘Tịnh Độ Thánh Hiền Lục’,
từ xưa đến nay có người cho đến một
bộ kinh cũng không biết, trọn đời chỉ
niệm câu ‘A Di Đà Phật’, họ cũng có thể đứng
văng sanh hoặc ngồi mà văng sanh.
Một câu
danh hiệu cũng có thể thành tựu, huống chi là một
bộ kinh?
Điều
này chúng ta ở có thể tin được, giống
như trong kinh Kim Cang có nói ‘Tín tâm bất nghịch’ th́
chúng ta mới có thể thành tựu.
Tăng bảo,
chúng ta quy y Đại Thế Chí và Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong Tịnh Tông, chúng ta quy y Tam Bảo
được thực hiện trên ‘sự tướng’. Đại Thế Chí tượng
trưng cho lư trí, không phải cảm t́nh. Quán Thế Âm tượng trưng
cho từ bi. Cho nên kêu bạn
quy y Tăng là kêu bạn quy y tánh từ bi của lư tánh mà
không phải tánh từ bi của cảm t́nh. Từ bi của cảm t́nh rất
dễ làm hỏng việc. Từ
bi phải dùng lư trí làm cơ sở, như vậy mới gọi
là thọ tŕ tam quy.
Chúng ta có thể
giải thích chữ giới trong ‘Cụ túc chúng giới’ là
những lời răn dạy của đức Phật
trong kinh điển, chúng ta đều phải giữ lấy
và làm theo. Giới không chỉ
là một vài giới điều nhất định, nếu
bạn coi những lời răn dạy trong kinh điển
một cách kỹ lưỡng, những giới điều
này đều bao gồm ở trong đó chứ không thiếu
sót. Lại từ trong cơ sở
này khế nhập vào pháp môn của Bồ Tát.
Pháp thứ
nhất của Bồ Tát là phát tâm rộng lớn, phát tâm Bồ
Đề. Muốn văng sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới các vị đồng
tu phải ghi nhớ kỹ càng, điều kiện văng
sanh mà Phật nói trong kinh có ‘hai câu tám chữ’. Trong phẩm Ba Bậc Văng Sanh của
kinh Vô Lượng Thọ, không kể là bậc Thượng,
bậc Trung, hoặc bậc Hạ đều giống nhau ở
chỗ ‘PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, NHẤT HƯỚNG
CHUYÊN NIỆM’.
Cái ǵ là Bồ
Đề tâm? Đó là tâm muốn
độ chúng sanh, ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’;
nếu bạn c̣n chán ghét một chúng sanh, bạn c̣n thù oán
chúng sanh đó, th́ bạn có thể đến Tây
phương Cực Lạc thế giới không? Nói cho chư vị biết: ‘Không
thể đến được’.
Đừng nói một ngày niệm đến mười
vạn câu Phật hiệu, niệm một triệu danh hiệu
Phật, bạn cũng không văng sanh được. Tại sao vậy? Bạn không có Bồ Đề tâm,
điều này không thể không chú ư!
Lúc trước
thầy Lư thường nói người đời nay niệm
Phật, một vạn người niệm Phật chỉ
có hai ba người văng sanh.
Không phải họ không tinh tấn, xâu chuỗi niệm
Phật không bao giờ rời khỏi tay hết, miệng
suốt ngày niệm ‘A Di Đà Phật’, ‘A Di Đà Phật’ không ngừng. Tại sao họ không thể văng
sanh? V́ họ không có Bồ Đề
tâm, không phù hợp tiêu chuẩn để văng sanh! ‘Nhất hướng chuyên niệm’
họ làm được, nhưng ‘phát Bồ Đề tâm’ họ
chưa làm được th́ không thể văng sanh!
Hôm qua Quán
trưởng có nói chuyện với chúng tôi về Khổng
Lăo Phu Tử; đức học của ngài Khổng Tử
có từng giai đoạn, từng giai đoạn thật
rơ ràng, đây là gương tốt cho chúng ta noi theo. ‘Tam thập nhi lập’, ba mươi tuổi mới lập,
lập ǵ vậy? Lập chí
hướng. Nhà Nho nói ‘lập
chí’ là giống chúng ta nói ‘phát tâm’ trong nhà Phật. Đức Khổng Tử lập chí
là lập chí học tập, cả đời dồn sức
vào sự học vấn. Chúng
ta hôm nay lập chí phổ độ chúng sanh, chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ, chí chúng ta lập là chí này. Tứ hoằng thệ nguyện
là lập chí, chúng ta thiệt đă lập chưa?
Nhà Nho nói nếu
không lập chí th́ không có thành tựu ǵ có thể đề
cập đến, tại sao vậy? Bạn không có phương hướng,
không có mục tiêu, cho dù nỗ lực thêm nữa cũng sẽ
không có kết quả. Pháp xuất
thế gian so với pháp thế gian c̣n phải nghiêm khắc
hơn nhiều, nếu bạn không phát tâm th́ làm sao
được? Cho nên thứ
nhất phải phát nguyện, phát Bồ Đề tâm tức
là phát đại nguyện. Quá
tŕnh học tập của đức Khổng Tử
đáng làm gương cho chúng ta noi theo.
‘Tứ thập
nhi bất hoặc’ nghĩa là bốn mươi tuổi
không c̣n bị mê hoặc nữa.
Không bị mê hoặc là không bị cảnh giới bên
ngoài lôi cuốn, thu hút, mê hoặc nữa. ‘Ngũ thập nhi tri thiên mạng’
nghĩa là năm mươi tuổi th́ hiểu rơ nhân duyên
quả báo. Biết được
tất cả chúng sanh không ai là không do nhân duyên quả báo tuần
hoàn nối tiếp nhau mà tạo nên những hiện tượng
như vậy.
‘Lục thập
nhi nhĩ thuận’. Sáu chục
tuổi tâm an định rồi, tâm thanh tịnh hiện
ra. Kinh Kim Cang có nói: ‘Tín tâm
thanh tịnh tắc sanh thật tướng’. Trí huệ chân thật hiện
ra. Thiền tông Lục Tổ
đại sư trong Pháp Bảo Đàn Kinh có nói ‘Nhược
chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá’ (Nếu
là người tu đạo chân thật th́ không thấy lỗi
lầm của người khác trong thế gian). Nhĩ thuận là không thấy sự
lỗi lầm của người trong thế gian. Trong kinh Hoa Nghiêm Thiện Tài đồng
tử trong năm mươi ba lần tham vấn cũng
không ‘kiến thế gian quá’, đó cũng là cảnh giới
của ‘nhĩ thuận’.
Đến bảy
mươi tuổi công phu thành tựu rồi tâm phải
như thế nào? ‘Tùy tâm sở
dục nhi bất du củ’ (tạm dịch: Tùy sự
ưa thích trong tâm tất cả đều được
nhưng không vượt quá khuôn phép, quy củ). ‘Củ’ là ǵ? Đối với pháp tánh hoàn toàn
tương ứng gọi là ‘củ’, tuyệt đối
không trái ngược với pháp tánh. Tùy tâm đều được
nhưng những thứ này tự nhiên hợp t́nh, hợp
lư, và hợp pháp. Điều này
thiệt là tuyệt diệu!
Chúng ta trong nhà Phật gọi điều này là ‘đại
tự tại’. Đời sống
tự tại, công việc tự tại, đối xử
với người, với sự vật cũng đều
tự tại. Đây là chỗ
chúng ta thường nói ‘lợi ích chân thật’, ‘chân thật
thọ dụng’. Ngài Khổng
Tử đă đạt được, người học
Phật nói đúng ra phải đạt được một
cách nhanh chóng và rốt ráo hơn.
3. Phát Bồ Đề tâm, Tin sâu nhân quả, Đọc tụng
Đại thừa, Khuyến tấn hành giả.
Điều cuối
cùng là ‘Tin sâu nhân quả, Đọc tụng Đại thừa’. Hiện tượng y chánh trang
nghiêm trong mười pháp giới là quả báo; quả báo rất phức tạp,
nếu nói đến tŕnh độ phức tạp th́ sự
phức tạp của nhân phải có tỷ lệ
tương đương với quả. Trong những nhân quả phức tạp
như vậy chúng ta phải cẩn thận để ư, thời
thời khắc khắc luôn luôn cảnh giác tuyệt đối
không tạo ra nhân ác.
Lúc ban đầu
khi tôi tiếp xúc tới Phật pháp, chỗ khâm phục
đức Phật nhất là ngài chỉ dạy bạn tự
lo cho ḿnh [nh́n lỗi của ḿnh], mà không dạy bạn nh́n
[lỗi] người khác. Chỗ
này chúng ta khâm phục đến sát đất, những
giáo giới mà đức Phật dạy đều nhằm
răn dạy một cá nhân của ḿnh mà không dạy người
khác. Nếu chúng ta không từ
chỗ này đi vào cửa Phật, bạn muốn đạo
nghiệp thành tựu sớm hơn th́ tuyệt đối
không thể nào làm được.
V́ trung tâm của
sự tu học Phật pháp là thiền định và tâm
thanh tịnh.
Nếu bất
cứ lúc nào cũng lo nghĩ đến hoàn cảnh bên
ngoài, phân biệt đến hoàn cảnh bên ngoài, bạn thử
nghĩ coi khi nào bạn mới đắc được
định? Vĩnh viễn
không hy vọng có ngày đắc được.
Nếu bạn
muốn thiệt sự đắc đuợc thiền
định, thành tựu được tâm thanh tịnh, phải
hoàn toàn không theo đuổi sự việc và cảnh giới
bên ngoài, hăy quay vào trong tâm mà dụng công, đây là chỗ cao
siêu của Phật Pháp. Cho nên
Phật Pháp đuợc xưng là ‘Nội Học’, là dạy
bạn không hướng ra bên ngoài mà theo đuổi và t́m cầu. Cảnh giới bên ngoài, khi gặp
cảnh thuận hoặc gặp cảnh nghịch cũng vậy,
gặp người tốt hoặc gặp người xấu
cũng vậy, bạn cũng đừng để ư đến. Chúng ta dùng tâm chân thành để
đối xử với sự việc bên ngoài; cảnh thuận
cảnh nghịch cũng như nhau, người xấu
người tốt cũng như nhau, nhất định
không dùng hai tâm niệm khác nhau.
Bạn có thể dùng một tâm chân thành này để
đối đăi với người th́ người tốt
khen ngợi bạn, người xấu cũng khen ngợi
bạn v́ người xấu được bạn cảm
hóa nên họ sẽ dứt ác tu thiện.
Lục Tổ nói một câu rất
hay: ‘Nếu là người tu đạo chân thật th́
không thấy lỗi lầm của người khác trong thế
gian’. Nếu thường
thấy lỗi lầm của người khác th́ ḿnh sẽ
thất bại. Ngày nay chúng ta
mắc phải một căn bịnh rất trầm trọng,
mỗi ngày từ sáng đến tối đều nh́n thấy
lỗi lầm của người khác nhưng không thấy
lỗi của ḿnh. Đến khi
nào chúng ta có thể không thấy lỗi người khác mà
chỉ thấy lỗi của ḿnh th́ chúng ta sẽ thành
công. Công phu của bạn sẽ
đắc lực, bạn sẽ gặt hái được
sự lợi ích chân thật.
Người
khác làm cái ǵ và làm như thế nào cũng có nhân quả riêng
của họ. Quan trọng là
nhân quả của ḿnh, nhân quả của người khác
chúng ta không thể nhận chịu thay thế cho họ mà cũng
không thể giúp họ thay đổi. Hơn nữa trong thời đại
hiện nay, ai chịu nói lỗi lầm của người
khác? Người xưa cũng
không nói; chúng ta đọc trong
sách Lễ Kư viết hồi thời nhà Hán xem người
nào chịu nói ra lỗi lầm của bạn? Chỉ có hai người, một
là cha mẹ của bạn, hai là thầy giáo của bạn. Họ có trách nhiệm nói ra lỗi
lầm của bạn mà bạn không phản đối lại. Bạn bè nếu nói ra sẽ có sự
xích mích thù hận lẫn nhau rồi sẽ t́m cách trả
thù. Cho nên không ai chịu nói ra
lỗi lầm của người khác hết.
Chư Phật
Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp thường dùng cách nói
khéo mà nhắc nhở, để cho chúng ta nghe rồi suy nghĩ
xem tự ḿnh có phạm lỗi đó hay không. Nếu có th́ mau mau sửa đổi,
đó là ‘nếu có sai th́ sửa đổi, nếu không th́
khuyến khích ngăn ngừa’.
Chư Phật Bồ Tát không chỉ trích lỗi lầm
của chúng ta mà chỉ nói một cách gián tiếp khiến cho
chúng ta tự ḿnh phản tỉnh, tự ḿnh giác ngộ. Tâm của họ là tâm thanh tịnh,
nên những lỗi lầm đề cập trong kinh luận
thực ra là Phật không thấy lỗi lầm của bất
cứ một người nào; đây là sự cao siêu thâm áo
của những phương pháp răn dạy của Phật,
tất cả đều không đánh mất tâm thanh tịnh.
Chúng ta phải
từ những điểm này mà thể hội, mà phản
tỉnh, mà hiểu được ḷng từ bi chân thành của
chư Phật Bồ Tát, vô cùng từ bi; chỉ cần
chúng ta nỗ lực, y theo lời dạy mà tu hành, bạn
có thể không để ư đến hoàn cảnh, tự
nhiên có Phật hộ niệm, thần Hộ pháp sẽ lo
cho bạn; bạn không cần phải lo có người
đến phá hoại hoặc gây ra chướng ngại. Nếu không như vậy th́
người khác chưa đến phá khuấy mà ngược
lại chính bạn đă gây chướng ngại cho
ḿnh. Bạn nghĩ đến
những chuyện này để làm ǵ? Đó chính là vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước phá hoại bạn trước. Đây là lư do tại sao chúng ta
phải nh́n thấu, phải buông xả.
Phải tin
sâu sự hộ niệm của chư Phật; hộ niệm
nghĩa là tất cả chư Phật Như Lai thường
thường tưởng nhớ đến bạn, thường
lo lắng đến bạn.
Đây là sự thật không phải giả. Thiện thần hộ pháp tôn
kính, khâm phục, và ủng hộ bạn. Nếu lúc nào bạn cũng đề
pḥng cái này, đề pḥng chuyện kia, Phật sẽ không
hộ niệm cho bạn nữa, thần Hộ pháp cũng
sẽ không chiếu cố đến bạn nữa. Bạn suy nghĩ xem nên làm như
thế nào, sự thiệt tḥi này rất lớn.
Cho nên hai chữ
‘tin Phật’ không phải dễ.
Tin Phật th́ đâu c̣n những thứ vọng tưởng
này nữa? Đâu c̣n những thứ
âu lo, bồn chồn, nhớ nhung nữa? Tất cả đều dẹp hết,
như vậy mới có thể nhất tâm hướng về
đạo. Đạo ở
đâu vậy? Đạo tức
là sự sanh hoạt thường ngày, tức là ăn
cơm mặc áo. Trong kinh Kim
Cang đoạn mở đầu có viết: ‘Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đắp y, cầm b́nh bát, đi vào thành Xá Vệ
khất thực’. Đó là ‘đạo’. Từ đó mới biết, sự
sanh hoạt hàng ngày không có thay đổi, công việc làm
hàng ngày cũng không thay đổi, tiếp đăi người,
xử lư công việc, tất cả những thứ này
đều tiếp tục b́nh thường.
Chư Phật
Bồ Tát không giống người thường ở chỗ
nào? Người thế gian
trong mọi hoàn cảnh lúc khởi tâm động niệm
đều là phân biệt chấp trước, đi ngược
lại với đạo.
Chư Phật Bồ Tát trong sanh hoạt thường
ngày không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt,
không chấp trước, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ
công đức. Đời sống
của họ tự tại, sự xă giao của họ cũng
tự tại, tất cả đều tự tại và
viên măn.
Đại tự
tại, đại viên măn này đều từ tâm thanh tịnh
sanh ra. Kinh Kim Cang có nói: ‘Tín
tâm thanh tịnh tắc sanh thật tướng’, sanh thật
tướng trí huệ bát nhă;
thật tướng trí huệ bát nhă đă hiện ra,
làm sao không được tự tại chứ? Làm sao không viên măn chứ? Tất cả có được
đều do tâm thanh tịnh.
Cho nên trong mọi
thời mọi chỗ người biết tu đều
luôn luôn trụ ở trong (giữ) tâm thanh tịnh. Đó cũng giống như đoạn
trước có nói đến tam quy: Giác, Chánh, Tịnh. Luôn luôn giác mà không mê, chánh mà không
tà, tịnh mà không nhiễm; niệm Phật như thế cầu
sanh Tịnh Độ, làm sao không văng sanh được chớ?
Những
duyên sự ở thế gian, trong kinh Phật có nói: ‘Khả
đắc vi thế gian sự, bất khả đắc
vi thế gian ư’ (tạm dịch: Có thể làm chuyện
thế gian, nhưng đừng nên có ư tưởng của
thế gian). Hai câu này nói rất
hay, chuyện thế gian có thể làm. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: ‘Lư sự
vô ngại, sự sự vô ngại’. Chướng ngại ở
đâu? Chướng ngại ở
chỗ ‘thế gian ư’. Thế
gian ư là ǵ? Là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, tất cả những thứ
này bạn đừng nên có. Ư
nghĩa của hai câu này rất sâu, rất rộng.
Đức Thế
Tôn thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội. Ngài đă nói những ǵ? Tức là nói những thứ này,
ngàn câu vạn chữ nói không hết; đối với
người, đối với sự việc, đối
với sự vật mà tôi ‘tưởng’ như thế nào,
có ‘tưởng’ như thế nào là sai rồi, tưởng
là đă rơi vào trong ư thức; tưởng ở đây
là vọng tưởng.
Như vậy
th́ bạn sẽ hỏi có người nào mà không có ư tưởng
như vậy? Rất tiếc
là bạn chưa gặp qua, bạn đă gặp toàn là phàm
phu, cho nên bạn đem sự việc này coi rất b́nh
thường.
Tại sao
chư Phật Bồ Tát không có cách suy tưởng như vậy? Chư Phật Bồ Tát biết
được ‘vạn pháp giai không’ (tất cả pháp
đều là không). Trong kinh Kim
Cang có nói ‘Tam tâm bất khả đắc’ (ba thứ tâm
không thể có được).
Năng tưởng (những ǵ có thể tưởng)
được đều là không;
‘Chư pháp duyên sanh, duyên sanh tánh không’ (tạm dịch:
tất cả pháp đều do nhân duyên mà sanh ra, bản tánh
của nhân duyên sanh là không).
Sở tưởng (đối tượng để
tưởng) đều là không.
Như thế họ c̣n tưởng cái ǵ nữa? Không tưởng nữa! Tuy không tưởng nhưng lúc
đối phó giải quyết công việc đều có thể
làm được rất chu đáo. Họ làm sao có thể làm chu
đáo như vậy? Đó là nhờ
trí huệ đă phát sanh.
Chúng ta nêu ra
một thí dụ, các bạn xem những lời Phật nói
trong kinh điển có hay không?
Rất có thứ tự, ư nghĩa rất mạch lạc,
một chút cũng không rối loạn. Không kể là nói lư hay nói sự,
câu nào cũng đều là đạo. Đức Phật có bao giờ khởi
lên một ư tưởng: ‘Hôm nay tôi phải giảng cách nào
đây?’ Không có! Không khởi
tâm, không động niệm, hoàn toàn thuận theo tự
tánh, từ trong tâm tánh tự nhiên tuôn trào ra. Sự việc là như vậy
đó.
Chúng ta khởi
tâm động niệm măi, rốt cục rồi cũng
đều thiếu sót đủ thứ, nói như thế
nào đi nữa cũng không lưu loát bằng người
khác, chữ nghĩa viết làm sao cũng không bóng bảy bằng
người khác. Cho nên học
Phật phải học chỗ không khởi tâm, không động
niệm, không phân biệt, và không chấp trưóc. Tất cả dùng tâm chân thành, tâm
chân thành tự nhiên sẽ sanh ra trí huệ, tự nhiên
được chư Phật gia tŕ. Gia tŕ ở đây nghĩa là
chư Phật hộ niệm lo lắng cho.
Tâm chân thành
là tâm Phật, tâm bạn cùng tâm Phật giống nhau; tứ hoằng thệ nguyện
là giống với nguyện của chư Phật. Tâm nguyện giống nhau, đức
tâm giống nhau, chúng ta thể hội ư nghĩa này
được chưa? Trong
sanh hoạt thường ngày có thể làm được mấy
phần? Đây là lư do tại sao
chúng ta tu hành công phu không được đắc lực,
không thể cải thiện được đời sống
sanh hoạt của chúng ta.
Nguyên nhân là ở chỗ đó!
Phản tỉnh
và kiểm điểm kỹ lại mới biết chúng ta
đă làm sai. Chúng ta hôm nay tùy
thuận theo phiền năo, tùy thuận theo tập khí (thói
quen). Phiền năo là tham, sân, và
si, chúng ta tùy thuận những thứ này. Khi mắt thấy màu sắc, tai
nghe âm thanh, nếu hợp ư th́ khởi tâm tham, khởi tâm ngạo
mạn lên; ngược lại nếu không vừa ư th́ nổi
tâm sân giận lên; tất cả đều là ngu si!
Cho nên bên
ngoài h́nh như có học Phật, nhưng thực ra khi
đối xử với người, tiếp xúc với sự
vật, khi khởi tâm động niệm một tí ǵ cũng
không sửa đổi hết.
Chữ ‘thọ tŕ’ trong kinh Phật dạy, chúng ta
không những không làm được, không những không hiểu
nghĩa của hai chữ này, lại c̣n hiểu sai nữa! Chúng ta cứ tưởng là mỗi
ngày đem kinh ra đọc một lần th́ kể là
đă ‘thọ tŕ’, bạn nói như vậy là sai đến
mức nào rồi!
Nếu muốn
công phu được đắc lực, thật t́nh mà nói,
công phu đắc lực tức là cải thiện đời
sống của chúng ta; không những cải thiện đời
sống chúng ta hiện nay, mà c̣n cải thiện đời
sau nữa; ư nghĩa này rất sâu rộng. Y theo cách sống hiện nay của
chúng ta, dựa trên những ǵ Phật nói trong kinh điển
Đại thừa và Tiểu thừa, khi chúng ta đă mất
thân người, nếu muốn có lại thân người
rất khó, rất khó! Mất thân người rồi sanh
đi đâu? Phần đông
là đọa vào ba đường ác hết.
Làm sao biết
đọa vào ba đường ác?
Chỉ cần nghe người ta thường nói một
câu th́ hiểu ngay, câu nói ǵ vậy?
‘Chết đi làm quỷ!’
Mọi người đều nghĩ chết rồi th́ đi làm quỷ. Chưa bao giờ nghe nói chết
đi trở lại làm người, chỉ nghe nói chết
đi làm quỷ mà thôi.
Phật nói với
chúng ta một chân lư ‘Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng
sanh’ (Tất cả các pháp đều do tâm tưởng sanh
ra). Mọi người nghĩ
là chết đi đều làm quỷ hết; bạn có cái
ư tưởng này, có cách suy nghĩ như vậy, th́ bạn
nhất định sẽ đi làm quỷ. Có được mấy người
nghĩ rằng sau khi chết trở lại làm người
hoặc là sanh lên trời, thành Phật thành Bồ Tát; cách
nói này rất ít khi nào nghe đến! Luôn luôn nghe nói chết đi làm quỷ
thôi. Chúng ta đừng tưởng
câu nói này rất b́nh thường chưa chắc là
đúng. Thật ra câu nói này rất
đúng và rất b́nh thường.
Tất cả
các pháp đều do tâm tưởng sanh ra. Kinh Hoa Nghiêm có nói: ‘Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến’ (tạm dịch: Từ
tâm hiện ra, từ thức biến ra). Đây cũng giải thích rơ lời của
Phật nói rằng người chết đi rồi muốn
được thân người trở lại rất
khó. Hơn nữa phải y
theo nguyên tắc trong kinh Phật nói, đời sau muốn
được thân người trở lại nhất
định phải làm tṛn năm giới. Năm giới cũng giống
như ‘ngũ thường’ trong Nho Giáo, nội dung cũng
giống như vậy.
Ngũ
thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là nhân từ, bạn có làm
được không? Đối với
người với vật bạn có nhân từ không?
Nghĩa là
đối với người, với sự việc, bạn
có tận tâm làm hết nghĩa vụ chưa? Tuy có nhận tiền công nhưng
không coi trọng mà nghĩ đó đều là phận sự
công tác của ḿnh, ḿnh phải tận tâm tận lực
đi làm cho đàng hoàng. Đây là
đạo nghĩa, không phải dựa trên tiền công mà
ḿnh nhận được, nếu tiền nhiều th́ làm
nhiều một chút, tiền ít th́ làm xong là được
rồi. Người như vậy
không có nghĩa.
Lễ, giữa
người với người phải dùng lễ để
đối xử với nhau.
Trí là lư trí,
không dùng cảm t́nh để xử sự.
Tín là tín dụng. Trong chữ tín quan trọng nhất
là ‘không gạt ḿnh, không gạt người’. Tự ḿnh gạt ḿnh là làm trái với
lương tâm. Như tục
ngữ thường nói ‘không có lương tâm’. Nếu không có lương tâm th́
làm sao có tín dụng được?
Bên trong th́ làm trái với lương tâm, bên ngoài th́ dùng
trăm phương ngàn kế để gạt người.
Phạm
năm thứ nói trên th́ bạn không được thân
người nữa. Nếu bạn
làm tṛn được năm điều này, tự ḿnh không
hổ thẹn với lương tâm, th́ đời sau sẽ
được thân người trở lại. Chúng ta coi người trong xă hội
hiện nay rồi tự ḿnh xét lại, quan trọng nhất
là phải tự ḿnh phản tỉnh, ḿnh có làm tṛn hết
không? Ḿnh đời sau có
được thân người trở lại hay không? Nếu không có nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín th́ đời sau nhất định phải đọa
vào ba đường ác!
Đoạn
trước có nói phần đông người ta chết rồi
đều đi làm quỷ.
Trong sáu nẻo luân hồi không đi đường
khác mà phải chọn đường ngạ quỷ. V́ có cách nói như vậy nên cũng
có đạo lư của nó. Điều
kiện của đường ngạ quỷ là tâm tham:
tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham nhiều thứ
lắm; chỉ cần tâm tham nặng đều là nghiệp
nhân của đường ngạ quỷ.
Tâm sân giận
và đố kỵ nặng là nghiệp nhân của địa
ngục. Không có trí huệ,
không thể phân biệt chánh và tà, chân và vọng, thiện và
ác là nghiệp nhân của súc sanh.
Tham, sân, và si là nghiệp nhân của ba đường
ác.
Chúng ta phản
tỉnh thử xem chúng ta có tham, sân, si không?
Ư niệm
tham, sân, si này nặng hay không?
Nếu ư niệm
này nặng, bạn phải cẩn thận cảnh giác
đi, tương lai là một màu đen tối! Chúng ta muốn niệm Phật cầu
sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, nhất
định phải diệt trừ tham, sân, si, phải
chuyên cần tu tập ba thứ tư lương là tín, nguyện,
hạnh. Nếu y theo lời dạy
mà tu hành, đời này chúng ta sẽ không bỏ phí qua. Nhân duyên của chúng ta trong đời
này thật là rất thù thắng, có thể gặp
được Phật pháp chân chánh, lại có thể gặp
được pháp môn thù thắng nhất là pháp môn Tịnh
Độ.
Cái duyên này
thiệt là không thể nghĩ bàn; kệ khai kinh có nói ‘Bá
thiên vạn kiếp nan tao ngộ’ (trăm ngàn muôn kiếp cũng
khó gặp được), cư sĩ Bành Tế Thanh có
nói: ‘Vô lượng kiếp lai hy hữu nan phùng chi nhất
nhật’ (một ngày rất hiếm rất khó gặp trong
vô lượng kiếp qua).
Chúng ta hôm nay cố nhiên đă gặp được,
thiện căn phước đức nhân duyên có đầy
đủ rồi, nếu tự ḿnh không thể nắm lấy
cơ hội mà để nó trôi qua, đó thiệt là rất
đáng tiếc!
Hôm nay chúng ta
tiếp tục đàm luận những chướng ngại
trong sự hành tŕ của chúng ta, thiệt t́nh mà nói, Thế
tôn đúng là một người có trí huệ bậc nhất. Giống như những người
trong các tôn giáo khác khen ngợi ‘Thần’ là ‘Không có ǵ không biết,
không có ǵ là không có khả năng làm được’. Sau khi Phật diệt độ
hai ngàn năm trăm năm, những chướng ngại
của chúng sanh đời mạt pháp, Thế tôn năm
xưa trong lúc giảng kinh thuyết pháp đă có nói qua hết,
nếu không có trí huệ siêu việt th́ không thể nói ra
được.
C. CHƯỚNG
NGẠI CỦA HÀNH GIẢ:
Người
hiện nay tạo tội nghiệp có thể nói là rất
phổ biến, tất cả đều đem việc này
coi thành việc thông thường, cho nên riết rồi
không ai để ư và quan tâm đến, mà không biết quả báo rất
đáng sợ. Không kể xuất
gia hay tại gia, có mấy người học Phật
đă thiệt giác ngộ, thiệt hối cải rồi? Trong kinh, Phật cũng nói những
người này rất hiếm, rất ít có, nhưng không thể
nói không có, chỉ nói là rất hiếm mà thôi. Chúng ta tự hỏi ḿnh có phải
là một trong thiểu số những người đức
Phật nói ở trên. Đây là
điều chúng ta nên giác ngộ, nên thức tỉnh, phải
thành thật mà phản tỉnh và kiểm điểm lại.
Lúc đức
Phật c̣n tại thế, đă có một số Bồ Tát
tỏ ra rất ngu xuẩn không có trí huệ, tạo ra rất
nhiều tội nghiệp, cho dù muốn tu hành nhưng
chướng ngại quá nhiều.
Họ có phải thiệt là như vậy không? Chúng ta suy nghĩ xem những việc
đó chưa chắc đă là thiệt. V́ Thế tôn năm xưa xuất
hiện tại thế gian này, có rất nhiều vị cổ
Phật hoặc đại Bồ Tát trở lại giúp
đỡ cho Phật để hoằng pháp độ
sanh. Họ thị hiện
trong chúng Tỳ Kheo, chúng Bồ Tát, và người hộ
pháp, không kể họ có hành vi thuận hoặc nghịch
đều là cố ư làm ra. Tại
sao phải làm như vậy?
V́ muốn dạy cho tất cả chúng sanh, đây thiệt
là đại từ đại bi.
Nếu không
có những sự tiêu biểu (thị hiện) này, rất
nhiều pháp đức Phật không thể nói ra được. V́ đức Phật nói pháp đều
là tùy cơ mà nói; những sự thị hiện của các vị
nói trên đều là thay mặt chúng sanh mà thỉnh pháp. Có người th́ trực tiếp
hỏi, đây gọi là ‘ngôn ngữ thỉnh pháp’; có người
cố ư tạo ra những ác hạnh, để cho Phật
thấy được mà lại khai đạo (dạy)
giáo huấn, đây là dùng thân nghiệp để thỉnh
pháp. Ngoại trừ dùng thân
nghiệp và khẩu nghiệp để thỉnh pháp, ư nghiệp
cũng có thể thỉnh pháp.
Chúng ta cũng thường thấy trong kinh điển
Đại thừa, chúng đệ tử vừa khởi tâm
động niệm, tuy chưa nói ra Phật đă biết
được. Giống
như trong kinh Vô Lượng Thọ, đoạn nói về
vua A Xà Thế, họ dùng ‘niệm’ để thỉnh
pháp. Trong tâm có niệm như vậy,
chưa nói ra Phật đă kể lại nhân duyên của họ
trong đời quá khứ. Do
đây có thể biết thân, ngữ, ư ba nghiệp đều
có thể thỉnh pháp.
Cho nên khi
chúng ta biết được điểm này, chúng ta không thể
dùng tâm khinh mạn để xem xét những mật hạnh
của hàng Tỳ Kheo, Bồ Tát.
Nhất định phải biết họ là v́ đại
từ đại bi thay thế chúng ta để thỉnh
pháp. Những ǵ họ biểu
hiện ra đều là những ư ác, khẩu ác, hành ác của
chúng ta hiện nay. Nếu không
có sự thỉnh cầu của họ th́ sẽ không có sự
giảng dạy của Phật, chúng ta làm sao biết
được là ḿnh đă phạm lỗi lầm? Biết được ḿnh đă
phạm lỗi lầm rất nghiêm trọng?
Chúng ta sơ
lược cử ra một thí dụ trong kinh, chuyện này
chúng ta rất thường nhắc lại trong những buổi
giảng kinh. Tuy thường
nhắc lại nhưng nhiều khi cũng bị mọi
người quên mất. Đó là
tùy tâm vui vẻ của ḿnh hoặc tùy tâm ưa thích của
ḿnh mà chửi mắng, phỉ báng, sỉ nhục người
khác, mà không biết sự đáng sợ của nghiệp tội
này.
Trong kinh, Phật
đă kể lại chuyện của một người xuất
gia lúc Phật c̣n tại thế, chứ không phải thời
mạt pháp hiện giờ.
Người xuất gia này ỷ là ḿnh học rộng,
thường nghe Phật giảng kinh thuyết pháp, nghe nhiều
nên sanh tâm kiêu ngạo cũng giống như người hiện
nay thường nói ‘điều này đáng được
hănh diện’. Lúc Phật c̣n tại
thế, vị này tu học rất tốt, tŕ giới thanh
tịnh, nghe kinh rất nhiều, cho nên rất kiêu ngạo. Kiêu ngạo là phiền năo, bạn
thấy vị này không sanh trí huệ mà lại sanh phiền
năo, vậy là sai rồi.
C̣n một loại
người tu hành, tuy không có tâm kiêu mạn, họ tu khổ
hạnh, muốn ít, biết đủ, điều này rất
quư. Cũng giống như
đời sau này những người [ẩn tu] trong núi,
trong túp lều tranh; so với những người khác những
người tu hành này quả thật thân tâm thanh tịnh
hơn nhiều. Tuy nhiên họ
lại chấp tướng, chấp tướng th́ sai rồi. Trong kinh Kim Cang nói rất hay: ‘Nếu
Bồ Tát có ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng,
thọ giả tướng th́ không phải Bồ Tát’. Phật không thừa nhận
người như vậy là Bồ Tát. Chúng ta nghĩ coi lúc đức Phật
c̣n tại thế đă như vậy huống ǵ là thời
mạt pháp bây giờ, đă hai ngàn năm trăm năm qua
rồi.
Lúc Thế
Tôn c̣n tại thế, có thể nói cả đời đều
dùng để giảng kinh thuyết pháp, ngài thuyết pháp hết 49
năm. Lúc đó khoa học kỹ
thuật c̣n chưa phát triển, cách xa nơi Phật thuyết
pháp th́ không thể nghe pháp, v́ vậy cơ hội nghe pháp
thiệt là rất hiếm hoi.
Cho nên Thế Tôn thường phái những đệ tử
xuất gia và tại gia biết giảng kinh thuyết pháp
đi khắp nơi để thay thế Phật hoằng
pháp lợi sanh. Có thể nói là
những vị này trong lớp học của Phật dạy
đă tốt nghiệp ra trường. Họ có thể giảng kinh, biết
phương pháp tu hành, cũng tu được rất tốt,
cho nên được phái đi khắp nơi để giảng
kinh thuyết pháp.
Trí huệ và
phước đức của đức Phật đều
viên măn đương nhiên sẽ được tất cả
mọi người cung kính. Những
học tṛ của đức Phật được phái
đi giảng kinh đa số cũng được quần
chúng tôn kính, nhưng cũng có một số ít không
được như vậy, mà c̣n bị người ta
khinh khi và phỉ báng nữa.
Chúng ta biết
phiền năo tập khí của chúng sanh trong lục đạo
rất nặng. Những thứ
phiền năo như tham, sân, si, mạn, đố kỵ không
cần học cũng có v́ những thứ này đều là
phiền năo tích lũy từ nhiều đời trước;
khi thấy người khác xuất sắc hơn ḿnh, trong
tâm liền không phục, từ đó liền kiếm mọi
cách đi phá hoại. Những
chuyện như vậy trong đời mạt pháp hiện
nay c̣n nhiều hơn hồi trước rất nhiều,
bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào chúng ta đều
có thể thấy được.
Hoằng pháp
lợi sanh là chuyện tốt.
Tuy nhiên chuyện tốt th́ sẽ gặp nhiều ma
chướng. Ma chướng
là những chuyện rắc rối, tuy làm chuyện tốt
nhưng bạn sẽ gặp rất nhiều chuyện cản
trở, chuyện rắc rối xảy ra. Phật nói thời bấy giờ
có hai vị tỳ kheo được Phật phái đi thuyết
pháp. Nếu pháp sư có đức
hạnh, có biện tài, có thiện xảo, tự nhiên sẽ
được tín chúng ưa chuộng. Pháp duyên của hai vị pháp
sư này rất thù thắng, tín chúng rất đông,
đương nhiên cúng dường cũng rất nhiều. Những vị pháp sư khác nh́n
thấy th́ trong tâm không mấy ǵ vui, sanh tâm đố kỵ
và t́m đủ mọi cách để gây chướng ngại
cho hai vị này. Cho nên họ mới
bịa chuyện nói là hai vị đó phá giới, nói họ
chỉ biết nói mà không biết làm, nói họ đă phạm
bốn trọng giới (bốn giới chính là sát sanh, trộm
cắp, dâm dục, và nói dối).
Có người
đi dèm pha bịa chuyện rồi nói cho người khác
nghe; có người phỉ báng, đi nói xấu hai vị
này khiến cho người nghe sanh tâm hoài nghi, mất ḷng
tin đối với pháp sư.
Từ đó pháp duyên của hai vị này dần dần
giảm bớt, người nghe cũng bớt đi không
ít. Những người đố
kỵ đă đạt được mục đích,
đă thành công trong việc phá hoại và gây chướng ngại
cho hai vị pháp sư kể trên.
Tuy nhiên Phật
nói ác nghiệp của người đố kỵ, phỉ
báng, phá hoại hai vị pháp sư kể trên quá nặng, quả
báo của người đó là đọa địa ngục
A Tỳ sáu triệu năm, sáu triệu năm này là dùng thời
gian của chúng ta mà tính.
Người Trung Quốc có 5000 năm lịch sử,
các vị thử nghĩ xem 5000 năm chỉ là một nửa
của một vạn năm.
Thời gian đọa địa ngục của
người đó là gấp 1200 lần nhiều hơn 5000
năm của lịch sử Trung Quốc.
Sau sáu triệu
năm trong địa ngục A Tỳ hết rồi, tội
của người đó cũng chưa tiêu hết, tội
nặng báo hết nhưng c̣n tội nhẹ c̣n lại, cho
nên chuyển đến địa ngục Đẳng Hoạt
chịu tội thêm 4 triệu năm nữa. Sau đó sanh đến địa
ngục Hắc Thằng chịu 2 triệu năm. Tiếp theo lại chuyển đến
địa ngục Thiêu Nhiệt (sự trừng phạt ở
đây nhẹ hơn) chịu thêm 6 triệu năm. Tổng cộng là 18 triệu
năm. Câu chuyện này là do Phật
thuật lại. Kinh Kim Cang có
nói: ‘Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ
giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả,
bất dị ngữ giả’ (tạm dịch: Như Lai là
người nói lời chân thật, lời đúng như thế,
người không nói lời lừa gạt, không nói lời
khác biệt). Phật tuyệt
đối không nói một lời giả dối.
Chúng ta thử
nghĩ coi tạo những thứ nghiệp này rất dễ
dàng, tại sao lại mắc phải tội nặng
như vậy? Điều này thiệt
làm cho chúng ta suy nghĩ không ra, h́nh như chịu tội
như vậy là quá nặng, không hợp lư tí nào. Thật ra nếu chư vị
đọc kỹ giới kinh th́ sẽ hiểu, trong Phật
pháp sự định tội không phải do một người
nào đó đặt ra, không như trong thế gian có pháp luật,
có quan ṭa xử án; trong Phật pháp không có, chư Phật Bồ
Tát không làm quan ṭa, không làm thẩm phán; trong Phật pháp không
giống như pháp luật trong thế gian, không có định
ra phải trừng phạt tội nhân như thế nào;
chư Phật Bồ Tát đều rất từ bi.
Nếu thế
th́ tại sao lại có những thứ nghiệp tội
như vậy? Tội này
được gọi là ‘tánh tội’, thật là tự làm
tự chịu. Địa ngục
ở đâu? Địa ngục
là tội báo của người ta tự nhiên biến hiện
ra chứ không phải có ai tạo ra một cái địa
ngục để cho người ta vào chịu tội. Chư Phật Bồ Tát không làm những
chuyện như vậy, chư thiên, quỷ, thần cũng
không làm những chuyện này, Diêm La Vương cũng không
làm những chuyện này.
Lăo cư sĩ
Châu Kính Trụ có thuật lại một câu chuyện và sau
này cũng có viết trong một quyển sách, h́nh như tựa
là ‘Bát Đại Nhân Giác Kinh Giảng Kư’. Nội dung của câu chuyện nói
đến nhạc phụ của ông là ông Chương Thái
Diệm. Ông Chương giữ
chức ‘Quốc Học Đại Sư’ vào thời Dân quốc
và trước đó đă làm ‘phán quan cho Đông Nhạc Đại
Đế’. Đông Nhạc Đại
Đế (vua Đông Nhạc) là Đại Quỷ Vương, quyền
lực của ông vua này chỉ thua Diêm La Vương một
bậc. Chức phán quan cũng
tương tợ như chức bí thư trưởng hiện
nay, địa vị này cũng rất cao. Ông Chương là người học
Phật, nghe nói trong địa ngục có h́nh phạt gọi
là ‘bào lạc’, ‘bào lạc’ là đem cột sắt đốt
đỏ rực lên rồi bắt tội nhân đi ôm cột
sắt nóng đó. Ông
Chương nói h́nh phạt này quá tàn nhẫn và đề
nghị Quỷ Vương Đông Nhạc nên bải bỏ
h́nh phạt này.
Đông Nhạc
Đại đế không trả lời, mỉm cười
và sai hai chú tiểu quỷ dẫn ông Chương đi
đến chỗ tội nhân bị hành h́nh để xem;
hai chú tiểu quỷ này bèn dẫn ông Chương đi một
nơi rất xa rồi chỉ về một phía và nói: “Ở
phía trước ḱa”. Nhưng
ông lại nh́n không thấy ǵ hết; từ đó ông mới
hiểu h́nh phạt đó không phải do người nào lập
nên mà từ trong tự tánh biến hiện ra, chuyện này
hoàn toàn phù hợp với những ǵ nói trong Kinh Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện.
Trong kinh nói
địa ngục chỉ có hai loại người có thể
thấy được, một là người tạo tội
đi chịu trừng phạt biến hiện ra; c̣n loại
thứ hai là Bồ Tát đi vào địa ngục để
cứu chúng sanh. Không phải
hai loại này, địa ngục ở ngay trước mặt
bạn cũng không thấy được, cho nên ông
Chương nh́n không thấy.
Như vậy mới nói rằng đây không phải vấn
đề tàn khốc và nhân từ, mà là tội tánh biến
hiện ra quả báo.
Cũng giống
như một người thường ngày hay làm ác, ban
đêm thường có ác mộng.
Ai làm cho họ có những ác mộng như vậy? Là tự tánh của họ biến
hiện ra, tuyệt đối không phải là người
khác tạo ra ác mộng để cho người đó chịu,
là tự người đó biến hiện ra.
Tội từ
đâu h́nh thành nặng như vậy? Phật nói với chúng ta, đối
tượng của tội mà người kể ở trên
tạo ra không phải là đối với hai vị pháp
sư. Nếu bạn phỉ
báng hai người này, thật t́nh mà nói không phải là tội
nặng lắm. Tội là từ
chỗ nào mà tính? Là từ chỗ
tất cả những tín đồ thính chúng ở trong khu
vực này v́ những lời phỉ báng đó mà không tin Phật,
không chịu nghe Phật Pháp nữa, không chịu noi theo Phật
Pháp mà tu hành. Họ đem thiện
căn của những người trong khu vực này đoạn
mất, đem pháp thân huệ mạng của những chúng
sanh này đoạn dứt. Tội
là từ chỗ này mà tính, v́ thế nên tội này rất nặng.
Trong kinh Phật
nói giết người đoạt mất thân mạng
người là chuyện nhỏ.
Bạn giết đi một người, 49 ngày sau họ
đi đầu thai trở lại. Một người bị giết
đi rất dễ lấy được thân người
trở lại, v́ bị giết không có tội, chỉ có
người đi giết người mới có tội. Trong đời này tôi được
thân người, nhờ tôi c̣n một chút phước thừa,
tuy bị người khác giết đi, 49 ngày sau đầu
thai cũng có thể làm người trở lại. Đời sau c̣n có thể tiếp tục
hưởng phước. Cho
nên giết người lấy mạng người th́ tội
nhẹ, tội làm mất huệ mạng của người
mới nặng.
Nghe
được Phật pháp không phải dễ, cơ duyên
này thật là rất khó được, rất khó gặp. Trong kinh có nói ‘Nhân thân nan đắc,
Phật pháp nan văn’ (nghĩa là Thân người khó
được, Phật pháp khó được nghe). Nghe được Phật pháp c̣n
khó hơn được thân người, điều này là
thật không phải giả đâu.
Một người trong đời này có thể nghe
được Phật pháp, nếu có thể giác ngộ (tỉnh
thức) được, người đó trong đời
này sẽ làm Phật. Họ
thành Phật, bạn thử nghĩ xem, chư Phật
Như Lai sẽ không ngớt lời khen ngợi công đức
của người đó. Nếu
bạn hôm nay đem cái cơ duyên này cắt đứt mất,
tội của bạn nặng bao nhiêu? Tội là từ chỗ này mà tính.
Cho nên Phật
nói phạm tội này phải đọa địa ngục
A Tỳ 18 triệu năm, từ địa ngục ra vẫn
c̣n quả báo thừa. Từ
địa ngục ra mới được làm người;
Phật nói trong ṿng năm trăm đời, khi sanh ra bị
mù không có mắt. Phải chịu
đui mù ngay từ lúc lọt ḷng!
Sau 500 đời tội đó từ từ nhẹ
đi, nhưng vẫn thường sanh ở biên địa;
trong Phật pháp biên địa nghĩa là những địa
phương mà tiêu chuẩn văn hóa rất lạc hậu,
người thường rất ngu dốt, không được
học hành, nghèo nàn, thường bị người khác chê
bai, trêu chọc, ức hiếp; tất cả những thứ
này đều là do nghiệp báo đời quá khứ tạo
ra.
Người
này lúc trước cũng từng xuất gia, cũng là
người tu hành, nhưng v́ chướng ngại của
sự đố kỵ mà tạo ra tội nặng như vậy,
cho nên họ có lúc cũng sẽ có một niệm tỉnh
ngộ muốn tu hành, tuy nhiên ư niệm này vừa mới khởi
lên, nhưng v́ nghiệp chướng quá nặng ư niệm
này rất mau lại tiêu mất, như thế mới biết
khó dường nào.
Chúng ta phải
khẳng định rằng, trong đời quá khứ
chúng ta cũng đă từng trải qua. Phật không phải nói người
khác, thật là đang nói chúng ta đó. Chúng ta hôm nay được thân
người, được nghe Phật pháp, nên biết
trong đó đă trải qua quá tŕnh dài như thế nào,
đă chịu đựng qua những tội báo rất nặng! Phật nói những lời này,
người hiện nay có mấy ai tiếp nhận và có thể
tin đuợc?
Đọc kinh
Phật và nghe giảng pháp dường như nghe kể chuyện
thần thoại, dường như những ‘chuyện thần
thoại’ Phật kể ra không có chút ǵ dính líu với chúng
ta, nào ngờ đâu những chuyện này chính là chuyện của
cá nhân chúng ta. Phật nói
tương lai nghiệp chướng tiêu diệt hết, họ
sẽ sanh đến Tây phương Cực Lạc thế
giới, sẽ thấy đức Phật A Di Đà, A Di Đà Phật sẽ thọ kư cho
họ. Chuyện này có thật
không? Là thật đó. Tại sao vậy? Khi chúng ta đă nghe qua một danh
hiệu ‘A Di Đà Phật’, đă thấy qua tranh ảnh hoặc
là h́nh tượng của Phật A Di Đà, trong A lại da thức
đă có hột giống của Phật A Di Đà, giống
như câu nói ‘nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo
chủng’ (nghĩa là ‘một phen lọt vào tai, hột giống
của đạo đă được gieo vĩnh viễn
rồi ').
D. TIÊU TRỪ CHƯỚNG NGẠI
Trong đời
này nếu chúng ta không cố gắng tu học, không tiêu trừ
những chướng ngại này, chúng ta sẽ không văng sanh
được, cho dù không tạo ra tội nặng cũng
không thể văng sanh. Nếu
như tiếp tục tạo những tội nặng
như [phỉ] báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, th́ chuyện
rắc rối này rất lớn, c̣n phải đi vào địa
ngục, biến thành súc sanh, làm người ngu si, phải
trải qua vô lượng kiếp như vậy thật là
quá khổ!.
Cho nên chúng ta
phải biết sám hối, phải thành thật mà ăn
năn. Ăn năn trên căn
bản là phải thay đổi quan niệm của chúng ta,
từ trong tâm sửa đổi, từ trong sinh hoạt
hàng ngày khi đối xử với người và tiếp
xúc với sự việc mà làm.
Chúng ta nhất quyết phải thay đổi trên ‘sự
tướng’ mới có kết quả. Đức Phật đă v́ chúng ta nêu
ra vài thí dụ nhưng v́ sự việc quá phức tạp
nói ra không hết; chúng ta phải có khả năng nghe một
hiểu mười, nghe Phật nói đến một
trường hợp th́ có thể liên tưởng đến
những trường hợp khác tương tự, những
thứ này đều phải sửa đổi.
1. Không để ư đến lỗi của người
khác
Trước
hết, từ nay về sau đối với những thiện
tri thức hoằng pháp, không kể người đó là tại
gia hay xuất gia, khi nh́n thấy hoặc là nghe nói họ phạm
lỗi lầm, tuyệt đối không nói, phải thật
là làm được ‘nh́n mà không thấy, nghe mà không biết’.
Chúng ta là phàm
phu, họ ở trong cảnh giới ǵ, chúng ta làm sao biết
được? Nếu họ
là phàm phu họ tạo ra tội lỗi, họ sẽ chịu
lấy quả báo. Nếu chúng
ta đi đến đâu đều kể lại, đến
đâu cũng phân biệt chấp trước, chúng ta tự
ḿnh phải chịu quả báo, điều này thật không
đáng tí nào. Đây là tuyệt
không gây chướng ngại cho việc hoằng pháp lợi
sanh, tuyệt không gây chướng ngại đến cơ
duyên nghe pháp của đại chúng trong vùng này.
Bất cứ
lúc nào cũng không nên t́m khuyết điểm của người
khác. Giữ ư niệm này đă
là không tốt huống chi là làm những việc như vậy. Điều đó đối với
chuyện tu hành của ḿnh đă sanh ra chướng ngại
rất lớn. Vậy th́ chúng
ta đang tu cái ǵ? Điều này
không thể không biết.
Điều chúng
ta đang tu là: Giác, Chánh, và Tịnh.
Giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm. Trong ba điều này Tịnh Tông
đặc biệt chú trọng tâm thanh tịnh, tâm tịnh
th́ cơi Phật tịnh. Cứ
thường đi gây rắc rối cho người khác,
tâm của bạn làm sao có thể thanh tịnh? Nếu muốn có tâm thanh tịnh,
chuyện của người
khác chúng ta không cần biết đến, như thế tâm
của chúng ta mới được thanh tịnh. Cố ư gây rắc rối cho
người khác tuyệt đối sẽ không có tâm thanh tịnh;
những người như vậy nhất quyết không
đắc được định.
Nếu không
có định th́ sẽ không có trí huệ, không có định
và huệ th́ người đó nhất định sẽ bị
vô minh phiền năo che lấp. Một
người từ sáng đến tối đều bị
vô minh che lấp th́ làm sao không tạo tội được? Không thế nào được
mà! Đây là điều chúng ta phải
ghi nhớ.
2. Không nên tự khen ḿnh mà chê bai kẻ khác.
Thứ hai,
cho dù chúng ta tu hành rất đàng hoàng đi nữa, hôm qua tôi
có nói, cho dù công phu của chúng ta đă được đắc
lực, đă đạt được sự thọ dụng
chân thật của Phật pháp, cũng không được
tự khen ḿnh mà chê người khác. Đây là căn bịnh thường
có của mọi người, thường tán thán khen ngợi
pháp môn của ḿnh, và c̣n nói ḿnh tu tập được rất
tốt, người khác đều không bằng, điều
này không được. Đây cũng
là vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước.
Nếu bạn
nói ḿnh tu hành rất tốt, đem so sánh với A La Hán th́
sao? So sánh với Bồ Tát th́
sao? Thua xa mà. Có một chút này mà ăn thua
ǵ? Tuyệt đối không
được tự ḿnh khen ḿnh, tuyệt đối không
được phỉ báng kẻ khác. Chuyện này đời xưa có,
ngày nay đặc biệt c̣n nhiều hơn, quá nhiều,
không biết nghiệp tội này nặng.
Chúng ta tu Tịnh
Độ niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc,
khi gặp người tham Thiền hoặc người học
Mật th́ cũng như gặp oan gia kẻ thù. Như vậy làm sao được? Thiền là do Phật truyền
ra, Mật cũng là do Phật truyền ra mà, nếu bạn
phỉ báng những pháp môn này, như vậy không phải là
phỉ báng Phật rồi sao?
Phỉ báng những pháp mà Phật dạy rồi
sao? Người y theo Thiền,
Mật tu hành thành công rất nhiều, ngày nay tuy ít đi rồi,
lúc trước rất nhiều, như vậy không phải
là bạn đă phỉ báng Tăng rồi sao?
Cho nên không
hay không biết chúng ta đă phạm những lỗi lầm
này, tự khen ḿnh mà nói xấu chê bai kẻ khác, phỉ báng
Tam Bảo, điều này phải đọa địa ngục
A Tỳ, từ nay về sau đừng làm chuyện ngu xuẩn
này nữa. Phải nên có thái
độ như thế nào mới đúng? Khi thấy người khác tham thiền,
người khác tŕ chú, chúng ta phải cung kính đối xử
với họ, cung kính một cách hoan hỷ, tán thán mà không
thể hủy báng.
Vào năm
1977 khi tôi ở Hương Cảng giảng kinh Lăng
Nghiêm, pháp sư Thánh Nhất có lại thăm và dự ba
ngày giảng kinh nữa; ngài rất hoan hỷ và c̣n khuyên tín
đồ của ngài đến nghe tôi giảng kinh. Pháp sư tu theo Thiền Tông, một
hôm có mời tôi đến tham quan tự viện của
ngài, tôi cũng rất hoan hỷ nhận lời. Pháp sư trụ tŕ tại Chùa Bảo
Liên ở phía sau của Đại Di Sơn; đường
lên núi rất nhỏ hẹp, xe chạy lên không được,
phải đi bộ khoảng ba bốn mươi phút mới
lên đến một ngôi chùa nhỏ.
Pháp sư nói
với tôi rằng mục đích không mở rộng
đường lên núi là để tạo một chút khó
khăn khi lên chùa. Nếu bạn
không phải thật đi đến chùa để học
hỏi th́ đừng đến chùa, cho nên không mở rộng
đường ra, mục đích này rất hay! Tôi đi đến đó tham quan
và rất khâm phục họ; từ trước đến
nay tôi chưa thấy qua một đạo tràng nào trang
nghiêm như vậy. Tăng
chúng trong chùa có khoảng bốn mươi mấy vị, mỗi
ngày đều đúng giờ tọa hương tham thiền.
Pháp sư mời
tôi giảng khai thị tại Thiền đường, tôi
không thể nói tham Thiền không thể thành tựu, niệm
Phật mới thành tựu được; như vậy
không phải là phá hoại đạo tràng của người
khác rồi sao? Điều này nhất
định không thể làm! Hên
là lúc trước tôi có giảng kinh Kim Cang, Lục Tổ
Đàn Kinh, Vĩnh Gia Thiền Tông Tập Chứng Đạo Ca,
chuyện trong Thiền Tông tôi có giảng qua một ít, cho
nên ‘Khẩu Đầu Thiền’ cũng không đến nỗi
tệ. Tôi khen ngợi họ,
khâm phục, tán thán đạo tràng, khen ngợi pháp sư,
khen ngợi đại chúng tham học Thiền tại
đó, đây đều là những điều phải làm
hết.
Sau khi ra về,
những vị đồng tu cùng tôi lên thăm chùa mới hỏi:
‘Pháp sư tán thán Thiền Tông như vậy, tại sao lại
niệm A Di Đà Phật?’ Tôi mới
nói với họ v́ căn tánh của tôi không lanh lợi,
không b́ được với người tham thiền,
đừng nói tôi không thể khai ngộ, cả việc có
thể được thiền định hay không cũng
không chắc nữa. C̣n niệm
Phật, nương nhờ A Di Đà Phật cầu sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới th́ tôi vững
tâm hơn.
Tôi nói những
lời này đều là thật, cho nên nhà Phật có nói ‘Nếu
muốn Phật pháp hưng thạnh, chỉ cần Tăng
khen ngợi Tăng’. Tán thán
khen ngợi lẫn nhau, Phật pháp mới có thể phục
hưng lại, mới có thể phát triển rộng
ra. Nếu người nào cũng
phỉ báng chê bai lẫn nhau th́ không tốt, tất cả
đều phải đọa địa ngục A Tỳ. Chúng ta phải hiểu đạo
lư này, căn tánh của tất cả chúng sanh không giống
nhau cho nên Phật mới mở ra vô lượng pháp môn.
Tất cả
pháp môn đều ứng cơ (tùy theo căn cơ và điều
kiện của chúng sanh) mà thuyết pháp; bạn thích pháp môn
nào, y theo pháp môn đó tu học đều có thể thành tựu. Cho nên ‘Pháp môn b́nh đẳng,
không có cao thấp’, vậy th́ làm sao có thể phỉ báng
được? Không những
không thể phỉ báng những pháp môn trong Phật pháp mà cũng
không thể phỉ báng những tôn giáo khác trong thế
gian. Hai ngàn năm trở lại
tôn giáo tín ngưỡng là yếu tố duy tŕ trật tự
trong xă hội của những quốc gia Tây phương,
làm cho người ta khi khởi tâm động niệm
đều nghĩ đến Thượng Đế, cho nên ít
nhiều ǵ cũng phải dè dặt thu liễm một
chút. Đây là thiện pháp của
thế gian, bạn làm sao có thể phá hoại nó được
chứ? Bạn làm sao có thể
nói không có Thần, không có Thượng Đế được
chứ?
Nếu
người ta mất đi tín ngưỡng của tôn giáo,
tùy thuận theo phiền năo, th́ không có chuyện ác ǵ mà không
làm, như vậy làm sao được? Cho nên đối với những
thiện pháp trong thế gian cũng phải tán thán. Phật dạy chúng ta trong sáu niệm,
ngoài niệm Phật, Pháp, Tăng c̣n phải niệm Thiên nữa. Thiên này là đại diện cho
tôn giáo, đây là một quan điểm đạo đức
căn bản, thường thường v́ hạnh phúc của
tất cả chúng sanh mà mưu cầu, v́ sự ḥa b́nh an lạc
của tất cả chúng sanh mà suy nghĩ. Tất cả những thiện
pháp trong thế gian và xuất thế gian, chúng ta đều
phải tôn kính, phải tán thán.
Chúng ta sanh
trưởng trong thời đại hôm nay vô cùng đau khổ,
đừng thấy khoa học kỹ thuật của thời
đại hiện nay phát triển, văn minh vật chất
tiến bộ, đời sống vật chất của
chúng ta so với trước tiến bộ rất nhiều,
nhưng những thứ hưởng thụ mà chúng ta có
được ngày nay, chư vị hăy b́nh tĩnh và suy nghĩ,
chúng ta phải trả bằng một giá rất đắt. Thử tính toán kỹ một chút,
phần được không đủ bù đắp lại
phần mất đi, chúng ta mất đi quá nhiều mà
đạt được rất ít. Bài toán này có mấy người biết
tính, người biết tính càng ngày càng ít!
Chúng ta tổn
thất đi những ǵ? Luân
lư, đạo đức bị tổn hại. Phần cảm t́nh đạo nghĩa
giữa người và người đă mất, chân t́nh
đă mất. Không kể là
khoa học kỹ thuật hôm nay có phát triển đến
đâu đi nữa đều không thể bù đắp lại
được, cho nên mới nói là chỗ được
không bù nổi chỗ mất.
Tu hành trong thời
đại bây giờ nếu thành công th́ chư Phật Bồ
Tát đều tán thán và khâm phục.
Tu hành thất bại mắc đọa vào địa
ngục A Tỳ, chư Phật Bồ Tát cũng gật
đầu và nói: ‘Đúng rồi! chắc chắn phải
như vậy mà’. Tại sao vậy? Phía trong có phiền năo, phía ngoài có
dụ dỗ mê hoặc, bạn có định lực bao lớn
để có thể đối phó và giữ vững
được? Bạn có trí
huệ bao lớn mà có thể đem chân tướng của
sự thật này xem xét một cách rơ ràng? Như vậy mới biết thật
là không đơn giản. Không
giống như hồi trước, hồi trước
phong khí xă hội tốt, nhân tâm lương thiện, người
người đều giữ
lễ, tuân theo pháp luật, không dám làm điều xằng bậy,
đều tôn trọng lời dạy của thánh hiền
nên tu học rất dễ dàng.
Khó tin
nhưng có thể tin, khó tu nhưng chịu tu, đây là những
người hào kiệt xuất chúng, là người mà
chư Phật, Bồ Tát, Thánh hiền đều tán thán,
chúng ta có phải là một phần tử trong nhóm người
này không?
Trong thời
đại hôm nay, mỗi câu Phật dạy cho chúng ta, chúng
ta thử suy nghĩ kỹ càng, ư nghĩa sự lư đều
rất sâu rộng; tỉ dụ Phật dạy chúng ta ‘Đối
với tất cả chúng sanh không để ư đến lỗi
lầm của họ’. Đừng
nên nh́n khuyết điểm của người khác, đừng
nêu lên lỗi lầm của người khác, ư nghĩa của
câu này rất sâu rộng.
Điểm thứ
nhất là có thể thành tựu được định
huệ và tâm thanh tịnh của ḿnh; tâm thanh tịnh phát khởi
tác dụng là trí huệ. Tham,
sân, si, mạn là ô nhiễm, tâm ô nhiễm khởi tác dụng
là phiền năo, là tạo nghiệp.
Chúng ta không
để ư đến lỗi của người khác. Người trong thế gian tạo
tội, tạo nghiệp th́ ḿnh cũng không màng đến,
như vậy tâm dễ thanh tịnh hơn, đây là một
ư nghĩa trong đó.
Ư nghĩa thứ
hai, khi bạn gây rắc rối cho người khác, bạn
nói ra lỗi lầm của người khác, người
đó cam tâm hay không? Có chịu
không? Nếu không cam tâm, không nhận
chịu th́ bạn đă kết oán thù với người
đó. Kết oán thù th́ nhất
định phải có sự báo phục. Cho dù bạn làm được
hoàn toàn khéo léo, người khác cũng không biết là bạn
gây ra, bạn có thể che đậy được hoàn
toàn, tuy họ không biết ai gây ra nhưng nhớ và hận
ở trong tâm. Chết rồi
đi làm quỷ, quỷ có ngũ thông cho nên có thể t́m ra
người hại họ lúc trước. T́m ra rồi oan oan tương báo
không bao giờ dứt được. Đời này bạn hại họ,
đời sau họ báo thù rồi hại bạn lại,
đời sau nữa bạn lại báo thù họ thêm lần
nữa, vĩnh viễn rối nùi!
Con đường Bồ Đề phát sanh ra nhiều
chướng ngại đều phát sanh từ chỗ này.
Cho nên chúng ta
phải giải quyết vấn đề này, nhất
định phải từ căn bản mà hạ thủ. Căn bản là ‘Bất kiến
thế gian quá, bất kiến nhân thị phi’ (nghĩa là
Đừng nh́n lỗi lầm của người trong thế
gian, đừng nh́n chuyện thị phi của thiên hạ). Cho dù là trong thời quá khứ có tạo
ra nghiệp nhân này, hôm nay bạn đă đem cái duyên này
đoạn dứt. Duyên cắt đứt rồi, tốt lắm! Tuy có nhân mà không có duyên nên không có thể
kết trái. Chúng ta niệm Phật
văng sanh cũng đem chướng ngại giảm đi
không ít!
E. PHÁP THANH TỊNH GIẢI
THOÁT
1. Xa ĺa chỗ huyên náo.
Kế đến,
Phật dạy chúng ta nên rời xa những nơi náo nhiệt;
nếu bạn thích chỗ náo nhiệt, bạn thử nghĩ
xem cái tâm đó làm sao an định được? Phàm những ǵ Phật cấm
không cho chúng ta làm, bạn suy nghĩ xem các thứ đó
đều gây chướng ngại cho định và huệ. Cho nên Phật khuyên những
người tu hành chúng ta nên an tịnh lại, hoàn cảnh
càng thanh tịnh càng tốt, thật giống như câu nói ‘Nhiều
một việc không bằng ít một việc, ít một việc
không bằng không có việc [ǵ xảy ra]’. Không có việc ǵ th́ tương ứng
với đạo. Đạo là
định và huệ.
2. Thiểu dục tri túc
(Ham muốn ít và biết đủ).
Trong đời
sống sinh hoạt thường ngày Phật dạy chúng ta
phải tri túc, tri túc th́ thường lạc; bỏ đi ư
niệm ham muốn dục vọng này v́ nó là căn bản
của lục đạo luân hồi; nếu những ư niệm
này không đoạn dứt mà c̣n tăng trưởng th́ rất
khó thoát ly sáu nẻo luân hồi; thế nên thân chúng ta phải
thanh tịnh, tâm phải thanh tịnh, hoàn cảnh xung quanh cũng
phải thanh tịnh, được vậy mới là trợ
duyên tốt.
Dùng
phương pháp ǵ để đoạn dứt vọng
tưởng? Điều này rất
quan trọng, vọng tưởng là gốc rễ của lục
đạo luân hồi, là gốc rễ của ba đường
ác. Tịnh Tông dạy cho chúng
ta phương pháp niệm Phật.
Chúng ta không có biện pháp không suy nghĩ, tự nhiên
đầu óc phải suy nghĩ, muốn không suy nghĩ cũng
không được. Phật
biết được đây là tập khí (thói quen) từ
vô lượng kiếp đến nay, nếu vậy th́ nên
nghĩ những ǵ? Nên nghĩ
về Phật và nghĩ đến kinh. Đọc kinh thật thuộc,
thường nên suy nghĩ về những đạo lư
trong kinh, phải suy nghĩ những thứ này mới tốt. Hoặc là suy nghĩ về y báo và
chánh báo trang nghiêm của Tây phương Cực Lạc thế
giới miêu tả trong kinh, nghĩ như vậy cũng tốt.
Kinh điển
Đại thừa thường nói: ‘Tất cả pháp từ
tâm tưởng sanh ra’.
Thường nghĩ về Tây phương Cực Lạc
thế giới, cảnh giới này sẽ biến thành Tây
phương Cực Lạc thế giới; thường
nghĩ về A Di Đà Phật, chánh báo thân h́nh sẽ biến
thành A Di Đà Phật, điều này rất hợp lư; không nên
nghĩ sai, nghĩ tưởng sai sẽ hư mất. Thấy sai, nghĩ tưởng
sai, quả báo sẽ không thể tưởng tượng
được.
3. Viễn ly lợi dưỡng (Xa ĺa danh lợi
hưởng thụ).
Phật nói
thời mạt pháp của chúng ta hiện nay có một số
Bồ Tát không có trí huệ. Những
Bồ Tát này bao gồm xuất gia lẫn tại gia. Chúng ta hiện nay thường thọ
Bồ Tát giới, đều mang danh là Bồ Tát hết;
chúng ta xây dựng một đạo tràng, trong đạo
tràng rất là náo nhiệt, ngày nào cũng làm Phật sự,
đây thường được gọi là ‘hoằng pháp
lợi sanh’.
Chúng ta ở
Đài Loan thường nghe đến danh từ ‘Mở tiệm
Phật’. Khi xây dựng một
đạo tràng đem nó kinh doanh như một tiệm buôn,
đó gọi là ‘mở tiệm Phật’. Những người này được
gọi là ‘Bồ Tát ngu si’, Bồ
Tát không có trí huệ. Họ
đi làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh có mục
đích ǵ? Mục đích là
để kiếm lời, kiếm tiền. Khi tín chúng cúng dường tiền
bạc càng ngày càng nhiều th́ họ sanh tâm vui mừng. Nếu không có tiền th́ họ
không vui, dùng tâm trạng này mà làm việc, thậm chí c̣n
đi thuyết pháp, tất cả đều là lỗi lầm,
tất cả đều là đang tạo nghiệp tội.
Huống chi
c̣n dùng các thứ thủ đoạn để kéo tất cả
thân hữu tín đồ về với ḿnh. Không những vậy mà c̣n muốn
những vị xuất gia và tại gia phải cung kính, cúng
dường cho ḿnh, phải tuyệt đối tin tưởng
ḿnh. Phật nói những Bồ
Tát ngu si này v́ tài lợi để thuyết pháp, nếu
không có lợi nhuận th́ họ sẽ sanh tâm nhàm chán mệt
mỏi. Những chỗ nào
không lợi nhuận (cúng dường ít) th́ không vừa ḷng
hợp ư, họ sẽ thấy rằng những chỗ này
không có thú vị và sẽ không đến những chỗ
này lần thứ hai nữa.
Họ chuyên t́m cầu
cúng dường, t́m cầu sự hầu hạ và sự
cung kính của người khác, làm ra những chuyện quái
gở; người xưa có nói ‘Ḥa thượng bất tác
quái, cư sĩ bất lai bái!’ (‘Ông sư không làm chuyện
quái lạ th́ cư sĩ không lại cúng kiếng!’). Rơ ràng là không v́ lợi ích của tất
cả chúng sanh, không v́ giúp đỡ tất cả chúng sanh
liễu sanh tử xuất tam giới, không thể giúp đỡ
chúng sanh cải thiện hoàn cảnh sinh hoạt, đây
đều là những người mà Phật gọi là Bồ
Tát ngu si, không có trí huệ, tạo ra nghiệp tội, quả
báo đều ở trong tam đồ (ba đường
ác).
4. Dùng tâm không hy vọng (mong cầu) để thuyết
pháp:
Cho nên trong kinh đức
Phật nói với chúng ta rơ ràng, phàm có tâm mong cầu cho dù là
v́ chúng sanh mà thuyết pháp th́ pháp đó cũng không thanh tịnh,
pháp đó nói thật ra là ‘bất như pháp’ (pháp không
đúng). ‘Bất như pháp’
nghĩa là kinh điển th́ không sai mà họ nói pháp lại
sai, những ǵ họ nói ra đều không phải ư của
Phật. Họ không ‘nguyện
giải Như Lai chân thật nghĩa’ mà là ‘giải sai
Như Lai chân thật nghĩa’, tội nghiệp này rất
nặng!
5. Không dùng tâm tham ô để
thuyết pháp:
Phật tuyệt
đối không nói tâm tham ô có thể giúp đỡ chúng
sanh? Ḿnh c̣n độ không nổi
cho chính ḿnh th́ làm sao độ được người
khác? Chữ tham mà Phật nói ở
đây là tham, sân, và si. Chữ
ô là nhiễm ô, ngày nay chúng ta nói là tâm lư ô nhiễm, tinh thần,
tư tưởng, và kiến giải ô nhiễm. Tự ḿnh có sự ô nhiễm trầm
trọng như vậy làm sao có thể giúp đỡ người
khác?
6. Không lấy sự cung kính, cúng dường, và
mưu cầu cho thân này an lạc làm sự lợi ích chân thật
.
Phật không nói (khuyến
khích) sự hưởng thụ các thứ cung kính, tôn trọng,
cúng dường, và hưởng thụ ngũ dục lục
trần; không những kinh điển Tiểu Thừa không
có, kinh điển Đại Thừa cũng không có, huống hồ
là dùng những thủ đoạn và phương pháp lường
gạt để mưu cầu những sự hưởng
thụ này. Chuyện này th́ Phật tuyệt đối không
cho phép làm, chúng ta nhất quyết không làm những chuyện
này. Không những không thể
làm, cái tâm niệm tham này cũng không thể có, tại sao vậy? V́ nếu có những tâm niệm
như vậy nhất quyết không văng sanh được;
cho dù bạn một ngày niệm một trăm bộ kinh,
niệm một triệu danh hiệu Phật, cổ đức
có nói: ‘Hét bể cổ họng cũng luống công’, bạn
nghĩ là bạn có thể văng sanh sao?
7. Dùng tụng kinh niệm
Phật để đè nén vọng niệm.
Tụng kinh
niệm Phật chỉ là phương pháp, mục đích của
nó là để làm cho tâm thanh tịnh; dùng phương pháp
này đem những vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước niệm mất hết, niệm cho tâm thanh tịnh
hiện ra; tâm tịnh th́ cơi tịnh, như vậy mới
có thể văng sanh. Xin chớ
đem ư tưởng nghĩ sai đi, đừng tưởng
là niệm cho nhiều Phật hiệu mới được
văng sanh, vừa niệm Phật mà c̣n sanh tâm tham, sân, si, mà
c̣n lập mưu kế để làm hại kẻ khác,
như vậy có thể văng sanh được sao?
Phải nên biết rằng dùng
phương pháp này để niệm mất hết những
phiền năo, vọng tưởng, phân biệt, và chấp
trước, để cho tâm thanh tịnh và tâm từ bi hiện
ra th́ mới có thể văng sanh.
Cho nên khi
chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động
phải đem so sánh với những ǵ Phật đă dạy
trong kinh. Tại sao Phật Bồ
Tát dạy chúng ta phải làm công phu sáng và tối? Tôi đă nói với chư vị
nhiều lần về ư nghĩa của việc này, khóa sáng
và tối là dùng để ‘trị bịnh’; hồi xưa
khóa công phu sáng tối là mỗi cá nhân tự làm. Lúc Phật c̣n tại thế và lúc
Phật Pháp mới truyền đến Trung Quốc, đại
chúng tập hợp tu tập chung là để nghe kinh, nghiên
cứu, thảo luận cũng như vào lớp học
nghe giảng; tu hành th́ mỗi cá nhân tu hành riêng rẽ chứ
không có hợp lại tu tập chung, chỉ khi nghe kinh,
nghiên cứu, và thảo luận mới tụ hội lại.
Trong Tịnh
Độ Tông, người đề xướng đầu
tiên việc tụ hội lại để tu tập chung
là Huệ Viễn đại sư.
Ngài kiến lập Niệm Phật Đường tại
Lô Sơn, có 123 người đồng chung chí hướng
hợp lại để tu niệm. Các môn phái khác th́ chưa có măi đến
sau đời Đường mới bắt đầu phổ
biến. Đúng ra là hai vị
đại sư Bách Trượng và Mă Tổ đề
xướng xây dựng ṭng lâm.
Xây dựng ṭng lâm là chủ trương không những
phải học chung mà c̣n phải tu tập chung nữa. Cho nên chế độ ṭng lâm là
đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc [sau đời
Đường], trong đó đại chúng tập hợp lại
cùng nhau tu tập. Cùng nhau tu tập
có ích lợi ǵ? Tức là
nương dựa vào đại chúng, mỗi người
riêng rẽ có lúc sẽ làm biếng giải đăi, khi đại
chúng ở chung với nhau bắt buộc mỗi người
không dụng công tu hành không được; mỗi người
trong đại chúng khích lệ và đốc thúc lẫn
nhau, ai cũng không dám lười biếng. Cùng chung tu tập là có mục
đích và ư nghĩa này!
Cho nên chế
độ ṭng lâm đối với chúng sanh thời mạt
pháp rất có ích lợi; một người riêng rẽ th́
dễ làm biếng giải đăi và dễ thoái chuyển;
nhưng đại chúng ở chung một chỗ để
tu tập chân chánh có nhiều thuận lợi hơn nên mới
lập ra công khóa (buổi tu chung) sáng và tối. Nội dung của khóa tu sáng tối
là xem chúng ta có bịnh ǵ, phải dùng thuốc ǵ để
chữa trị. Những kinh
để tụng trong khóa sáng tối ngày xưa không c̣n
thích hợp cho ngày nay nữa; nói cách khác những kinh này có
thể trị bịnh cho người thời xưa
nhưng trị không nổi bịnh của người hiện
nay. Vậy th́ phải làm
sao? Phải t́m ra bịnh hiện
nay của chúng ta là bịnh ǵ, cần dùng thuốc ǵ để
chữa trị.
Ngày nay chúng
ta tu Tịnh Độ, tụng kinh A Di Đà rất tốt
nhưng quá ngắn, ư nghĩa quá sâu; có thể bạn sẽ
nói kinh A Di Đà rất dễ hiểu, không sâu lắm, bạn
thử xem chú giải của Ngẫu Ích đại sư và
chú giải của Liên Tŕ đại sư, bạn sẽ rất
kinh ngạc mà biết rằng kinh A Di Đà rất thâm sâu, c̣n
sâu hơn kinh Vô Lượng Thọ. Cho nên hôm nay chúng ta chọn kinh Vô
Lượng Thọ để tụng trong buổi công khóa
sáng và tối. Hăy đọc
kinh và nên thường nghĩ đến trong kinh Phật dạy
chúng ta làm thế nào, chúng ta có làm được không?
Khóa tối
là để phản tỉnh; nếu đă làm được
th́ phải tự khích lệ và tự nhủ ngày mai phải
làm cho tốt hơn; nếu chưa làm được th́ phải
t́m cách để làm cho bằng được, y theo lời
dạy mà tu hành, đó mới là công khóa sáng tối, công phu
như vậy mới có công đức chân thật. Không phải là buổi sáng niệm
một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, buổi tối lại
niệm thêm một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, không có
tí ǵ liên quan đến hành vi sinh hoạt của ḿnh, như
vậy tội nghiệp sẽ nặng lắm, phải
đọa địa ngục A Tỳ.
Khi gặp
vua Diêm La bạn mới hỏi: ‘Mỗi ngày tôi đều tụng
kinh sáng tối không sót ngày nào, tại sao ông lại bảo
tôi phải đọa địa ngục A Tỳ?’ Vua Diêm La sẽ nói với bạn:
‘Mỗi buổi sáng bạn gạt Phật một lần,
buổi tối lại gạt thêm lần nữa, gạt cả
đời luôn, bạn không đọa địa ngục,
ai đọa địa ngục?’
Phải biết nếu không hiểu rơ ư nghĩa của
buổi công khóa sáng tối th́ đó đều là nghiệp
nhân của địa ngục A Tỳ; bạn gạt Phật
Bồ Tát, Phật Bồ Tát không có trong thế gian, h́nh
tượng bằng đất bằng gỗ bạn cũng
nhẫn tâm gạt được, vậy th́ tâm bạn quá
tàn nhẫn!
Thời gian
trôi qua thiệt nhanh, buổi giảng ngày hôm nay là buổi
chót, lần sau ở đây có cử hành Phật Thất,
xin mời các bạn đồng tu tham dự. Ba ngày nay chúng ta thảo luận những
vấn đề này có liên hệ rất chặt chẽ
đối với sự tu học và sanh hoạt của
chúng ta.
F. CHÁNH PHÁP TUYỆT ĐỐI TƯƠNG ỨNG
VỚI LỢI ÍCH CHÂN THẬT.
Đầu tiên
chúng ta phải thể nhận trong sinh hoạt của thời
đại hiện nay tu hành rất khó khăn, đúng
như đức Thế Tôn có nói trong hội giảng kinh
Lăng Nghiêm rằng ma chướng quá nhiều; những
ǵ mắt chúng ta thấy được, tai nghe được,
phàm tất cả những ǵ trái ngược với tâm
thanh tịnh của chúng ta đều thuộc về ma
chướng. Cho nên Phật dạy
trong kinh rất hay, năm xưa khi Phật c̣n tại thế
lúc giảng kinh thuyết pháp có một số nguyên tắc,
những nguyên tắc này đương nhiên là giáo giới
cho Bồ Tát và hy vọng người đời sau cũng
có thể tuân theo.
Nguyên tắc
thứ nhất, tất cả pháp mà Phật nói ra hoàn toàn
tương ứng với sự lợi ích chân thật, và
cũng là nói Phật giúp chúng ta có thể đạt
được những lợi ích này trong đời sống
hàng ngày. Nếu có thể
đem lại sự lợi ích trong hiện tại mà không
có lợi ích cho đời sau nữa th́ Phật nói đó
không phải là lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật là đời
này có được lợi ích và trong nhiều đời
sau cũng có lợi ích. Chư
Phật Bồ Tát tuyệt đối không nói những ǵ
trái ngược với nguyên tắc này.
Ư nghĩa của
câu này rất sâu, v́ ngoài Phật ra, trong thời đại
hiện nay giống như trong kinh Lăng Nghiêm có nói: ‘Tà
sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng’; pháp của
tà sư nói đương nhiên không phải là chánh pháp, tại
sao có nhiều người tin theo?
Có nhiều người ủng hộ như thế? Trong đó nhất định phải
có đạo lư của nó.
Nếu dựa
trên sự lợi ích mà nói, số tà sư này có thể giúp bạn
hiện thời đạt được lợi ích
trước mắt, nhưng nhất định không thể
bảo đảm cho bạn đời sau cũng có lợi
ích như vậy. Chúng ta hăy
b́nh tĩnh mà quan sát, không phải là khó hiểu, hiện tiền
có thể giúp cho bạn đạt được danh
văn lợi dưỡng (danh lợi hưởng thụ),
làm thỏa măn ḷng tham, sân, si, kiêu mạn, và phiền năo của
bạn, chắc bạn cũng rất vui thích v́ những ǵ
bạn mong muốn đều có thể đạt
được.
Thiệt t́nh
mà nói, nếu trong sanh mạng của chúng ta không có những
thứ phú quư giàu sang, không có những danh lợi đó, những
tà sư này có thể giúp chúng ta đạt được
không? Nói cho quư vị biết,
tuyệt đối không thể được. Giả sử họ có thể giúp
chúng ta đạt được, th́ năng lực của
họ vượt hơn luật nhân quả rồi; họ
có thể đạp đổ định luật nhân quả
chăng? Chư Phật, Bồ
Tát c̣n không làm được, họ làm sao có thể làm
được!
Từ đó
có thể biết được, cho dù họ dùng mọi
phương pháp để làm như là họ giúp chúng ta
đạt được vậy, thiệt ra đó đều
là những ǵ trong mạng chúng ta đă có sẵn; chân tướng
sự thật là ‘nhất ẩm nhất trác, mạc phi
tiền định’, tạm dịch là ‘một miếng
ăn, một miếng uống đều đă có định
trước’. Phàm là những
người có đầu óc b́nh tĩnh một chút đều
có thể thấy được những sự thật
này; những tín đồ, tín chúng theo họ có phải là
người nào cũng có thể đạt được
danh lợi hưởng thụ như vậy hết
sao? Không hẳn thế, chỉ
có một ít người có thể có được thôi; nếu
nói mọi người đều đạt được
th́ đó mới là thật.
Chỉ có một
số người đạt được mà người
khác không đạt được, th́ đó chưa chắc
là thật; những người đạt được
là cơ duyên của họ chín muồi, nghiệp nhân thành thục,
quả báo hiện ra, chỉ là chuyện như vậy mà
thôi. Từ đó có thể biết
không phải là năng lực của họ (những tà
sư) làm được. Họ
có thể biết được quả báo của bạn
lúc nào sẽ hiện ra, họ có những năng lực (thần
thông ) nhỏ này, họ có thể biết được
khi nào vận may của bạn đến, biết
được khi nào bạn sẽ được thăng
quan lên chức, khi nào sẽ phát tài; nương vào nhân duyên
của bạn họ nói là họ đến gia tŕ và pḥ hộ
cho bạn, bạn mắc lừa rồi, kiếp sau nhất
định phải đọa ba đường ác. Cho nên đây không phải là lợi
ích, không tương ứng với lợi ích chân thật.
Chúng ta mong cầu
sự phú quư ở thế gian, không phải là cầu không
được. Có câu nói là: ‘Trong
nhà Phật có cầu th́ sẽ có cảm ứng’, điều
này là thật đó, không phải giả, vậy th́ phải
cầu như thế nào mới được? Sự mong cầu này nhất định
phải như lư, như pháp và có lư luận phương pháp
đàng hoàng.
Trên mặt
lư mà nói th́ phải có tâm chân thành, tâm thanh tịnh, và tâm đại
từ bi. Trên mặt sự mà
nói là điều Phật dạy chúng ta: bố thí.
Bố thí
tài vật là trồng nhân, được giàu có là quả
báo, cho nên
chúng ta muốn giàu có th́ phải tu bố thí tài vật.
Nếu bạn
muốn thông minh trí huệ, bạn phải biết tu bố
thí pháp.
Nếu bạn
muốn khoẻ mạnh sống lâu, bạn phải biết
tu bố thí vô uư (giúp cho người ta không lo sợ ) .
Phật dạy
chúng ta tu nhân ǵ th́ được quả đó, đây là
tương ứng; không những tương ứng với
lợi ích chân thật, đối với pháp cũng
tương ứng; đúng như lư, như pháp th́ không có ǵ
là cầu không được.
Nếu chúng ta mong cầu nhưng không được
măn nguyện, đây là v́ lư do ǵ?
Là tại nghiệp chướng gây ra trở ngại
và làm chúng ta không được măn nguyện.
Như vậy
th́ phải làm sao? Phải t́m
ra nghiệp chướng và tiêu trừ nó đi th́ sẽ
được măn nguyện.
Lư luận, sự thật và phương pháp mong cầu
này đức Phật đă nói qua rất nhiều trong kinh
điển. Các vị đă
đọc kinh Vô Lượng Thọ rồi, trong đó nói
rất đầy đủ; đọc thuộc rồi
lúc nào có cơ hội quư vị nên nghiên cứu thảo luận
nghĩa lư trong kinh, làm thế nào để áp dụng vào
trong đời sống và công việc hàng ngày của chúng
ta, làm thế nào để vận dụng những nguyên lư
và nguyên tắc này, như vậy mới gọi là tu hành chân
chánh.
Cho nên phải
tương ứng với lợi ích, với pháp, với lư
luận phương pháp, càng quan trọng nhất là phải
tương ứng với sự đoạn dứt phiền
năo. Những pháp ǵ ma thuyết
ra tuyệt đối không có những thứ này; ma không dạy
bạn đoạn phiền năo, ma khuyến khích bạn
tăng trưởng tham, sân, si, và [kiêu] mạn; ngược lại, chư Phật
Bồ Tát dạy bạn xa ĺa phiền năo, diệt tận
phiền năo.
Xa ĺa phiền
năo th́ công phu tu hành của bạn sẽ được
đắc lực; diệt tận phiền năo, bạn mới
có thể chứng quả, và cũng có nghĩa là bạn mới
đạt được đại viên măn, mới
được đại tự tại.
Trong thời
mạt pháp hiện nay của chúng ta, chư Phật Bồ
Tát trở lại thế gian này (tái lai) cũng có, không phải
là không có, nhưng không phải dùng một thân phận vai tṛ
nhất định nào, có khi là dùng thân phận của một
vị pháp sư xuất gia, có khi là thân phận của một
vị tại gia cư sĩ, trưởng giả; những
người này nhất định phải khuyên bạn niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, tại sao vậy? V́ đây là sự lợi ích rốt
ráo viên măn nhất.
Nếu
đời này không thể văng sanh, không kể là bạn tu học
pháp môn nào, bạn không có biện pháp ǵ để thoát ly lục
đạo luân hồi, cũng có thể nói là bạn không có
năng lực để đoạn ‘kiến tư phiền
năo’. Không thoát ra khỏi luân hồi,
nhất định là thời gian ở trong ba đường
ác lâu dài hơn thời gian ở trong ba đường thiện;
đây là điều mà chúng ta không thể không cảnh giác!
Phật dùng
thân để làm gương và thuyết pháp cho tất cả
chúng sanh. Căn tánh của
chúng sanh không đồng đều với nhau, cho nên Phật
nói ra rất nhiều pháp môn để tùy theo căn tánh của
mỗi người mà giúp cho họ thành tựu; đây là lư
do mà Phật nói ra nhiều pháp môn và kinh điển như vậy.
Trong
kinh Đại Tập đức Phật có dạy cho hậu
thế rất rơ ràng, Phật nói trong thời Chánh pháp th́
Giới Luật thành tựu; Chánh pháp là thời gian một
ngàn năm sau khi Phật diệt độ; trong thời
kỳ Tượng pháp th́ Thiền Định thành tựu;
Phật giáo truyền đến Trung Quốc nhằm ngay thời
kỳ Tượng pháp, cho nên Thiền định thành tựu
tại Trung Quốc đích thực là rất huy hoàng
hưng thịnh. Trong thời
Mạt pháp th́ Tịnh Độ thành tựu; hiện nay
không kể là tính theo sự ghi chép của lịch sử
Trung Quốc hoặc là sự tính toán của những nước
khác, 2000 năm sau khi Thế Tôn diệt độ là thời
Mạt pháp, trong thời Mạt pháp th́ tu Tịnh Độ dễ
thành tựu, đây là lời Phật nói (trong kinh Đại Tập). Cho nên tất cả chư Phật
Bồ Tát nếu nương theo nguyện để trở
lại thế gian này, nhất định là sẽ khuyên mọi
người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
G.
BỐN NGUYÊN TẮC ĐỂ PHÂN BIỆT CHÁNH VÀ TÀ
Trong kinh Lăng Nghiêm
có nói: ‘Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng’;
Dựa vào đâu để phân biệt chánh và tà? Ngược lại với bốn
nguyên tắc mà Phật thuyết pháp là tà, là của ma nói.
1. Tuyệt đối
cùng lợi ích không tương ứng.
Đây là ma nói. Nói một cách khác những pháp nào
mà khi học xong thật sự là không có lợi ích, không có lợi
ích tức là có tổn hại; tổn hại chỗ nào?
Chúng ta không cần phải nói ra, quư vị suy nghĩ thử
xem, cũng dễ thấy thôi.
2. Tức là tương ứng
với phi pháp.
Đối chọi và
tương phản với những ǵ Phật nói.
3. Nhất định là
tương ứng với phiền năo.
Nếu bạn
tu học theo phương pháp của họ (ma), không những
là không thể tiêu trừ phiền năo, mà càng ngày càng tăng
trưởng phiền năo, tăng thêm tham, sân, si, mạn,
tăng thêm đố kỵ, tăng trưởng thêm sự
tạo tội nghiệp.
4. Tuyệt đối
tương ứng với sanh tử.
Cũng có thể
nói là họ không chủ trương thoát ly ra khỏi luân hồi,
họ dạy người sau khi chết đi mau mau trở
lại làm người. Sau khi
chết đi, bạn muốn làm người th́ có thể
được thân người sao?
Không hẳn là vậy, lời Phật nói là thật
đó; Phật tỉ dụ sau khi người chết
đi đời sau có thể được thân người
trở lại nhiều cũng như đất trong móng
tay, không được thân người trở lại nhiều
như đất trên địa cầu này. Cho nên người ta mất đi
thân người đời sau có lại được thân
người hiếm có như ‘lông phụng sừng lân’,
không phải ai cũng có thể có thân người lại
được.
Những
người nào mới có thể được thân người
trở lại? Trong kinh Phật
nói rất nhiều, phải giữ tṛn ngũ giới thập
thiện th́ mới được thân người trở
lại. Ngũ giới là không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không
uống rượu. Thập
thiện là thân có ba, miệng bốn, ư ba, (không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm,
không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời
thô ác, không nói lời thêu dệt, không tham, không sân, và không si)
tôi ở đây không nói kỹ nữa. Tự ḿnh suy nghĩ kỹ lưỡng
trong đời này ngũ giới và thập thiện của
ḿnh có thể làm được đến 80 điểm
không (80 %). Nếu được
th́ đời sau quyết định là không mất thân
người; nếu không được 80 điểm th́
đời sau không chắc là sẽ được thân
người trở lại.
Cho nên ma thuyết
pháp th́ tương ứng với sanh tử và sáu nẻo
luân hồi. Ma không dạy cho bạn
thoát ly ra khỏi lục đạo. Khi chúng ta tiếp xúc với tất
cả chúng sanh, bạn bè thân quyến và những người
quen cũng nên nói cho họ biết việc này, khuyên họ
đoạn ác tu thiện, khuyên họ niệm Phật cầu
văng sanh. Bạn nói những ǵ
phù hợp tương đồng với bốn nguyên tắc
này th́ đều là chánh pháp; những ǵ trái ngược với
bốn nguyên tắc này là tà pháp, đây là điểm chánh mà
chúng ta nên nhớ.
H. HẠNH TỐT VÀ HẠNH XẤU
Chúng ta có thể
thấy trong kinh điển Đại thừa, chư Bồ
Tát thị hiện trong thế giới này mang rất nhiều
h́nh thức; thị hiện làm những hạnh tùy thuận
với pháp tánh th́ không có vấn đề ǵ hết, chúng ta
sẽ không hoài nghi và y giáo phụng hành. Nhưng có khi cũng thị hiện
tùy thuận theo hạnh xấu, chúng ta sẽ không dễ
phân biệt ra được, đây là điều mà chúng
ta không thể không để ư đến.
Thị hiện
hạnh xấu thí dụ như phá giới hoặc là cố
ư thị hiện ra rất nhiều hành vi tội ác. Sự thị hiện này nhất
định phải có nhân duyên đặc biệt của họ,
đó là để độ một số đối
tượng đặc biệt mà sẽ không tùy tiện thị
hiện trong phần đông quần chúng; nếu bạn có
thể nhận biết được điều này th́ bạn
đă có trí huệ khá lắm.
Những chuyện
thị hiện này từ xưa đến nay cũng
thường nghe đến; nếu có cơ duyên đặc
biệt bạn cũng có khi gặp được. Phật có lời dạy đặc
biệt riêng cho những trường hợp này. Phật cử ra một thí dụ
trong kinh Hoa Nghiêm, trong 53 cuộc tham vấn của Thiện
Tài đồng tử có một số Bồ Tát tùy thuận
theo phiền năo. Phật gọi
những vị này là ‘Huệ Hạnh Bồ Tát’, không phải
là Bồ Tát sơ cấp (sơ học). Bồ Tát sơ cấp không có
năng lực này; tại sao vậy? Bồ Tát sơ cấp c̣n chưa
đoạn dứt được tập khí của tham,
sân, si, và mạn; nếu họ tạo ra những ác nghiệp
này th́ nhất định phải đọa vào ba
đường ác.
Huệ Hạnh
Bồ Tát là những hạng người như thế
nào? Những Bồ Tát đă
hoàn toàn phá hết 4 tướng (ngă tướng, nhân tướng,
chúng sanh tướng, và thọ giả tướng) và 4 kiến
(ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, và thọ giả
kiến ) nói trong kinh Kim Cang.
Đây là hạng người nào?
Đó là Pháp Thân Đại sĩ mà trong kinh thường nói
đến chứ không phải là người thường. Họ thị hiện ra những
ác hạnh nhưng trong tâm họ không có, v́ độ chúng
sanh họ có thể mở rộng cửa phương tiện
và không bị g̣ bó chút nào. Tâm của
họ thanh tịnh, một tí bụi bậm cũng không nhiễm,
họ có bản lănh này.
Người
Trung Quốc phần đông đều biết hồi
xưa có vị Tế Công trưởng lăo (người Việt
thường nói đến với cái tên là Tế Điên Ḥa
Thượng). Bạn thấy
hành vi của Tế Công h́nh như là không giữ giới luật
và cũng không giữ thanh quy (của nhà chùa), mà c̣n đặc
biệt thích ăn thịt chó.
Đích thật là có người Tế Công này, nhưng
không giống như sự miêu tả trong tiểu thuyết,
chuyện tiểu thuyết viết không chịu trách nhiệm. Thế th́ ông Tế Công này có những
hành vi như vậy không? Trong
Cao Tăng Truyện thật có ghi ổng ăn thịt chó
và uống rượu, vả lại truyện Tế Công
trong Cao Tăng truyện rất dài, dài hơn truyện kư của
những vị pháp sư khác; h́nh như có đến bốn
năm quyển, đó là chuyện thật không phải là tiểu
thuyết. Chuyện này ghi lại
những sự tích của một vị A La Hán ứng hóa
thị hiện ở đời chứ không phải người
phàm.
Ngài độ
những hạng người mà một số người
tŕ giới, giảng kinh, niệm Phật đàng hoàng trong
chúng ta không có khả năng độ được, thành
tựu được vô lượng công đức; tâm
địa của ngài thanh tịnh, không bị phiền năo
trói buộc, ngài có khả năng này. Chúng ta không thể học theo những
người giống như vậy, chúng ta chỉ có thể
khâm phục, cung kính, và tán thán, tuyệt đối không
được bắt chước; nếu bạn bắt
chước và đọa tam đồ th́ ngài không chịu
trách nhiệm!
Gần
đây vào những năm đầu thời Dân quốc, xuất
hiện một vị rất giống Tế Công trưởng
lăo; đó là pháp sư Diệu Thiện ở chùa Kim Sơn, ở
Chấn Giang, Giang Tô; người ta xưng ngài là ‘Phật sống
Kim Sơn’, hành vi của ngài cũng rất giống Tế
Công vào thời nhà Tống. Cách
thức thị hiện này là ‘nghịch hạnh’; bạn xem
ngài mỗi ngày không tụng kinh công khóa sáng tối, từ
đó đến nay không thấy ngài niệm cuốn kinh nào
hết, và cũng không thấy ngài tụng giới qua lần
nào, cả ngày từ sáng đến tối cười ha hả
lẫn lộn trong nhóm cư sĩ, cùng nhau ăn uống,
không có câu nệ ǵ hết.
Ngài có thể
dạy cho người ta khâm phục, mọi người
đều xưng ngài là ‘Phật sống’ và rất cung kính
ngài; bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, ngài chỉ mặc một
cái áo mỏng, mùa đông không thấy lạnh, mùa hạ cũng
không thấy nóng, đây thiệt rất lạ lùng. Áo của ngài cũng không có giặt,
cả đời cũng không tắm rửa qua mà trên thân thể
không có mùi hôi, không những không hôi mà trên ḿnh của ngài lại
có mùi thơm; ngài không phải là người thường;
chúng ta học theo ngài không được, điều này là
thiệt đó.
Trong xă hội
hiện nay, có rất nhiều người giả mạo
những thánh nhân này, họ cũng không câu nệ g̣ bó,
nhưng bạn thử xem xét kỹ mùa đông họ có mặc
áo lạnh không? Nếu mùa
đông họ chỉ mặc một cái áo mỏng, th́ đó
là thứ thiệt; nếu mùa đông mặc áo dày thiệt
dày th́ không phải là thứ thiệt. Mùa hè coi họ có thể mặc áo
bằng da không? Ăn uống
có thể nào không phân biệt không?
Không phân biệt sạch dơ tất cả đều
ăn hết. Nếu họ
làm những sự việc này không được, rất
có thể họ chỉ là người giả mạo mà
thôi. Đây là điều chúng ta phải
để ư, phải cẩn thận, học Phật không thể
để cho người khác gạt.
H́nh dáng có thể
gạt người, ngôn từ có thể gạt người,
viết thành sách cũng có thể gạt người, phải
nên cẩn thận. Trong thời
đại hiện nay, tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, không có hạn chế, không giống như hồi
trước. Bạn hăy xem triều
đại trước đời nhà Thanh, nếu bạn
muốn xuất bản một cuốn sách, trong Phật
giáo phải thông qua sự kiểm soát của quốc gia,
không phải ai cũng có thể tự tiện đem sách vở
đi lưu thông. Những
đại đức cao tăng đương thời thẩm
tra xem qua không có vấn đề mới đem tŕnh lên vua,
được phê chuẩn xong mới được in ra,
không tự do như bây giờ.
Tự do có sự
lợi ích của tự do, nhưng cũng có rất nhiều
tệ đoan; tà tri tà kiến có đầy dẫy trong xă hội,
người không có tŕnh độ trí huệ cao muốn
không bị những thứ này mê hoặc rất khó. Đây là khuyết điểm của
tự do dân chủ. Trong thời
đại chuyên chế hồi xưa, hoàng đế thật
sự là có ǵn giữ tâm thanh tịnh cho nhân dân, ngăn ngừa
không cho họ bị ô nhiễm.
Ông vua có trách nhiệm và sứ mạng này.
Ở Trung Quốc
thời xưa, những người làm quan chánh vụ, cũng
như chức ‘hành chánh thủ trưởng’ hoặc là huyện,
thị trưởng ngày nay, họ cũng tuân thủ ba giới
điều (giống như nguyên tắc). Ba giới đó là chín chữ: ‘Tác
chi quân, tác chi thân, tác chi sư’.
Đây là sứ mạng và trách nhiệm của những vị
quan này.
Nhiệm vụ
của quân (vua) là lănh đạo dân chúng trong nước,
vua cũng như ông thị trưởng phải lănh đạo
dân chúng trong huyện thành phố đó. ‘Tác chi thân’ là ông quan phải lấy
tâm trạng của người làm cha mẹ để
săn sóc cho dân chúng; người ta thường gọi
‘cha mẹ của dân’ hoặc là ‘phụ mẫu quan’; họ
phải giúp đỡ làm cho đời sống của dân
chúng được tốt đẹp hơn. ‘Tác chi sư’ là ông quan c̣n phải
làm thầy giáo và dạy dỗ người dân. Cho nên ba sứ mạng của quan
chánh vụ là ‘quân, thân, sư’.
Thời
đại dân chủ ngày nay không có ba sứ mạng này; những
người quan chánh vụ ngày nay được gọi là
‘đày tớ của nhân dân’.
Dân là người chủ, quan là tôi tớ, dân muốn
quan làm ǵ th́ quan phải làm chuyện đó. Bạn thử nghĩ xem chúng ta muốn
có một người quan như cha mẹ hay là một
người quan như đày tớ trong nhà?
Cha mẹ lo
lắng cho con cái chu đáo nhất, người đày tớ
làm việc cho bạn chưa chắc có thể tin được;
cho nên rất nhiều người hỏi tôi: ‘Pháp sư tán
thành chế độ dân chủ hay là chế độ quân
chủ?’. Tôi trả lời là
quân chủ; tôi biết những ưu điểm của
quân chủ th́ nhiều hơn dân chủ và tệ đoan (của
quân chủ) cũng ít hơn dân chủ. Nếu quư vị đọc kỹ
lịch sử th́ sẽ hiểu rơ, đừng tưởng
là làm vua rất ích kỷ; nói thật ra ích kỷ là điểm
tốt của vua; ông vua phải luôn luôn để ư cẩn
thận, luôn luôn phải lo đến sự lợi ích của
bá tánh (dân chúng); nếu lơ là th́ nhân dân sẽ nổi dậy
lật đổ triều đ́nh.
Nếu ông vua muốn được sự ủng hộ
của toàn dân th́ phải làm một ông vua tốt, thiệt
là phục vụ cho quốc gia và nhân dân; như vậy th́
dân mới ủng hộ vua, vua mới giữ vững triều
đại được lâu dài, mới truyền đến
mấy mươi đời, mấy trăm năm. Cho nên chuyên chế không phải là
không có ưu điểm, ngày nay tổng thống nhậm chức
bốn năm th́ không có tinh thần trách nhiệm như ông
vua!
Trở lại
vấn đề, mọi người chúng ta đều là
Bồ Tát sơ cấp, điều thứ nhất mà Phật
dạy chúng ta là phải biết sự lợi hại của
danh lợi hưởng thụ (danh văn lợi dưỡng),
nhất định là tiêm nhiễm không được. Nhưng danh văn lợi dưỡng
rất dễ mê hoặc người, đă có mấy
người có thể xả ly được? Nếu không thể tránh được
những sự mê hoặc này, chúng ta muốn thành công trong một
đời này th́ quá khó.
Phật dạy
chúng ta nên thiểu dục tri túc (muốn ít và biết đủ),
dục vọng ít th́ rất dễ thỏa măn. Chúng ta ngày nay một ngày ăn ba bữa;
hồi Phật c̣n tại thế, một ngày chỉ có một
bữa ăn. Ba bữa ăn
có thể ăn được no, áo mặc có thể mặc
được ấm, có một căn nhà nhỏ để
che mưa đỡ nắng, đời sống vật chất
như vậy đủ rồi, phiền năo ít, tâm mới
có thể hướng về đạo. Nếu tham muốn sự hưởng
thụ th́ nhất định sẽ tăng thêm tham, sân, si,
mạn, tăng thêm phiền năo và đánh mất chánh niệm.
Tất cả
những thiện pháp mà Phật dạy, không những bạn
làm không được, cho đến những ư nghĩa mà
Phật nói đến, bạn cũng không thể hiểu
được. Cái mà Phật
gọi là phước điền thù thắng bạn không
có khả năng để lănh hội được;
phước điền thù thắng nghĩa là Tam Học
(Giới, Định, và Huệ), Lục Độ (Bố thí, Tŕ
giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định,
và Bát nhă) và mười đại nguyện Phổ Hiền. Tuy bạn có thể nói ra
được, thiệt ra bạn có tâm khinh mạn đối
với những lời dạy của Phật, không chịu
làm theo, khi khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác
đều tương ứng với ma, vậy làm sao thành
công được? Cho nên Phật
dạy cho Bồ Tát mới bắt đầu học nhất
định phải xa ĺa danh lợi và hưởng thụ.
Nói đến
đây, chúng tôi lại nhớ tới Liên Tŕ đại
sư, ngài là một trong bốn vị đại sư
đă có công trong việc phục hưng Phật giáo vào cuối
đời nhà Minh; khi người đời sau nhắc
đến Liên Tŕ đại sư th́ không ai không tôn kính và
không hâm mộ ngài hết. Liên
Tŕ đại sư nói lúc c̣n trẻ ngài đi tham học và
rất ngưỡng mộ một vị cao tăng đại
đức đương thời, Biến Dung lăo ḥa
thượng. Ngài thiệt là
cung kính đi ba bước lạy một lạy đến
trước mặt lăo ḥa thượng, và cung kính thỉnh
cầu lăo ḥa thượng khai thị; lăo ḥa thượng chỉ nói một
câu:
‘Ông nên
nhớ kỹ đừng để danh văn lợi
dưỡng làm hại đến’.
Nói xong liền
kêu ngài đi về, đại chúng đứng ở ngoài mục
kích chuyện này đều cười to cho rằng ngài
Liên Tŕ từ xa ba bước một lạy đi đến
đó, lăo ḥa thượng nhất định phải có diệu
pháp cao siêu ǵ để dạy cho ngài, nào ngờ chỉ nói
có một câu như vậy!
Liên Tŕ đại
sư có tâm chân thành cung kính và đă tiếp nhận (lời
khai thị trên). Ngài nói: ‘Lăo ḥa
thượng rất đáng được mọi người
cung kính, luôn nói lời chân thật, không nói ǵ cao siêu huyền
diệu để gạt người đời sau’, cho
nên cả đời ngài tuân thủ theo lời dạy, sự
thành tựu mà ngài có được cũng là nhờ câu nhắc
nhở của lăo ḥa thượng, cả đời xa lánh
danh văn lợi dưỡng.
Lời của
Biến Dung lăo ḥa thượng rất giống với lời
Phật dạy cho người sơ học, ở phía
trước đă có nói qua, những người ‘phù hợp
tương ứng với lợi ích, với pháp, với
đoạn phiền năo, với đại niết bàn’ là
thiện tri thức chân chánh.
Một người
ham muốn ít và biết đủ có rất nhiều lợi
ích, rơ ràng nhất là họ giảm bớt được rất
nhiều lỗi lầm, chúng ta biết được không
những là người thế gian, mà người học
Phật, người xuất gia có rất nhiều lỗi
lầm; lỗi lầm này từ đâu phát sanh ra? Là từ tham dục mà sanh ra
đó.
I. BA CƯƠNG LĂNH CHÁNH CỦA HÀNH MÔN
Trong kinh Vô Lượng
Thọ đức Phật có dạy chúng ta ba cương
lănh chánh của hành môn (phương pháp tu hành):
1. Thiện hộ khẩu nghiệp,
bất cơ tha quá (Giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng
chế giễu và nói đến lỗi của người
khác).
Điều này
bao hàm ư nghĩa vô cùng sâu rộng.
Trong ba nghiệp: thân, khẩu, và ư, đức Phật
đem khẩu nghiệp để hàng đầu; tại
sao vậy? Tất cả chúng
sanh tạo nghiệp dễ nhất là khẩu nghiệp. Chúng ta nên biết khẩu nghiệp,
trong đoạn trước có kể cho quư vị câu chuyện
về người kiếm chuyện nói xấu pháp sư giảng
kinh, ly gián thính chúng và pháp sư, phải đọa 18 triệu
năm trong địa ngục A Tỳ; từ địa ngục
ra phải trải qua năm trăm đời mù ḷa, và c̣n
không biết bao nhiêu đời phải chịu bần cùng
hạ tiện, rồi mới khôi phục lại được
thân người b́nh thường, cho nên mới biết tội
báo của sự tạo khẩu nghiệp dễ sợ
như thế nào.
2. Thiện hộ thân nghiệp, bất
thất luật nghi (Giữ ǵn thân nghiệp, đừng vi
phạm luật lệ và mất tác phong)
3. Thiện hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm
(Giữ ǵn ư nghiệp, phải luôn thanh tịnh không nhiễm
ô)
Ba câu trên là
ba cương lănh chánh của hành môn, chúng ta phải nhớ
nằm ḷng, những ǵ tất cả kinh luận nói đến
đều là để giải thích rơ ba điều này,
để dạy chúng ta phải luôn làm theo ba cương
lănh này trong đời sống, trong công việc, trong sự
giao tế hàng ngày.
Phong trào
tư tưởng của người hiện nay là phải
mới hơn, phải thay đổi luôn, và phải mau
chóng hoài. Tư tưởng này
trong Phật pháp có không? Trong Đại
thừa Phật pháp có, nhưng rất khó, nếu sơ học
Bồ Tát cũng có quan niệm này, yêu cầu mới, thay
đổi, và tốc độ nhanh, nhiều khi đi lạc
đường hướng cũng không biết. Nếu vậy loại người
nào mới có thể làm được? Phật có nói Huệ Hạnh Bồ
Tát, Pháp Thân Đại Sĩ mới được, những vị
này tâm thanh tịnh, trí huệ đă khai mở mới làm
được.
Tâm không thanh
tịnh, trí huệ chưa khai mở, sanh hoạt trong phiền
năo mà đ̣i mới, đ̣i thay đổi không ngừng và
nhanh chóng, những quan niệm này tuyệt đối có hại. Cho nên Bồ Tát sơ cấp
(sơ học) tốt nhất là phải đi theo con
đường của những vị đại đức
thời xưa đă đi qua; bạn nên biết Phật
giáo truyền đến Trung Quốc được hai ngàn
năm, hai ngàn năm trước ở Ấn Độ đă
truyền hết một ngàn năm.
Trong ba ngàn năm này, phàm những ai đi theo con
đường cũ, những ai thiệt thà ở trong
khuôn phép cũ không ai là không thành tựu; nghĩ ra những
điều tân kỳ mới lạ, chúng ta không thấy
người nào thành tựu cả; điều này đích thực
đáng cho chúng ta suy nghĩ và phản tỉnh.
Phật pháp
và thế gian pháp không giống nhau, lư luận và
phương pháp đều không giống nhau, chúng ta có thiệt
là muốn thoát ly sanh tử luân hồi ngay trong đời
này không? Đây là điểm trọng
yếu trong sự tu hành của chúng ta. Nếu thiệt là muốn liễu
sanh tử, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi,
chúng ta phải coi trọng lời dạy của đức
Phật; phải cầu giải (hiểu rơ), phải thực
hành, phải nỗ lực gắng hết sức để
làm, như vậy đời này ta mới có hy vọng thành
công được.
Phật dạy
ta làm những ǵ ta phải hết ḷng đi làm; Phật dạy
chúng ta những ǵ không nên làm, chúng ta nhất định
không làm, như vậy mới đáng là người con Phật,
học tṛ giỏi của Phật; đừng nên làm một
người chỉ mang danh là Phật tử mà không có thực
chất của người Phật tử chân chánh.
G. ĐIỂM QUAN TRỌNG CỦA HÀNH MÔN
Làm người
con Phật có ba điều quan trọng phải làm trong
đời sống hàng ngày, không thể làm thiếu
được:
1. Thứ nhất là đọc tụng.
Đọc kinh
là cầm kinh trước mặt mà đọc. Khi bạn học thuộc ḷng rồi,
không cần coi kinh cũng có thể nói ra th́ gọi là tụng.
Đọc và tụng có mục
đích ǵ? Không quên lời dạy
của Phật, luôn luôn ghi nhớ lời dạy này trong
ḷng, nhớ những ǵ nên làm và những ǵ không nên làm.
2. Thứ hai là tu hành.
Tu hành là lúc
chúng ta khởi tâm động niệm, nếu tâm niệm
này Phật không cho th́ khi khởi lên chúng ta phải lập tức
đem nó đổi trở lại.
Tu là sửa đổi, hành là hành vi. Tư tưởng, kiến giải,
hành vi, lời nói nếu có lỗi lầm (lỗi lầm
này là lấy lời dạy của Phật làm tiêu chuẩn)
th́ đem những lỗi lầm này sửa đổi lại,
đó gọi là tu hành. Cho nên tu
hành là tu ở chỗ khởi tâm động niệm, ở
trong lời nói hành động, phải thường giác ngộ,
phải biết được lỗi lầm của ḿnh.
Trong nhà Phật
chúng ta thường nói đến ‘khai ngộ’, có rất
nhiều người tưởng khai ngộ là cái ǵ rất
huyền diệu, rất cao siêu, không thể tưởng
tượng được.
Thiệt ra tất cả đều là gạt người
hết. Cái ǵ gọi là ‘khai ngộ’? Tôi biết lỗi lầm của
tôi, biết tật xấu của tôi, tôi giác ngộ (biết
được), đó gọi là ‘khai ngộ’. Nếu bạn có rất nhiều
lỗi lầm mà tự ḿnh không biết, đó là bạn mê hoặc
điên đảo; nếu bạn biết được lỗi
lầm của ḿnh th́ bạn đă ‘khai ngộ’. Đem những lỗi lầm này sửa
đổi lại gọi là ‘chân tu’, thế mới gọi
là ‘tu hành’.
Cung kính người
thiện, ưa thích chuyện thiện, ca ngợi chuyện
tốt của người, đây gọi là ‘đức’;
tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, đại từ
đại bi, gọi là ‘đắc đạo’. Tất cả đều ở
trong đời sống b́nh thường hàng ngày, đâu có
ǵ huyền diệu và kỳ lạ?
Cho nên phải hết sức hiểu rơ, kiểm điểm,
và phản tỉnh, sửa đổi lại hành vi, phải
làm mỗi ngày, bất cứ lúc nào cũng phải luôn luôn
ghi nhớ và làm theo.
3. Thứ ba là diễn
thuyết cho mọi người biết
Diễn là biểu
diễn, chữ này được dùng rất nhiều trong
những buổi nói chuyện của chúng ta. Phật Bồ Tát là gương tốt
nhất cho chúng sanh hữu t́nh trong chín pháp giới. Họ đều là gương tốt
nhất cho chúng ta bắt chước theo. Họ biểu diễn cho chúng ta
xem; biểu diễn những ǵ?
Đây không phải là biểu diễn ở trên sân khấu,
mà là biểu diễn trong đời sống, trong công việc,
trong sự đối đăi tiếp xúc với người
và sự việc, trong lời nói và hành vi. Làm gương cho người khác
noi theo, để cho người ta nh́n thấy th́ sanh tâm
cung kính, ngưỡng mộ, và bắt chước theo,
đây gọi là ‘diễn’.
‘Thuyết’
là giảng kinh thuyết pháp, sự giảng kinh thuyết
pháp này có phạm vi rất rộng lớn. Trong kinh thường nói không phải
kêu bạn giảng toàn bộ kinh, bất kể khi gặp
người nào th́ giảng một câu kinh, nửa bài kệ
(hai câu kệ) khuyên người ta; khi thiện căn chín muồi
th́ khuyên người niệm Phật, nếu thiện
căn không đầy đủ th́ khuyên người ta dứt
ác tu thiện, tự cầu phước đức cho ḿnh
(cho người đó).
Thí dụ khi
bạn bè gặp nhau, bạn hỏi họ muốn phát tài
không? Tôi biết phương
pháp để phát tài, bạn muốn nghe không? Phát tài là chuyện ai cũng muốn
nghe, mới nói th́ ai cũng có hứng thú muốn nghe liền. Làm sao để phát tài? Tu bố thí tài th́ được
giàu có, phạm vi của bố thí tài rất rộng, không
phải kêu bạn đem tiền tài đi quyên cho người
khác mới gọi là bố thí tài; đó là hiểu sai rồi. Bố thí tài là dùng tài vật một
cách thích đáng để làm lợi ích cho xă hội, cho mọi
người, đây là bố thí một cách chân thật.
Ba thứ
trên đây là chuyện Phật thường hay nói đến
trong kinh điển: ‘thọ tŕ, đọc tụng, diễn
thuyết cho người khác biết’, chúng ta phải hiểu
được ư của Phật, phải biết làm cách nào
mới có thể đạt được lợi ích chân
thật của Phật pháp.
C̣n một chuyện quan trọng mà trong kinh thường
nói, đó là ‘chúng vụ’, lỗi lầm liên quan đến
việc này cũng rất lớn.
‘Chúng vụ’
là ǵ? Thích làm việc, thích kinh
doanh và tạo ra thật nhiều sự nghiệp, Phật
nói đó là lỗi lầm.
Trong kinh Phật đă từng nói qua, Phật cử ra
một thí dụ ‘Nếu có Bồ Tát’, Bồ Tát này là Bồ
Tát không có trí huệ, kinh doanh rất nhiều sự nghiệp,
tôi cử ra một thí dụ, thí dụ như làm ra bảo
tháp, điều này có ư giống sự xây dựng đạo
tràng; Người xưa
thường nói tạo tháp cúng Phật th́ phước báo
vô biên; đức Phật nói người này tu phước
cho dù tạo ra tháp bằng bảy báu ở khắp tam thiên
đại thiên thế giới, Thế Tôn nói: ‘Ta gặp vị
Bồ Tát này sẽ không sanh tâm hoan hỷ, đó không phải
là chân chánh cúng dường ta, và cũng không phải là cung
kính đối với ta’.
Xem đoạn
kinh này, chúng ta nhớ đến việc vua Lương Vơ Đế
gặp Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ thứ nhất
của Thiền Tông Trung Quốc.
Vua Lương Vơ Đế là đệ tử tại gia
và đă thọ giới Bồ Tát.
Vua đă xây tổng cộng 480 ngôi chùa rất lớn
và thích khuyên người đi xuất gia, vua đă độ
tổng cộng đến mười vạn người
xuất gia. Vua dùng oai quyền và tài lực của một
ông vua để xây dựng chùa và cúng dường người
xuất gia.
Vua
Lương Vơ Đế cảm thấy rất tự hào về
chuyện này, muốn khoe với Tổ Đạt Ma và hỏi
‘Công đức của tôi lớn không?’. Tổ Đạt Ma là người thật
thà, giống như trong kinh nói: ‘tâm thanh tịnh v́ chúng sanh
thuyết pháp’, nên trả lời rằng: ‘Không có công đức
ǵ hết!’. Vua Lương Vơ Đế
nghe xong câu này th́ không được vui, như bị tạt
thau nước lạnh lên đầu, rất thất vọng
nên nói: ‘Được rồi, tôi sẽ không hộ pháp cho
ông’. V́ thế Sơ Tổ Đạt
Ma phải lên chùa Thiếu Lâm ngồi đối mặt vào
tường hết chín năm mới truyền y bát cho Tổ
Huệ Khả!
Giả sử
năm xưa nếu Tổ Đạt Ma có thể tùy thuận
theo nhân t́nh và nói với vua Lương Vơ Đế: ‘Công đức
của nhà vua rất lớn’ th́ chẳng lẽ vua
Lương Vơ Đế không hộ pháp cho Tổ Sư sao? Nhưng một người chân
chánh tu hành tuyệt đối không v́ danh văn lợi
dưỡng mà nói ngược lại chánh pháp. Chuyện ngài nói là chánh pháp, cho nên
vua Lương Vơ Đế xây 480 ngôi chùa mà không có công đức. Trong kinh đức Phật nói nếu
bạn xây tháp bảy báu khắp hết tam thiên đại
thiên thế giới th́ cũng không có công đức.
Đạo lư ở chỗ nào? Đây là như phía trước có nói
‘Không phải là lợi ích chân thật’. Đây không phải là lợi ích chân thật,
không như pháp, không thể liễu sanh tử, và cũng
không thể chứng niết bàn, đối với những
chuyện này không liên can! Những
chuyện này nói dễ nghe một chút th́ là phước
đức, phước đức hữu lậu của lục
độ chúng sanh, không có dính líu ǵ với công đức hết. Cho nên những pháp mà Thế Tôn dạy
cho Bồ Tát đều nhất định phải phù hợp
và tương ứng với ‘ba la mật’ (nghĩa của
ba la mật là đến bờ bên kia, viên măn, hoàn hảo).
Việc xây bảo tháp khắp tam thiên đại thiên thế
giới cũng không bằng giảng cho người khác
nghe bốn câu kệ, như trong kinh Kim Cang có nói: ‘Cho đến
thọ tŕ bốn câu kệ’, trong kinh Kim Cang có rất nhiều
thí dụ như vậy.
Kinh Vô Lượng Thọ nói c̣n hay hơn nữa:
‘Giả
linh cúng dường Hằng sa thánh. Bất như kiên dũng
cầu Chánh giác’,
(‘Nếu
như cúng dường chư thánh nhiều như cát sông Hằng,
cũng không bằng kiên quyết dũng mănh cầu thành Phật’
).
Hàng thánh của
Tiểu thừa là A La Hán, của Đại thừa là từ
hàng ‘Địa’ Bồ Tát trở lên, Đẳng giác Bồ Tát, và
chư Phật Như Lai; bạn cúng dường những vị
thánh nhân này số nhiều như cát sông Hằng, Phật
nói không bằng niệm Phật cầu sanh tây phương
Cực Lạc thế giới. Tại sao vậy? V́ niệm Phật cầu sanh tây
phương Cực Lạc thế giới là lợi ích chân
thật, lợi ích vĩnh viễn, khi sanh đến Cực
Lạc thế giới viên chứng tam bất thoái trong một
đời sẽ thành Phật.
Cho dù nói là
không thành Phật, thời gian ở Cực Lạc thế
giới làm Bồ Tát, bạn sẽ là A Duy Việt Trí Bồ
Tát (Bồ Tát không thoái chuyển), bạn sẽ có trí huệ,
thần thông, và năng lực để độ tận
tất cả chúng sanh có duyên với bạn trong khắp
hư không pháp giới, bạn có thể giúp đỡ họ;
nếu bạn cúng dường Hằng sa thánh th́ cũng chỉ
tu được một chút phước thôi, trí huệ và
đức năng của bạn không thể hiện ra, bạn
không những không thể độ chúng sanh, mà tự ḿnh cũng
không độ được; chuyện này Lục Tổ
Huệ Năng nói rất hay: ‘Sanh tử đại sự,
phước không thể cứu được’. Cho dù phước lớn hơn nữa
cũng không thể liễu sanh tử, bạn cũng không
thể ra khỏi luân hồi.
Muốn liễu
sanh tử thoát khỏi luân hồi th́ phải tu và tích lũy
công đức mới được; trong các thứ công
đức không có ǵ sánh bằng niệm Phật cầu sanh
Tịnh độ. Tại sao
tâm nguyện thù thắng của ḿnh phát không được? Phiền năo tập khí c̣n rất nặng
vẫn là đoạn dứt không được; tâm vẫn
không thể tịnh được, đây là v́ nghiệp
chướng tập khí của chúng ta từ vô thỉ kiếp
đến nay quá nặng và gây ra chướng ngại cho
chúng ta.
Chúng ta rất
muốn tâm được thanh tịnh, rất muốn
tương ứng với Phật, nhưng làm không
được; làm không được tại sao gặp
được pháp môn này? Tại
sao gặp được bộ kinh này? Nói một cách khác, chúng ta có thể
gặp được pháp môn này và bộ kinh này, thiện
căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta
đă thành thục (chín muồi).
Sau khi gặp được, muốn làm mà làm không
được, đây là v́ nghiệp chướng sâu nặng,
tuy có đầy đủ nhân duyên nhưng c̣n một số
chướng ngại, chỉ cần chúng ta dẹp xong
chướng ngại này th́ chúng ta sẽ thành công.
Dùng
phương pháp ǵ để dẹp tan chướng ngại? Đọc tụng. Nếu có vài người bạn
có cùng chung chí hướng khi gặp nhau nên thường
nghiên cứu thảo luận; nhất định đừng
có tự ái, hăy đem lỗi lầm của ḿnh nói ra, phát lộ
sám hối. Hai ba người bạn
cùng chung kiểm điểm thật t́nh để t́m ra sự
sai lầm, tất cả cùng nhau nghiên cứu thảo luận
để khắc phục những tập khí phiền năo
này.
Thiện
căn, phước đức, và nhân duyên của chúng ta
trong đời này vừa đúng lúc đă chín muồi, chỉ
tại một chút chướng ngại này cản trở;
đem dẹp chướng ngại này đi th́ chúng ta sẽ
thành công, quan trọng là ở chỗ này. Cho nên phải ghi nhớ thật kỹ
ba điều: ‘Thọ tŕ, đọc tụng, diễn
thuyết cho người khác biết’. Công đức này không biết lớn
hơn gấp bao nhiêu lần việc vua Lương Vơ Đế
xây dựng 480 ngôi chùa. Đức
Phật nói nếu có người xây tháp bằng bảy báu
đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới
th́ cũng không sánh bằng bạn đâu.
Mỗi lời
nói của đức Phật đều là chân thật;
chúng ta kể cả cá nhân của tôi mỗi người
đều có rất nhiều tập khí và phiền năo, muốn
sửa đổi mà sửa không hết. Tôi có một lợi điểm là
mỗi ngày giảng kinh cho đại chúng, có rất nhiều
cơ hội để phản tỉnh. Nếu không diễn thuyết cho
người khác, cơ hội để phản tỉnh của
bạn ít đi; nếu thường khuyên người khác
đương nhiên cũng là khuyên ḿnh, đây có đạo
lư nhất định. Hy vọng
là chúng ta nhắm vào phương hướng này, mục
đích này, nỗ lực gắng sức th́ ba ngày họp mặt
này sẽ rất có ư nghĩa và có thể giúp chúng ta tiêu trừ
rất nhiều chướng duyên ở trước mặt. Biết phải tu hành như thế
nào mới là công đức chân thật, mới là lời
chân thật của Phật đă dạy cho chúng ta.
Trong quá tŕnh chuyển ngữ chắc
không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả
hoan hỷ phủ chính cho.
Xin thành thật cám ơn.
Một nhóm Diệu Âm cư sĩ,
6-15-2001
PHỤ LỤC
Các bà nội trợ làm cách nào để
tu Bồ Tát đạo ngay trong đời sống hàng ngày.
Mỗi ngày
làm một số công việc lập đi lập lại
hoài nhất định sẽ cảm thấy buồn chán,
nhất là những bà nội trợ h́nh như vĩnh viễn
cảm thấy không có ngày nào giải thoát ra được,
rất nhiều người cảm thấy quá khổ
năo! Nếu như có thể
đem quan niệm này đổi ngược lại th́ sẽ
cảm thấy vô cùng sung sướng. Trong quan điểm thông thường
của phàm phu chúng ta có cái ‘ngă’ (tôi).
Tôi đang làm, tôi rất khổ, tại sao tôi phải
làm cho họ hưởng? Càng
suy nghĩ phiền năo càng nhiều.
Nếu học Bồ Tát đạo, phát nguyện phổ
độ chúng sanh, th́ cách nh́n cách suy nghĩ của họ sẽ
khác liền.
Hành Bồ
Tát đạo đầu tiên là phải tu ‘bố thí ba la mật’. Những bà ‘nội trợ Bồ
Tát’ trong khi săn sóc lo lắng phục vụ cho mọi
người trong gia đ́nh là đang tu bố thí ba la mật
đó. Bố thí gồm có bố
thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô uư. Bố thí tài có nội tài và ngoại
tài. Ngoại tài là kiếm tiền
cúng dường nuôi duỡng người trong nhà. Nội tài là dùng sức lực và
đầu óc của ḿnh phục vụ cho người trong
nhà. Làm việc nhà có đầy
đủ hết ba loại bố thí này. Nếu bạn sắp xếp dọn
dẹp trong nhà được gọn gàng sạch sẽ làm
cho mọi người trong nhà rất thoải mái dễ chịu,
hàng xóm láng giềng phải hâm mộ khen ngợi, đây là
‘tŕ giới ba la mật’. Tŕ giới
nghĩa là giữ luật lệ.
Bạn có đủ nhẫn nại để làm, không
cảm thấy mệt nhọc, đây là ‘nhẫn nhục
ba la mật’. Mỗi ngày phải
cải tiến hy vọng là ngày mai sẽ được tốt
hơn hôm nay, đây là ‘tinh tấn ba la mật’. Tuy mỗi ngày làm rất nhiều
việc trong nhà, tâm địa vẫn thanh tịnh, một
tí ǵ cũng không nhiễm, đây là ‘thiền định ba
la mật’. Tâm thanh tịnh
thường sanh trí huệ, pháp hỷ sung măn, đây là ‘bát
nhă ba la mật’. Như vậy
th́ biết rằng, tất cả lục độ ba la mật
của Bồ Tát đều nằm trong sự lau bàn, quét
nhà, giặt áo, nấu cơm, tất cả đều thành
tựu viên măn. Đây cũng giống
như trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử biểu
diễn đi học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Bạn
đem công việc nhà làm được tốt đẹp
tức là làm gương tốt cho tất cả bà nội
trợ trên thế gian, cho tất cả gia đ́nh. Như vậy có thể độ
được người hàng xóm, mở rộng ra th́ có
thể ảnh hưởng đến xă hội, quốc
gia, thế giới, cho đến
tận hư không biến pháp giới. Cho nên mới biết Bồ Tát ở
nhà quét dọn, lau bàn, nấu cơm, giặt áo đều
là đại nguyện đại hạnh độ tất
cả chúng sanh trong hư không pháp giới. Đây là học Phật, là chánh niệm,
là thật tướng của chư pháp, nếu có thể
quan sát như vậy th́ sẽ đạt được pháp hỷ sung măn (niềm vui của
đạo) th́ làm sao c̣n sanh phiền năo nữa! Học Phật nhất định
phải đem thực hành trong đời sống sanh hoạt
thường ngày, nếu không như vậy th́ vô dụng. Nếu hiểu được
điểm này rồi từ đó suy ra, đi làm ở công
ty th́ cũng tu lục độ ba la mật. Bồ Tát ở mọi ngành mọi
nghề, thị hiện ra người nam, nữ, già, trẻ,
thân phận vai tṛ không giống nhau, đều trong môi
trường sinh hoạt của ḿnh tu học, tất cả
đều b́nh đẳng giống nhau, tất cả đều
đứng hạng nhất, không có hạng nh́.
Hồi hướng
Nguyện
đem công đức này trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên báo bốn
ân nặng, dưới độ ba đường khổ
Nếu có
người nghe được đều phát Bồ Đề
Tâm
Đến hết
báo thân này đồng sanh Cực Lạc quốc