|
Niệm Phật hoài cảm
Từ năm Hàm Phong thứ mười trở đi, Côn tôi gặp phải cơn binh đao lớn, hận ḿnh học nhiều nhưng chẳng thành tựu được ǵ, khó chịu đựng nổi nghịch cảnh. Dẫu có giải ngộ được đôi chút, nhưng đó vẫn chỉ là kiến giải phát sanh từ Ngă Kiến. Nếu tôi chẳng sanh ḷng thẹn hổ lớn lao, gột rửa lỗi trước th́ làm sao trong đời này thoát khổ được nổi? Nhân đấy, tôi sanh tâm khẩn thiết, tận lực học đ̣i pháp môn Chuyên Tu của ḥa thượng Thiện Đạo, muốn trong đời này sẽ quyết định văng sanh. Mỗi lần thấy kẻ học thức chẳng biết danh hiệu A Di Đà có đầy đủ hết thảy diệu đức bèn nói ngạo ngược Tịnh Độ là pháp môn chấp trước, phá phế các tông khác, tôi chẳng thể nén nổi nỗi buồn! Đấy chẳng qua chỉ là những kẻ bất tiếu, chướng sâu học cạn nên chẳng thể ngợi khen Phật đức nổi. Bởi thế, đối với mỗi đức tánh của pháp Niệm Phật, tôi soạn thành từng bài tụng rơ ràng ngơ hầu người đời sau biết cách thâu thập những điểm thâm yếu của nhiều môn để tạo thành tâm chí chuyên nhất, khẩn thiết, hoàn thành việc cầu sanh Tịnh Độ ngay trong một đời. Đây chẳng những là tấm ḷng mong cho hành nhân không c̣n ư niệm chống phá, phế bỏ nữa mà thật sự c̣n là tấm ḷng cảm kích thâm ân bất tận, ḷng tin vào các môn đến mức cùng cực vậy. Giữa mùa Hạ năm Quang Tự thứ tám, học nhân Luyến Tây Cổ Côn kính đốt bốn mươi tám lọn hương trên cánh tay để cúng dường Phật A Di Đà, rập đầu kính tụng như sau:
Tưởng nhớ các vị tổ sư của Tông Môn
Tông môn tổ sư, Thiết tha truyền dạy: “Linh linh bất muội, Liễu liễu thường tri” Con do ngu si Chẳng nhận lănh nổi V́ thế phát tâm Tŕ danh đến chết
Hoài cảm Quốc Thanh thiền đường
Con trụ thiền đường Cảm ân thậm thâm Tuy chưa đại ngộ Muốn chứng chơn tâm Phổ khuyến niệm Phật Thật v́ việc ấy Cứu cánh thế nào? Một câu Di Đà
(Nếu có kẻ hỏi: Chơn tâm vốn sẵn có, làm sao lại bảo là “đắc”? Đáp: Há chẳng nghe ngài A Nan nói: “Chẳng trải qua a tăng kỳ kiếp để chứng Pháp Thân” (bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân), “hoạch” chính là “đắc”! Pháp Thân chính là chơn tâm. Tổ Triệt Ngộ nói: “Đúng là do nhơn mà đắc; nhưng đối với quả sẽ chứng sau này th́ có thể định kỳ hạn được”. Chơn nhân chẳng phải là chơn tâm hay sao? Huống hồ kinh Đại Bi c̣n dạy phát nguyện như sau: “Nguyện con sớm được mắt trí huệ”. Mắt trí huệ chính là chơn tâm. Như vậy, chịu niệm Phật là đạt được chơn tâm, là đắc trí huệ)
Nghĩ đến kinh Lăng Nghiêm
Lúc làm sa di Đọc kinh Lăng Nghiêm Tới chỗ gơ chuông (2) Đă biết tâm nguyên Nhân đấy cầu giới Lănh thọ mà hành Mau báo ân này Chỉ có tŕ danh.
Nghĩ về kinh Viên Giác
Lớn thay Viên Giác Càng đọc càng ngấm Pháp trạch đượm nhuần Mừng lộ ra mặt Cực lực tŕ danh Bắt nguồn từ đấy Muốn mau báo đáp Mới học si ngốc
Nghĩ về kinh Hoa Nghiêm
Tôi đọc Hoa Nghiêm Tự hiềm quá rộng Muốn được ở trong Pháp môn đơn giản Đốn khai Bảo Tạng Hợp khắp quần cơ Bổn thể bất động Ân ấy khó báo Nên tụng Di Đà
Hoài cảm pháp sư Khuê Phong
Tôi đọc bộ sách Viên Giác Lược Sớ Của ngài Khuê Phong Cảm ân chẳng nhỏ
Thọ dụng vô số Biết “tri” là thể Để báo ân ấy Tŕ danh chẳng ngơi
Nghĩ đến tông chỉ của tông Thiên Thai
Tôi lănh hội được Tông chỉ ThiênThai Ân như cứu mạng Mới biết nhất niệm Gồm trọn tam thiên Nhất lư b́nh đẳng Thiện, ác như nhau V́ thế tŕ danh Tâm bền đến chết
Hoài cảm kinh Phạm Vơng Giới
Phạm Vơng Giới kinh Công đức khôn sánh Tôi vừa thọ tŕ Liền được lợi ích Nên biết phá giới Ắt mất thân người Tuy chuyên tŕ danh Lư vốn vẫn một
Nghĩ về Đại Bi thần chú
Thần chú Đại Bi Công đức khó lường Tôi vừa tụng tŕ Đă gội ân đức V́ thế phát tâm Hành pháp triệt để Phật hiệu khôn lường Tương hợp khít khao
Nghĩ về các vị thánh tổ sư Tịnh tông
Tịnh Độ tổ sư Bi tâm tha thiết Khuyên con tŕ danh Mổ tim vẩy máu (3) Mới chịu chuyên tu Chẳng tạp hết thảy Ngay trong đời này Tu hành viên măn Toàn nhờ đức này
Nghĩ về người đại lực lượng (Chữ “người đại lực lượng” chỉ người có khả năng giáo hóa rộng lớn)
Người đại lực lượng Năm tông đề cao Gặp căn cơ nào Sẽ nói pháp ấy Như thuốc trị bịnh Trăm bịnh lành trăm Tôi thẹn chướng sâu Đành riêng tự dụng
Nghĩ về việc phá phạm hai giới
Tôi phạm hai giới Thẹn hổ khôn cùng Một: trộm kinh thư Hai: tổn sanh mạng Chỉ sợ lâm chung Ác báo khó ngăn Nhân đấy niệm Phật Chẳng dám trọng lư
Nghĩ ḿnh cô phụ mọi người
Tôi thẹn đời này Phụ người chẳng ít Chẳng sanh Tây Phương Ắt khó sạch oán Bởi vậy lập thệ Dũng mănh tŕ danh Nguyện sớm văng sanh Chóng độ người khác
Hoài cảm ân đức cha mẹ
Cha mẹ sanh con Ân đức khôn tày Lẽ nên hiếu dưỡng Đến chết mới thôi Trốn đi xuất gia Sống chết chẳng quản Chẳng sanh Tây Phương Diêm Vương ắt giận
Hoài cảm ân sư thế độ
Khi con xuất gia Áo cơm chẳng đủ Nợ nần chẳng ít Oán kết vô số Được thầy xuống tóc Bỗng nhiên đại phú Quyết báo ân này Phải tu Tịnh Độ
Hoài cảm quốc vương hộ pháp
Tam Bảo trụ thế Toàn nhờ quốc vương Mới được tự do Ṿi vọi bệ vệ Ân đức như thế Thật sự khó lường Nếu chẳng niệm Phật Tội lỗi phi thường
Nghĩ đến ân thí chủ cúng dường
Tôi thẹn tu hành Chẳng lo nổi thân May nhờ thí chủ Hết sức hỗ trợ Dù cơm hay áo Không chi chẳng tặng Chẳng sanh Tây phương Ắt sẽ khó báo
Nghĩ đến sư huynh đă đề bạt ḿnh
Sư huynh Kính Phong Là thiện tri thức Dạy tụng Viên Giác Và dạy quy Thích Và chỉ tham học Ân đều bậc nhất Phải thấy Di Đà Mới báo đáp nổi
Nghĩ đến các đồng học đă giúp đỡ ḿnh
Tôi niệm Di Đà Nhờ các đồng học Lời tôi nói ra Coi như diệu dược Thường có bốn sự Ai cũng sẵn ḷng Thay mặt làm cho Ân sâu như thế Làm sao dám quên?
Nghĩ đến thiên thần hộ pháp
Thiện ác báo ứng Thiên thần chép ghi Phật pháp xuất hiện Thiên thần thường hộ Nên tôi ngày nay An nhiên như ư Chẳng sanh Tây Phương Thật chẳng dám trụ
Nghĩ đến quan viên hộ pháp
Quốc vương hộ pháp Nhờ các quan viên Ra tay hỗ trợ Trừ khử tà thiên Khiến các tự viện Đều được an nhiên Phải tu Tịnh nghiệp Mới báo ân này
Đốt hương trên cánh tay để khen ngợi khuyên quy hướng Tịnh Tông
Lại dùng bốn mươi tám lọn hương đốt cánh tay cúng dường hết thảy các chúng sanh. Chỉ nguyện chúng sanh đều hoan hỷ nghe tôi lược nói lời tối trọng yếu: Ai nấy đều có tâm Đại Giác, cớ sao đời đời bị sự ác lôi kéo, khác nào một viên như ư châu bị ném vào trong bùn nhơ vô số năm. V́ thế, đức Thích Ca phát đại thệ nguyện: thường ở trong cơi Sa Bà hóa độ chúng sanh. Ngài dạy Tông, giảng Giáo và nói Luật. Không có câu nào là chẳng nói đến cái tâm này. Ngài c̣n nói ra danh hiệu Phật Vô Lượng Quang Thọ để trực hiển cái tâm này. Danh hiệu ấy có công dụng không chi sánh bằng; mười phương chư Phật đều cùng khen ngợi, khuyên lơn ai nấy đều phải nên tin nhận, đừng ngờ vực. Cần phải biết nay là lúc ngũ trược mạnh mẽ đến cùng cực, tâm chúng sanh hừng hực tạo ác; thậm chí đối với chuyện phát tâm tu hành cũng có lắm nỗi thị phi bừng bừng! Thương thay, lúc này làm thân con người sao mà thật thê thảm, thật cực khổ quá. Nếu chẳng có một câu A Di Đà Phật th́ nhất định sẽ chẳng thể thoát khỏi vực khổ nổi! Sách Di Đà Yếu Giải giảng về năm thứ trược này bằng những lời máu lệ chứa chan. Kính xin những học nhân trong tông ta nên đọc kỹ những lời ấy để tự răn nhắc ḿnh. Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Chúng ta ở trong đời Kiếp Trược quyết định bị hạn chế bởi thời gian, bị khổ sở bức bách. Nếu không có pháp tu để mang theo nghiệp vượt ngang [ra khỏi tam giới] th́ ắt sẽ chẳng thể giải thoát được. Ở trong đời Kiến Trược th́ quyết định bị tà trí trói buộc, nếu chẳng nhờ vào hạnh phương tiện th́ ắt sẽ chẳng thể giải thoát nổi. Ở trong đời Phiền Năo Trược th́ quyết định bị tham dục vây hăm, bị ác nghiệp cắn rứt; nếu chẳng có pháp tu khiến cho tâm phàm biến ngay thành tâm Phật th́ ắt sẽ chẳng thể giải thoát được. Ở trong Chúng Sanh Trược th́ quyết định sẽ vùi lấp trong xú uế chứ chẳng thể giác ngộ rỗng suốt được, cam đành liệt nhược chẳng thể bay bổng lên nổi; nếu chẳng có pháp tu hân yểm (ưa Cực Lạc, chán Sa Bà) này th́ ắt sẽ chẳng thể giải thoát nổi. Ở trong đời Mạng Trược th́ quyết định bị vô thường nuốt mất, [giống như] lửa xẹt ra từ đá, như ánh sáng của tia chớp, trở tay không kịp; nếu chẳng có pháp tu chẳng phí thời kiếp, chẳng cần phải siêng khổ th́ ắt sẽ chẳng thể giải thoát nổi. Lại nữa, chỉ nên dùng ḷng tín nguyện này để trang nghiêm một câu A Di Đà Phật ḥng chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Năo Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ. V́ thế, một câu A Di Đà Phật chính là pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà đức Bổn Sư Thích Ca đă chứng được ngay trong đời ác ngũ trược này. Nay ngài đem toàn thể Quả Giác ấy trao cho chúng sanh trong đời trược ác. Đấy là cảnh giới sở hành của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới biết trọn vẹn nổi, chứ chẳng phải là do tự lực mà cửu giới có thể tin hiểu được nổi!” Nếu chẳng thể biết sâu xa rằng Tịnh Độ là một pháp rất khó th́ sẽ cho rằng có riêng một pháp nào khác để xuất ly ngũ trược, rồi cứ hư luận om ṣm trong căn nhà lửa cháy hừng hực. Nếu hiểu được rằng Tịnh Độ là một pháp rất khó th́ mới chịu dẹp yên cái tâm đèo bồng, trân quư một hạnh này. Bởi vậy, đức Bổn Sư mới hết lời bảo pháp này rất khó; cốt ư là khiến cho bọn ta được hiểu rơ.
Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết hết Chú Thích
(1) Giải Thất: Định hạn niệm Phật trong 7 ngày gọi là Niệm Phật Thất; ngày hoàn tất một kỳ Niệm Phật Thất gọi là “giải thất”. Bắt đầu kết thất không tiếp ai nên gọi là “bế quan” hay “phong quan”. Khi giải thất, ra khỏi khu vực kết thất, tiếp xúc với mọi người th́ gọi là “tấn quan” hay “xuất quan”. Khu điện đường để hành giả kết thất tĩnh tu niệm Phật cũng gọi là Di Đà Quan. (2) Trong kinh Lăng Nghiêm có chỗ Phật sai ngài La Hầu La đánh chuông để dùng tánh nghe chỉ dạy chơn tâm. (3) Ư nhắc đến câu nói trong sách Di Đà Yếu Giải của tổ Linh Phong Ngẫu Ích: “Hoa Nghiêm sở bẩm khước tại thử kinh, nhi thiên hạ cổ kim tín diểu nghi đa, từ phồn nghĩa dung; dư duy hữu phẫu tâm lịch huyết nhi dĩ” (cụ Tuệ Nhuận dịch: “Phép dạy tu trong kinh Hoa Nghiêm lại ở ngay trong kinh này mà thiên hạ xưa nay tin th́ ít, nghi th́ nhiều, lời càng rậm, nghĩa càng tối; vậy tôi chỉ c̣n có một cách là mổ tim vẩy máu ra để các ngài rơ mà thôi, không c̣n cách nào hơn nữa”) (4) Ba la đề mộc xoa (pratimoksha): Giới luật của 7 chúng thọ tŕ. Giới này nhằm ngăn ngừa và che chở các căn, tăng trưởng thiện pháp nên gọi là Ba La Đề Mộc Xoa (dịch nghĩa là Tùy Thuận Giải Thoát, Biệt Giải Thoát hoặc Vô Đẳng Học) (5) Ngũ thời: Tổ Trí Khải đă chia một đời giáo pháp của đức Thích Tôn thành năm thời: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă, và Pháp Hoa - Niết Bàn. (6) Bát giáo: Theo tông Thiên Thai, Bát Giáo gồm tứ giáo hóa nghi và tứ giáo hóa pháp. Tứ giáo hóa nghi là Đốn, Tiệm, Bất Định; tứ giáo hóa pháp là Tạng, Thông, Biệt, Viên. (7) “Hôm nay Trương Tam, ngày mai Lư Tứ”: Thành ngữ Trung Hoa, ngụ ư: nay vầy mai khác. (8) Khai, giá, tŕ, phạm: Các khái niệm trong Giới Luật. Khai là là tạm chấp nhận, tạm tha cho; giá (hoặc c̣n đọc là già) là ngăn cấm nghiêm nhặt. Tŕ là giữ ǵn giới luật; phạm là hủy phạm. Nói chung, đây là những trường hợp dùng để phán định hành nhân là tŕ giới hay phá giới. (*) Chí Đức năm thứ ba là năm Ất Tỵ (585), nhằm đời vua Trần Hậu Chủ.
|