Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết

Luyến Tây học nhân Ngọc Phong Cổ Côn soạn

 

Bốn yếu quyết lớn của việc niệm Phật là:

1. Chẳng tham tịnh cảnh.

2. Chẳng tham cứu câu “người niệm Phật là ai?”

3. Chẳng trừ vọng tưởng

4. Chẳng cầu nhất tâm.

 

Chỉ cốt chí thành khẩn thiết, mỗi ngày hạn định số câu niệm Phật nhiều ít, niệm cho đến chết th́ nhất định sẽ văng sanh Tây Phương Cực Lạc. Cần biết rằng mỗi ngày hạn định số câu niệm Phật nhiều hay ít, rồi niệm cho đến chết th́ đấy chính là chí thành, khẩn thiết, mới có thể báo đáp ân sáu phương chư Phật đă khuyên lơn, khen ngợi, hộ niệm; báo đáp ơn đức Bổn Sư Thích Ca thuyết pháp trong đời ác, báo ân Phật A Di Đà đại nguyện phổ độ. Nay nếu người niệm Phật không có bốn yếu quyết này th́ nhất định sẽ chẳng niệm Phật thành công.

Nếu tham tịnh cảnh th́ nhất định sẽ coi sự nhẹ nhàng, an vui trong khi tịnh tọa là kỳ đặc, cực lực coi chuyện tŕ danh là tầm thường. Nếu tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” th́ nhất định sẽ coi chuyện khai ngộ, thông minh mới là kỳ đặc, xem chuyện thấy Phật văng sanh là tầm thường. Hễ trừ vọng tưởng th́ sẽ nhất định coi biệt pháp xảo niệm là kỳ đặc, xem chuyện ṛng rặt niệm Phật ghi số là chuyện tầm thường. C̣n nếu cầu Nhất Tâm th́ nhất định sẽ coi nhất tâm bất loạn là kỳ đặc, xem chuyện mở miệng tán niệm là chuyện tầm thường. Lấy chánh làm tà, lấy sai làm đúng, chẳng phải là điên đảo quá mức hay sao? Bốn căn bịnh lớn ấy hễ phạm phải đôi chút ắt sẽ khó văng sanh.

Nói “chẳng cầu nhất tâm” ắt sẽ có kẻ nghi ngờ: “Nhất tâm bất loạn là giáo thuyết dạy trong kinh Di Đà. Tán tâm niệm Phật là điều bị tổ sư quở trách, sao lại bảo là lấy chánh làm tà, lấy sai làm đúng?”

Xin đáp: “Đáng tiếc là ông chưa thường niệm Phật lâu ngày. Nếu thường niệm Phật lâu ngày th́ ắt sẽ biết là nhất tâm bất loạn quyết định là do tán tâm niệm Phật mà thành, lẽ đâu lại coi là chuyện tầm thường! Nếu đă chẳng  tán tâm niệm Phật từ trước th́ làm sao thành tựu nổi nhất tâm? Nếu ai quả thực có thể thường tán tâm niệm Phật lâu ngày chẳng lui sụt th́ sẽ tự nhiên thành tựu nhất tâm.

Ví như nho sĩ có mấy ai thành tựu được ngay tài văn chương, chẳng mấy ai là không phải đọc sách trước đă. Như vậy chẳng phải là lấy chánh làm tà, lấy sai làm đúng hay sao? Chẳng đọc sách trước th́ làm sao kết thành tài văn chương; cho nên phải chịu đọc sách trước đă th́ mới thành tài văn chương được nổi!

Ví như học nghề phải từ bỡ ngỡ cho đến khi thuần thục, hễ thuần thục rồi th́ mới thành khéo. Không ai là chẳng phải chịu học nghề trước rồi mới thành thợ khéo sau!

Tán niệm với số câu nhất định mà c̣n chẳng chịu học th́ sao mà thành tựu nổi nhất tâm bất loạn cho được! Tu học như vậy th́ khác ǵ cây không rễ lại muốn tươi tốt, chim không cánh lại muốn bay được! Xin hăy suy nghĩ kỹ càng, xin hăy suy nghĩ kỹ lưỡng!

Tôi từng thấy nhiều vị thầy khác cứ đem chuyện Nhất Tâm Bất Loạn làm nản chí không ít kẻ học nhân, cứ bảo họ đời này nếu chẳng đạt được nhất tâm th́ đừng mơ tưởng Tây Phương nữa. Đó đều là v́ thuyết pháp nhưng chẳng biết sự dễ, việc khó vậy! Tán tâm niệm Phật là dễ, nhất tâm là khó. Bỏ cái dễ lấy cái khó há chẳng phải là bàn xằng hay sao?

Chẳng trừ vọng tưởng là v́ vọng tưởng chính là pháp thuộc về ư, bậc thánh nhân đă đạt quả vị c̣n khó trừ được, huống hồ là kẻ phàm phu làm sao có thể trừ được vọng tưởng ngay từ đầu nổi? V́ thế tôi có bài kệ như sau:

 

Cảm Phật thâm ân, tụng Phật danh,

Bất tu diệu quán, bất tham tâm

Nhậm bằng ư địa đa tư tưởng

Thệ đảo luân châu động khẩu thần

 

(Tạm dịch:

Cảm Phật ân sâu, niệm Phật danh

Chẳng cần diệu quán, chẳng tham Thiền

Mặc cho ư khởi bao tư tưởng

Thề lần xâu chuỗi, niệm liên miên)

 

Cần phải biết rằng: Phàm phu tu hành hoàn toàn nhờ vào thân, khẩu, ư chí thành th́ tự nhiên công phu sẽ chẳng luống uổng! Bởi thế, sách Trực Chỉ viết:

Nếu có thể dốc trọn thân miệng mà niệm th́ chẳng cần biết là tán niệm hay không, chỉ cốt đừng gián đoạn th́ sẽ tự có thể đạt được Nhất Tâm, mà cũng có thể gọi là Nhất Tâm. Chỉ lấy việc thực hành chẳng thôi nghỉ làm chừng, cho nên chẳng phải lo tâm tán loạn chi hết. Xưng danh là khẩu nghiệp thanh tịnh, lần chuỗi là thân nghiệp thanh tịnh, tâm ghi nhớ số lần niệm chính là ư nghiệp thanh tịnh; đích xác là tam nghiệp thanh tịnh. Thật là đại pháp môn cực viên đốn, cực thẳng tắt vậy!”

Bởi thế, các vị Thiện Đạo, Vĩnh Minh cực lực nhấn mạnh việc ghi số. Cả hai vị Tổ đều là hóa thân của Phật Di Đà nên quyết phải lấy lời dạy của hai vị làm căn cứ vậy!

Ta nên biết rằng một pháp môn Tŕ Danh: xét về công năng th́ chú trọng ở việc mang theo hoặc chướng đi văng sanh, xét về địa vị th́ đặt nặng vấn đề “hoành siêu” (vượt ngang ra khỏi tam giới). Sáu phương chư Phật, Bổn Sư Thích Ca cùng cạn lời khuyên nên tin tưởng pháp môn Tịnh Độ chính là v́ lẽ này, mà nói chung cũng là nhờ vào đại nguyện phổ độ của đức Di Đà! Chúng sanh đời mạt chướng nặng tâm loạn muốn được ngay trong đời này thoát khổ mà lại bỏ pháp Tŕ Danh ghi số th́ quyết sẽ không c̣n môn nào nữa! 

Ngoài ra, các pháp vượt tam giới theo chiều dọc khác (thụ siêu) đều cần phải đoạn sạch tham, sân th́ mới ḥng liễu sanh thoát tử. V́ vậy, nhà Thiền nói: “Hễ c̣n mảy may nghĩ nhớ th́ thành nghiệp nhân của tam đồ”; đó là bởi tự lực khó thành vậy! Tôi từng thấy các vị sư khác khinh người niệm Phật, nói: “Lúc ngươi niệm Phật là có vọng tưởng, cho nên chắc chắn là vô dụng!” Tiếc là những kẻ học đạo ấy chưa lănh hội nổi yếu chỉ của Tịnh Tông nên chẳng biết đối đáp cách nào. Tôi bèn hỏi ngay:

“Ông chẳng niệm Phật th́ có vọng tưởng hay không?” Đáp: “Không vọng tưởng”.

Tôi lại hỏi: “Nếu ông đă không có vọng tưởng th́ không niệm Phật sẽ có ích ǵ không?”

Họ không đáp được. Tôi liền bảo:

“[Đối với người] chẳng niệm Phật, nếu đă không có vọng tưởng th́ niệm Phật thật chẳng có công dụng ǵ. Ví như trong đêm tối om, nếu không có vầng trăng sáng th́ không có đám phù vân cũng chẳng hề ǵ!

Đối với người niệm Phật c̣n có vọng tưởng th́ niệm Phật thật sự có công dụng lớn. Ví như giữa ban ngày, do vầng thái dương rực rỡ nên dẫu có tầng tầng phù vân cũng chẳng ngăn trở được ánh mặt trời chiếu tỏa khắp nơi, khiến cho người trong khắp đại địa đều được thọ dụng.

Bởi thế, ngài Linh Phong mới nói: “Tin sâu xa, nguyện khẩn thiết mà niệm Phật th́ ngay trong lúc niệm Phật nếu như tâm có nhiều vọng tưởng th́ đấy chính là Hạ Phẩm Hạ Sanh. Tuy là Hạ Phẩm Hạ Sanh nhưng cũng chẳng trở ngại chi chuyện được ở cùng một chỗ với các bậc thượng thiện nhân, cùng thọ hưởng pháp lạc”, đấy há chẳng phải là công dụng lớn lao hay sao?

V́ vậy, tôi có bài kệ như sau:

 

Nhất cú Di Đà pháp trung vương

Tạp niệm phân phân dă bất phương

Vạn lư phù vân già hách nhật,

Nhân gian xứ xứ hữu dư quang

 

(Tạm dịch:

Một câu Di Đà vua vạn pháp

Tạp niệm rối bời chẳng trở ngại

Muôn dặm phù vân che Thái Dương

Chốn chốn nhân gian vẫn rạng ngời!)

 

Lại có kệ rằng:

 

Tán loạn tŕ danh đại hữu công

U đồ mông chiếu tất giai thông

Mạc linh Phật nhật Tây sơn lạc

Na phạ mê vân bách lư trùng

 

(Tạm dịch:

Tán loạn tŕ danh công lớn thay

U đồ được chiếu thảy đều khai

Đừng cho Phật nhật ch́m sau núi

Nào sợ mây mê trăm dặm dài)

 

Người nhiều vọng tưởng mà chịu ghi số niệm Phật th́ nhất định là hạng tín nguyện kiên cố nên sẽ quyết định văng sanh, đấy chính là đại nhân duyên “nhiều thiện căn, phước đức”. Kẻ không niệm Phật dẫu bảo là không có vọng tưởng, nhưng nào có phải là không vọng tưởng mà chính là suốt cả toàn thân đều là vọng tưởng mà chẳng tự biết đó thôi!

Tiếc là không ít người lầm lạc, chẳng lănh hội nổi giáo nghĩa “nhất tâm bất loạn” của kinh Di Đà nên lắm kẻ niệm Phật bị thối thất. Ư kinh dạy: Chỉ cốt một dạ tŕ danh, chẳng bị tham, sân, vọng tưởng nhiễu loạn th́ đấy chính là Nhất Tâm Bất Loạn; chứ kinh chẳng dạy ta phải đoạn sạch vọng tưởng th́ mới được gọi là Nhất Tâm Bất Loạn.

Nếu ai đă đoạn sạch vọng tưởng th́ xét về địa vị, người ấy đă phải là bậc A La Hán. Từ ngàn xưa đến nay, các bậc đại tổ sư có mấy vị đă chứng đắc được như thế? Đạt được đến địa vị ấy th́ nhiều vị được liễu sanh thoát tử, toàn là cậy vào nguyện lực rộng sâu của chính ḿnh nên mới có thể mang theo hoặc chướng đi văng sanh, chẳng hạn như đại sư Trí Giả là một minh chứng. Đối với bậc đă thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm th́ mang theo nghiệp đi văng sanh c̣n dễ hiểu được, chứ c̣n như kẻ phàm nhân hiện thời: nghiệp chướng quá nặng, công hạnh quá cạn th́ làm sao đoạn sạch vọng tưởng cho nổi?

Phổ Hiền Bồ Tát dạy người phát nguyện: “Nguyện con lúc lâm chung, trừ sạch các chướng ngại”; đại sư Từ Vân dạy người phát nguyện: “Nguyện lúc mạng sắp dứt, tâm chẳng bị điên đảo”. Đấy toàn là lúc b́nh thời niệm Phật chẳng hề cầu không vọng tưởng vậy. Nay sao ta lại chẳng chịu khuyên người khác trước hết hăy niệm Phật cho nhiều, lại cứ một bề bức bách người khác phải trừ sạch vọng tưởng trước đă? Nhận đầu là đuôi, điên đảo quá sức!

Kinh dạy: “Nếu ông chẳng thể niệm đức Phật kia th́ hăy nên xưng A Di Đà Phật. Chí tâm như thế khiến cho chẳng ngớt tiếng, hễ đầy đủ mười niệm th́ liền được văng sanh”. Nếu tâm chẳng thể niệm nổi (niệm ở đây là quán tưởng tịnh cảnh và Phật thân theo các pháp quán đă dạy trong Quán kinh) th́ tâm ấy đă tán loạn đến cùng cực. Miệng xưng mười niệm mà được văng sanh chính là mang theo hoặc nghiệp đi văng sanh. Bởi thế, ngài Tây Trai mới đề thơ như sau:

 

Hồn phi tâm tán loạn

Phật hiệu tội tiêu dung

Liên thước như sơ nhật

Tây thăng Cực Lạc cung

 

(Tạm dịch:

Hồn bay, tâm tán loạn

Nhờ Phật hiệu tội tiêu

Sen sáng mặt trời mọc.

Về Tây, ngự Cực Lạc)

 

Kinh c̣n dạy: “Đời Mạt Pháp ức ức người tu hành, nhưng hiếm có một ai đắc đạo. Chỉ có ai nhờ vào niệm Phật th́ đều được độ thoát”. Đời Mạt Pháp ức ức người tu hành nhưng hiếm có một ai đắc đạo chính là chỉ người hiện thời vọng tưởng rối bời; c̣n “chỉ có ai nhờ vào niệm Phật th́ đều được độ thoát” chính là kẻ mang theo hoặc chướng đi văng sanh. Nếu thật sự phải đoạn sạch vọng tưởng mới gọi là Nhất Tâm Bất Loạn, mới được văng sanh Tây Phương th́ làm sao nuốt cho trôi đạo lư trong câu kinh vừa dẫn trên đây? Ta mới thấy là chúng sanh đời mạt nghiệp chướng quá nặng, mà công năng cứu đời của pháp này càng rơ ràng vậy; thậm chí cậy vào đại nguyện của Phật Di Đà gia bị nên chúng sanh mới có thể mang nghiệp hoặc đi văng sanh nổi! Âu cũng là do chúng sanh đă kết duyên sâu nặng cùng đức Di Đà.

“Định số niệm Phật, chẳng trừ vọng tưởng” giống như khi bị giặc cướp công thành, chỉ cốt bên trong giữ chắc không suy suyển th́ giặc sẽ tự nhiên tan lui; chứ chẳng cần phải dạy người phải trừ tan giặc cướp trước! Nếu phải trừ giặc trước th́ chỉ e do nội lực chẳng đủ nên c̣n bị mắc hại là đằng khác! Cũng giống như thế, người niệm Phật phải trừ vọng tưởng trước th́ càng trừ, vọng tưởng càng nhiều.

Xin phụng cáo cùng bậc hữu duyên: Chỉ cốt lập chí quyết định, ghi số tŕ danh, chẳng quản là vọng tưởng hay không vọng tưởng. Cần phải biết là pháp môn tu hành có pháp ngang, pháp dọc. Các tông khác thoát tam giới theo chiều dọc, phải đoạn vọng tưởng th́ mới được thành. Tịnh tông vượt ngang, vẫn có thể mang theo hoặc nghiệp đi văng sanh. Bởi vậy, người niệm Phật chẳng luận là tán loạn nhiều hay ít, chỉ cốt tin sâu, nguyện thiết sẽ quyết định văng sanh! Mang theo hoặc nghiệp là Ngang, đoạn vọng là Dọc. Bỏ Ngang chọn Dọc chẳng phải là trái nghịch nghĩa lư lắm ư?

Chẳng tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” là như trong các kinh có dạy: “Tâm niệm Phật th́ tâm là Phật; tâm chẳng niệm Phật th́ tâm chẳng phải là Phật”. Kinh cũng dạy: Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Tâm này chẳng làm Phật th́ tâm này chẳng là Phật. Người niệm Phật hiểu phân minh cái tâm bổn lai của chính ḿnh, hiểu: niệm Phật A Di Đà ở phương Tây là nương cậy vào Phật Di Đà ở phương Tây để hiển lộ cái tâm bổn lai của chính ḿnh. Trong niệm niệm, tâm ta hướng về Phật; trong niệm niệm Phật hướng đến tâm ta; tâm lẫn Phật hệt như nhau, tâm và Phật cùng một thể: cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn! Bởi thế, sách Yếu Giải viết:

“Rời ĺa cái tâm Vô Lượng Quang Thọ nhất niệm hiện tiền th́ không c̣n chỗ nào để có danh hiệu A Di Đà Phật, mà ĺa ngoài danh hiệu A Di Đà Phật th́ không c̣n biết nhờ vào đâu để chứng triệt để được cái tâm Vô Lượng Quang Thọ nhất niệm hiện tiền được nữa!”

Khi niệm Phật mà c̣n thắc mắc là ai đang niệm th́ chính là trên đầu chồng thêm một cái đầu nữa, đang cưỡi lừa c̣n đi kiếm lừa. Do đó, ngài Linh Phong mới quở: “Cứ cho tham thoại đầu là kỳ đặc, niệm Phật là tầm thường; vứt châu Như Ư, tranh nhau ngói gạch, thật đáng thương thay!”

Đại sư Kiên Mật nói: “Lúc kiếp trược hưng thạnh, chúng sanh cấu chướng nặng nề, đừng vừa tŕ danh vừa tham thoại đầu. Tham kèm thêm thoại đầu th́ sóng Trược Trí càng trào dâng, nhất định sẽ khởi lên tà kiến!” Đấy đều là những lời cứu cấp! Nếu như chẳng tin ắt sẽ dứt mất huệ mạng, ắt đọa tam đồ chịu khổ vô tận, trái nghịch chư Phật!

Xin chớ nghe lời các thầy khác khiến cho câu thoại đầu chữ “Ai” đó phá nát tâm bi triệt để của đức Phật ta và pháp môn đại phương tiện Chấp Tŕ Danh Hiệu. Kẻ tham thoại đầu đă tham chẳng đến nơi mà niệm cũng chẳng khởi. Ví dù có tham cứu được đến nơi đi nữa cũng vẫn là quỷ giữ thây, hễ vô minh vừa động đôi chút đă thiêu cạn nước cả bốn đại hải; chẳng bằng kẻ chẳng tham thoại đầu, trong mỗi niệm đều biết thẹn hổ, chuyên niệm A Di Đà, chóng thoát khỏi tam giới.

Đại sư Kiên Mật dạy: “Tịnh Độ chẳng thể lẫn với Thiền cơ. Ư kiến mới trái nghịch đôi chút th́ cả hai môn đều bị phá!” Quả nhiên, quả nhiên! Niệm Phật là đường thẳng, tham câu thoại đầu chữ “Ai” là đường cong. Bỏ đường thẳng đi theo đường cong th́ chẳng phải là đui mù hay sao? Tôi có những bài kệ khuyên các vị đồng học như sau:

 

Tổ sư khuyến nhữ mạc tham thùy

Định yếu tham thùy tất khiết khuy

Ấu tử bất thính từ phụ giáo

Tương thâu tha bảo phạm vương truy

 

(Dịch ư: Tổ sư khuyên ngươi đừng tham cứu câu “Người niệm Phật là ai?” Nếu cứ tham cứu sẽ bị thiệt tḥi. Trẻ nhỏ chẳng nghe lời dạy của từ phụ cứ toan trộm lấy của báu của người khác sẽ bị vua truy bắt)

 

Phật danh bổn xuất tự tâm điền

Cánh vấn thị thùy thực khả liên

Bảo tạng phân minh thân tự đắc

Tái hành cầu khất tức si điên

 

(Phật hiệu phát xuất tự tâm điền

C̣n hỏi là ai thật đáng thương!

Tạng báu phân minh ḿnh tự được

Lại c̣n xin xỏ, quá khùng điên!)

 

Thảng ư Tịnh Độ thực vô duyên

Cánh khứ tham thùy diệc bất thiên

Chỉ khủng“thùy” tự tham bất triệt

Tử vương nhất đáo tiện mang nhiên

 

(Nếu như Tịnh Độ thật vô duyên

Dẫu có tham Thiền cũng chẳng nên

Chỉ sợ chữ “ai” tham chửa thấu

Tử vương đă tới, dạ kinh phiền)

 

“Thùy” tự phân minh thị trực đề

Lăn xưng Phật giả tối tương nghi

Đạt Ma thân giáng nguyên nhân thử

Chỉ phạ kim nhân bị quỷ mê

 

(Dịch ư: Chỉ tham cứu phân minh câu thoại đầu chữ “Ai” (tức là câu “Ai là người niệm Phật”) th́ đó là cách tốt nhất dành cho những người lười niệm Phật. Tổ Đạt Ma đích thân thị hiện nơi Đông Độ cũng là do nguyên nhân này, chỉ sợ người tham cứu bị phiền năo làm mê hoặc mà thôi!)

 

Dẫu có bàn luận Bát Nhă cả ngàn lần th́ tính nóng vẫn khó dằn nên tôi mới làm những bài kệ như vậy để nhắc nhở những người cùng hạnh; đột nhiên có kẻ khác trách tôi thiếu đạo lư v́: người xuất gia mà nóng nảy th́ coi sao được? Tôi đă là Phật tử th́ dĩ nhiên phải thuận theo lời Phật dạy, nếu nghe có kẻ chống báng lời Phật làm sao không nổi nóng cho được! Pháp môn Niệm Phật phổ độ bị một câu thoại đầu chữ “Ai” đó cản trở th́ ngay đến các vị tổ sư của Tịnh Tông cũng nổi nóng nữa là! Bởi vậy, trong đời mạt này mới có bao nhiêu là sách vở được lưu truyền để quở trách những kẻ tà Thiền hoặc là để phá những thói tệ của đại chúng. Nếu như chẳng nổi nóng th́ Tịnh Tông sẽ bị chà sát đất, chúng ta cùng chúng sanh sẽ vĩnh viễn không có cách thoát khổ. Bởi thế, tôi mới thỉnh sư Thông Trí chứng minh cho tôi. Ngài mở rộng ḷng đại từ bi, viết tiếp thêm mấy bài kệ như sau:

 

Tŕ danh bổn thị Thích Ca tuyên,

Hà khổ tham “thùy” bối Phật ngôn

Mạc vị tham thùy kỳ đặc sự

Ty hào hệ niệm ác duyên khiên

 

(Tŕ Danh là do chính đức Phật Thích Ca dạy ra, sao lại phải mất công tham câu thoại đầu chữ “Ai” để đến nỗi trái nghịch lời Phật. Đừng có bảo tham thoại đầu câu ấy mới là kỳ đặc; hễ có mảy may ư niệm trói buộc th́ sẽ bị ác duyên lôi kéo!)

 

Thanh Triết Công lăo Tông môn tượng

Tham thoại thiền tư tứ thập niên

Tử hậu nhưng nhiên sanh phú quư

Chư quân hà bất tế tư nhiên

 

(Ngài Triết Công đời Thanh là bậc long tượng trong nhà Thiền, từng tham thoại đầu, tu Thiền suốt bốn mươi năm, chết đi vẫn bị sanh vào nhà phú quư! Sao quư vị chẳng nghĩ kỹ cho?)

 

Di Đà thùy thủ lập hoa tŕ

Tàm quư si nhi do bất tri

Cánh dục tham “thùy” sanh Tịnh Độ

Khủng cô Phật nguyện tự hồ đồ

 

(Phật Di Đà đứng x̣e tay [tiếp dẫn người văng sanh] bên ao hoa sen. Thẹn cho kẻ si mê đă chẳng hay biết, lại c̣n toan lấy việc tham câu thoại đầu chữ “Ai” để văng sanh Tịnh Độ. Chỉ sợ làm như vậy th́ là đă cô phụ đại nguyện của Phật v́ tự ḿnh hồ đồ [mà chẳng được văng sanh])

         

Cùng tử phiêu bồng lịch hữu niên

Y châu chỉ xuất thượng mang nhiên

Quy gia chánh thị Tŕ Danh lộ

Mông đổng thiền ḥa nhưng dục “thùy”!

         

(Đứa con đói nghèo phiêu bạt đă nhiều năm, đến khi có người chỉ cho hạt châu đeo nơi vạt áo vẫn cứ ngơ ngác. Đường để về được đến nhà chính là con đường Tŕ Danh, nhưng kẻ học Thiền u mê vẫn cứ muốn tham cứu công án chữ “Ai”)

 

Chẳng tham tịnh cảnh v́ tịnh cảnh chính là pháp thuộc về Tứ Thiền, Bát Định; đó là những pháp Thiên Tiểu. Nếu người niệm Phật tham đắm tịnh cảnh th́ chính là đă quay lưng với Đại Thừa để hướng theo Tiểu Thừa, bỏ lực dụng Diệu Hữu để nhận lấy cái thể Thiên Không, có đáng gọi là kỳ đặc đâu? Có khác chi chỗ nước tù đọng chẳng thể là nơi rồng ẩn náu; c̣n trong cảnh giới Đại Thừa th́ toàn thể đại dụng nằm ngay trong một câu A Di Đà mênh mông bát ngát như là biển cả, không có con rồng nào là chẳng thích sống trong ấy! Giáo lư phân minh như thế không cần biện luận nữa!

Tôi hay nghe các vị thầy khác thường khai thị vào lúc Chỉ Tịnh trong khi niệm Phật như sau: “Đây là dấu hiệu tốt, ai nấy nên chú tâm quán sát kỹ”. Coi chuyện không cần thiết là kỳ đặc rồi bỏ lửng câu niệm A Di Đà Phật; do suy nghĩ lầm lạc nên hương chẳng thèm thắp, Phật chẳng thèm niệm, thật là đáng thương thay! Niệm Phật nhiều ngày chẳng coi vào đâu, mới dưỡng tịnh đôi chút đă khen là hay, chẳng phải là đă trái nghịch ư chỉ “ChấpTŕ Danh Hiệu, Nhớ Phật, Niệm Phật” kinh đă dạy hay sao?

Chỉ Tịnh trong lúc Niệm Phật cũng chỉ giống như khi đi đường đă lâu, thấy mỏi mệt bèn tạm nghỉ mà thôi. Nếu coi đó là điều hay th́ chẳng phải là đă cô phụ đức từ phụ Di Đà suốt cả ngày mong ngóng chúng ta trên đài sen hay sao? Khai thị như thế th́ Thiền và Tịnh chẳng phù hợp nhau, cả hai pháp môn đều bị phá tan cả. Đáng tiếc là pháp môn thắng dị “vạn người tu vạn người văng sanh” bị biến thành pháp hắc ám giường đồng, cột sắt! Xưng danh là động, ngồi yên là tịnh, bỏ động giữ tịnh chẳng phải là bịnh tà hay sao?

Nếu như đại chúng chẳng chê bỏ lời tôi th́ xin nguyện cùng trừ bốn bịnh, cùng học cách ghi số niệm Phật của các vị Thiện Đạo và Vĩnh Minh: mỗi ngày niệm một vạn câu hoặc là mấy vạn, tận lực mà hành th́ nhất định sẽ văng sanh. Kẻ hậu học Cổ Côn này cảm kích bạn bè đă cực lực hộ tŕ khiến cho việc khắc kinh Di Đà lên đá cũng như các tâm nguyện khác được hoàn thành nên mới soạn sách này để tỏ bày chí nguyện phá sạch bốn bịnh. V́ thế, vào một ngày mùa Thu năm Quang Tự thứ bảy, tại chùa Hộ Quốc, nơi viện Di Đà, kính đốt bốn mươi tám lọn hương trên cánh tay để cúng dường Phật A Di Đà, chí tâm phát nguyện:

- Nguyện cho cuốn sách tầm thường này của con được lưu truyền khắp nơi chẳng dứt, diệt trừ tội khiên nhiều đời của con, đoạn trừ bốn thứ nghi hoặc của người đời, ai nấy y theo sách này tu hành đều chóng được viên thành Tịnh nghiệp. Giả sử có những kẻ thấy nghe chẳng tin th́ cũng nguyện cho họ cùng được sanh về Lạc Quốc.

Nguyện đem công đức này hồi hướng, trên th́ nguyện cho: Thánh thọ vô cương, thường hưởng phước lộc; dưới th́ nguyện nhân dân an vui, vĩnh viễn xa rời tai ách, lại nguyện cho tứ ân tam hữu pháp giới chúng sanh cùng sanh Cực Lạc. Ngửa mong những vị đồng học hiện tiền, thiện nam tín nữ, hết thảy những ai hữu duyên chớ nề bỉ lậu, cùng nhiếp thọ cả. Lại nói kệ rằng:

 

Tôi ở trong luân hồi

Chịu khổ chẳng tính nổi

Nay gặp Đại Pháp Môn

Quyết định dốc hết sức

Ngày niệm sáu vạn câu

Mặc kệ vọng tưởng loạn

Niệm đến chết làm hạn

Nhờ Phật đoạn vọng tưởng

Sanh biên địa Cực Lạc

Hoặc dự vào hạ phẩm

Đều được liễu sanh tử

Không c̣n tám khổ nạn

Xin khuyên các thiện hữu

Nên sớm hiểu Niệm Phật

Đừng tham duyên thế gian

Từ tối lại vào tối

Tôi nhớ lúc tại gia

Làm lắm việc ngỗ nghịch

Chẳng nhờ các thâm ân

Ắt sẽ đọa địa ngục

V́ vậy, khởi chơn tâm

Liều mạng khen Tịnh Độ

Khen mà được người nghe 

Diệt tội con khi trước

Phật luôn đại từ bi

Khiến con hết ngu bướng

Chưa chứng đắc biện tài

Thuyết pháp như rồng, hổ

Để báo các ân sâu

Để cứu tam đồ khổ

Nếu như chẳng vừa ḷng

Đành đợi được bổ xứ

Ở trong cơi Tây Phương 

Con cảm ân đại chúng

Được măn nguyện Thạch Kinh (khắc kinh trên đá)

V́ thế soạn sách này

Để đáp tạ, lễ hiến

Kính nguyện người hành theo

Chớ đừng cải biến nữa

Ắt sanh về Tây phương

Sớm gặp mặt Di Đà

Con trong lúc giải thất (1)

Cực lực cạn ḷng viết

Nhờ Phật lực gia hộ

Soạn thành Tứ Yếu Quyết

Đại cư sĩ Phúc An

Viết tựa và giúp in

Phổ nguyện người thấy nghe

Đồng sanh cơi Cực Lạc

Ai cáo các đồng học

Thương tấm ḷng của tôi

Xin chớ có xem thường

Quyển Tứ Yếu Quyết này

Nếu con nói dối trá

Lôi hỏa ắt thiêu thân

Nếu thật hợp ư Phật

Lâm chung quyết văng sanh